Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội liên hệ với vấn đề dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.34 MB, 44 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
····☼···�

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
LIÊN HỆ VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

LỚP CC01 NHÓM 12 --- HK 211
NGÀY NỘP 05/10/2021

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn

Sinh viên thực hiện

Mã sốố sinh viên

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021

Đi m
ể sốố


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Dân tộc là một khái niệm được hình thành trong suốt q trình lịch sử hình thành
của lồi người và đã gắn bó mật thiết với đời sống vì vậy vấn đề dân tộc là một trong
những vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đối với dân tộc ta, chủ
nghĩa dân tộc còn tác động trực tiếp đến sự nghiệp dựng nước, giữ nước trong suốt 4000


nghìn năm lịch sử. Hơn nữa, dân tộc cũng là yếu tố quyết định đối với phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc. Theo nghĩa hẹp, dân tộc là tộc người sống chung một quốc gia
còn theo cách nghĩ rộng hơn, dân tộc là quốc gia – dân tộc trên thế giới.
Tình hình trong nước: Đảng và Nhà Nước ta vẫn rất chú trọng đến việc giải quyết
tốt các vấn đề dân tộc và bước đầu đã đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ trên các
phương diện kinh tế, quốc phòng – an ninh, văn hóa – xã hội, chính trị. Các thành tựu
tiêu biểu như tỷ lệ hộ nghèo giảm; cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu
số được nâng cao. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn đọng một số vấn đề như việc ứng
dụng các tư liệu sản xuất, khoa học kỹ thuật còn hạn chế, vẫn còn những hủ tục, tập tục
lạc hậu và vẫn cịn sự chống phá, xun tạc các chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng
và Nhà Nước ta từ các thế lực thù địch
Tình hình quốc tế: Hiện nay, các quốc gia có những điểm tương đồng đã thành lập
những liên minh quốc tế về khu vực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa, sự
đồn kết đa sắc tộc. Hơn nữa, sự tồn cầu hóa kinh tế và sự ra đời của các tập đoàn kinh
tế đa quốc gia đã thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc. Nhưng những cuộc di dân đã
dẫn đến sự khủng hoảng về sắc tộc, nạn phân biệt chủng tộc nhất là ở các nước tư bản
đã trở nên trầm trọng hơn, tư tưởng cực đoan về sắc tộc ngày càng dẫn đến những tội
phạm nguy hiểm.
Vì vậy, nhận thức đúng tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc là tối quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức và quan niệm về dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin là
2


“kim chỉ nam” cho tư duy và hoạt động chính trị, cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng
và Nhà nước Việt Nam trong hoạch định và thực thi đường lối.
2. Lý do chọn đề tài “vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội”
Vấn đề dân tộc và một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay và sinh viên là đối
tượng phù hợp để tiến hành nghiên cứu về chủ đề này, từ đó hình thành những ý niệm
cơ bản, hình thành ý thức về đoàn kết dân tộc Việt Nam, bảo vệ sự đồn kết ấy, hịa
nhập với thế giới chứ khơng hịa tan. Ngồi ra, qua bài nghiên cứu này cịn giúp sinh

viên tơn trọng các dân tộc, quốc gia khác, triệt tiêu hoàn toàn tư tưởng phân biệt chủng
tộc.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc
Hai là, làm rõ vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Ba là, làm rõ Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
4. Đối tượng nghiên cứu:
Thứ nhất, dân tộc trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Thứ hai, nêu những thực trạng và giải pháp khắc phục vấn đề dân tộc

3


Phần Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
Chương 1.....................................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.....................................5
1.1. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

5

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc

5

1.1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc

13


1.1.3: Quan điểm của CN Mác – Lênin về quan hệ dân tộc - giai cấp

15

1.2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn
đề dân tộc...................................................................................................................20
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...........................................................................................21
Chương 2...................................................................................................................23
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................................23
2.1. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam................................................................................23
2.1.1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam

23

2.1.2. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc
26
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân tộc Việt Nam.33
2.2.1. Những thành tựu về việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta hiện
nay
33
2.2.2. Một số hạn chế cần khắc phục

35

2.2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân tơ >c Viêt>
Nam
37
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................39
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................40

Tài liệu tham khảo....................................................................................................42

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc
“Dân tộc” là cụm từ thiêng liêng của một đất nước cho thấy nơi đó là q hương
của họ, nơi mang lại bình yên và cùng nhau chung tay xây dựng đất nước, vượt qua
các rào cản trong xã hội để tìm thấy hạnh phúc cho cả dân tộc. Dân tộc có thể chỉ một
cộng đồng người chia sẻ một ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc, hoặc lịch sử. Tuy
nhiên, nó cũng có thể chỉ những người có chung lãnh thổ và chính quyền (ví dụ những
người trong một quốc gia có chủ quyền) khơng kể nhóm sắc tộc. Ở chủ nghĩa xã hội
khoa học, khái niệm về dân tộc được hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
như sau: Dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội lồi người, trải qua các hình
thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi
của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng
dân tộc. Khái niệm trên đã nêu rõ những cái chung nhất về dân tộc của một cộng
đồng, một quốc gia làm nổi bật được tính quan trọng của vấn đề dân tộc trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra, theo quan điểm về dân tộc ở phương Tây, dân tộc chỉ xuất hiện khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập thay thế phương thức sản xuất
phong kiến. Còn quan điểm về dân tộc ở phương Đông, dân tộc được hình thành trên
cơ sở một nền văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muồi và một
cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất định song nhìn chung cịn kém phát
triển và ở trạng thái phân tán. Qua đây, khái niệm và quan điểm của phương Tây và

phương Đông cũng chỉ rõ ra sự khác biệt, nhưng mục đích chung nhất vẫn là phát
triển dân tộc và xây dựng để ngày càng phát huy vấn đề dân tộc.

5


Ở Việt Nam,trên bước đường ra đi tìm đường cứu nước, chính tinh thần dân tộc
và lợi ích dân tộc là yếu tố chủ đạo trong tư tưởng cách mạng của thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành. Việc tìm và lựa chọn con đường cứu nước của Người không chỉ là
thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân với Tổ quốc, mà còn là gánh vác
trọng trách, sứ mệnh thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc.
Quan điểm về vấn đề dân tộc đến hiện nay được hiểu theo hai nghĩa khác nhau:
Vấn đề dân tộc theo nghĩa rộng và vấn đề dân tộc theo nghĩa hẹp.
Vấn đề dân tộc theo nghĩa rộng:
Dân tộc (nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm
thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngơn ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính
trị, kinh tế, truyền thơng văn hóa và truyền thơng đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Dân tộc là hình thái phát triển cao nhất của tộc
người, xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái của tộc
người trong xã hội nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là bộ
tộc). Dân tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn
ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Với nghĩa này,
khái niệm dân tộc dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước.
Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là cộng đồng chính trị - xã hội, được hình thành do sự tập hợp
của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau cùng chung sống
trên một lãnh thổ nhất định và được quản lý thống nhất bởi một nhà nước. Kết cấu của
cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh
kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một quốc gia dân tộc có tộc người đa số và các

tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến trình độ dân tộc, song nhiều tộc người ở
trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy, quan hệ giữa các tộc người rất đa dạng
và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách dân tộc để duy trì sự ổn định và phát
triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển của đất nước.

6


Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, dân tộc có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ là dấu
hiệu xác định khơng gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu thị vùng đất,
vùng trời, vùng biển mà mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Lãnh thổ là yếu tố thể hiện
chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các quốc gia dân tộc khác. Trên
khơng gian đó, các cộng đồng tộc người có mối quan hệ gắn bó với nhau, cư trú đan
xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người gắn bó với việc xác lập và bảo vệ
lãnh thổ quốc gia.
Đối với quốc gia và từng thành viên dân tộc, yếu tố lãnh thổ là thiêng liêng nhất.
Khơng có lãnh thổ thì khơng có khái niệm Tổ quốc, quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc
gia là nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ quyền quốc
gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định thường được thể chế hóa thành luật
pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử có những trường hợp bị chia cắt
tạm thời, nhưng khơng thể căn cứ vào đó mà cho rằng cộng đồng ấy đã bị thành hai
hay nhiều dân tộc khác nhau, sự chia cắt đó là một thử thách đối với tính bền vững của
một cộng đồng dân tộc.
Trong bối cảnh tồn cầu, cầu hóa hiện nay, q trình di cư khiến khơng ít cư dân
của một quốc gia lại cư trú ở nhiều quốc gia, châu lục khác. Vậy nên, khái niệm dân
tộc, lãnh thổ, hay đường biên giới khơng chỉ bó hẹp trong biên giới hữu hình, mà đã
được mở rộng thành đường biên giới “mềm”, ở đó dấu ấn văn hóa lại chính là yếu tố
mạnh nhất để phân định ranh giới giữa các quốc gia dân tộc.

Thứ hai, dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận,
các thành viên trong dân tộc, tạo nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc.
Mối quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu
tính cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa thể trở thành
dân tộc.
7


Ở Việt Nam, các yêu cầu đổi mới của nền kinh tế Việt Nam để đạt tốc độ tăng
trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang nghiên cứu, xem xét những vấn đề
đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, vai
trò của kinh tế tư nhân được nhìn nhận sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh kinh tế
cho quốc gia.
Thứ ba, dân tộc có chung một ngơn ngữ làm cơng cụ giao tiếp.
Mỗi một dân tộc có ngơn ngữ riêng, bao gồm cả ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết,
làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và
tình cảm. Trong một quốc gia có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngôn ngữ khác
nhau, nhưng bao giờ cũng sẽ có một ngơn ngữ chung, thống nhất. Tính thống nhất
trong ngôn ngữ dân tộc được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp
và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ dân tộc là một ngôn ngữ đã phát triển và sử thống
nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
Ở Việt Nam, tiếng Việt cũng gọi là tiếng Việt Nam, Việt ngữ là ngôn ngữ của
người Việt và là ngơn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng
hơn 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt cịn là ngơn ngữ
thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng
Hòa Séc. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại Chương
I Điều 5 Mục 3, ghi tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam.
Thứ tư, dân tộc có chung một nền văn hóa và tâm lý.

Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Văn hóa là những biểu hiện cơ bản của con người trong quá trình đấu tranh sinh
tồn và phát triển, đồng thời văn hóa cũng là những hoạt động nhận thức thực tiễn
nhằm tạo ra những biến đổi của xã hội, của môi trường xung quanh và bản thân con
người. Văn hóa là sản phẩm có tính cộng đồng sau đó được triển khai thành một sản
phẩm có tính cá nhân với tư cách là một thành viên của cộng đồng. Văn hóa tác động
8


theo ba quá trình: quá trình cải tạo vật chất, quá trình cải tạo cơ cấu xã hội, quá trình
cải tạo tâm lý xã hội (quan hệ giữa con người với con người).
Văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng
tạo ra trong lịch sử và là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản
thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát
triển của mỗi dân tộc, giúp người dân giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất,
tính nhất qn trong q trình phát triển. Xét về bản chất, nó khơng chỉ thể hiện tinh
thần, linh hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc mà còn là những nét độc đáo rất
riêng của dân tộc này so với các dân tộc khác. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ với
văn hóa của các cộng đồng tộc người trong một quốc gia. Văn hóa là một yếu tố đặc
biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo
của riêng mình. Trong sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc những
thành phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa chung của dân
tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó.
Cá nhân hoặc nhóm người nào từ chối những giá trị văn hóa dân tộc thì họ đã tự
mình tách khỏi cộng đồng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc khơng thể phát triển nếu
khơng giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giao lưu văn hóa,
các dân tộc ln có ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng
hóa về văn hóa. Chính vì thế, có thể nói văn hóa của dân tộc là yếu tố mang sức mạnh
tinh thần giúp dân tộc vượt qua những thử thách và khó khăn, trở ngại trong quá trình

đấu tranh và giành lại sự hịa bình cho mỗi dân tộc. Mỗi một dân tộc đều có những nét
văn hóa khác biệt và độc đáo được thể hiện rõ ràng qua những đặc trưng như cách
thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ. Đây là một cách thức để từng bước hiện thực
hóa thế giới quan, nhân sinh quan mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống
xã hội. Ngồi những cách thức tư duy, lối sống thì văn hóa của một dân tộc cịn được
thể hiện qua những khía cạnh về ngôn ngữ, trang phục, phong tục tập quán, lễ nghi,
kiến trúc, kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian. Đây là những biểu hiện vô cùng
phong phú và đa dạng của văn hóa trong đời sống và xã hội, một mặt phản ánh sự tiếp
nối của lịch sử dân tộc, mặc khác là cái hiện hữu cụ thể của đời sống dân tộc đang
được diễn ra.
9


Văn hóa dân tộc đều đại diện cho sự khác biệt, độc đáo và đặc sắc của mỗi một
nền dân tộc trên thế giới. Chính vì thế, những nét văn hóa đặc trưng ấy là một yếu tố
quan trọng góp phần tạo nên một bức tranh đầy màu sắc rực rỡ cho nền văn minh của
nhân loại. Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tinh hoa ấy đã và
đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và thậm chí cịn có những giải pháp cụ thể
trong quá trình phát triển những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Một trong những tổ chức lớn với nhiệm vụ bảo tồn những giá trị văn hóa dân
tộc có thể kể đến như tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
(UNESCO). Bên cạnh đó, cịn những cách bảo vệ những bản sắc văn hóa khác như
thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục truyền thống
cho các thế hệ trẻ. Tận dụng tối đa những ưu thế của công nghệ thông tin để tuyên
truyền, giới thiệu và quảng bá những nét đẹp văn hóa của dân tộc.
Thứ năm, dân tộc có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc).
Nhà nước dân tộc (state-nation) là thuật ngữ xuất hiện trong nền chính trị
phương Tây. Khái niệm nhà nước dân tộc được hiểu là hình thái nhà nước hậu Trung
cổ ở châu Âu, sau hòa ước Westphalia (1648), khi mà quyền lực nhà nước tách ra khỏi
quyền lực của Giáo hội, nó là quyền lực tối cao trong phạm vi lãnh thổ mà nó quản lý.

Những tiêu chí cơ bản là nền tảng của hình thái nhà nước dân tộc là: Mỗi nhà nước
dân tộc, trước hết là một quốc gia có lãnh thổ xác định. Mỗi lãnh thổ quốc gia được
cai quản bởi một nhà nước có bộ máy chính quyền nhất thể từ trung ương đến địa
phương. Chính quyền trung ương có quyền lực tối cao, với tư cách đại diện hợp pháp
và duy nhất cho chủ quyền quốc gia. Trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia, mỗi cá nhân
là một cơng dân bình đẳng trước pháp luật. Hình thành ý thức về quyền cơng dân, ý
niệm về xã hội công dân.
Các thành viên cũng như các cộng đồng người trong một dân tộc đều chịu sự
quản lý, điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố phân biệt dân tộc - quốc
gia và dân tộc - tộc người. Dân tộc - tộc người trong một số quốc gia khơng có nhà
nước với thể chế chính trị riêng. Hình thức tổ chức, tính chất của nhà nước do chế độ

10


chính trị của dân tộc quyết định. Nhà nước là đặc trưng cho thể chế chính trị của dân
tộc, là đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
Các đặc trưng cơ bản nói trên gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể,
đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Các đặc trưng ấy có quan hệ nhân quả,
tác động qua lại, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và độc đáo trong lịch sử hình
thành và phát triển của dân tộc, tạo nên tính ổn định, bền vững của cộng đồng dân tộc.
Vấn đề sự hình thành nhà nước dân tộc ở Việt Nam Trên dải đất hôm nay là
nước Việt Nam chúng ta vốn đã có các tộc người sinh sống từ nhiều ngàn năm. Các
tộc người ấy liên kết thành dân tộc từ bao giờ và nước Việt Nam hình thành như thế
nào là vấn đề cịn có nhiều kiến giải khác nhau. Cộng đồng dân tộc gắn liền với cộng
đồng quốc gia, là một cộng đồng dân tộc – quốc gia, nghĩa là phải có một bộ máy
chính quyền nhà nước, phải khẳng định quyền tự quyết dân tộc, quyền tự chủ quốc gia
thông qua người đại diện hợp pháp duy nhất là nhà nước, một nhà nước trung ương có
quyền lực tuyệt đối trên tồn bộ lãnh thổ của mình. Nhà nước dân tộc và văn hóa dân
tộc ở Việt Nam khơng phải được hình thành tiệm tiến trong phương thức sản xuất

châu Á. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, quá trình tiếp biến văn hóa Hán lâu dài đã đem lại
những đổi mới toàn diện và sâu sắc trong xã hội và văn hóa Việt Nam. Sự hình thành
nhà nước dân tộc và văn hóa dân tộc Đại Việt là bước phát triển đột biến, kết quả của
quá trình giao lưu tiếp biến này.
Theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnic) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng dân
tộc người được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung ý thức tự giác tộc người, ngơn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ
lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng đồng
đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của quốc gia. Chẳng hạn,
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc tức 54 cộng đồng tộc người. Sự khác nhau giữa
các cộng đồng tộc người ấy biểu hiện chủ yếu ở đặc trưng văn hóa, lối sống, tâm lý, ý
thức tộc người. Liên quan đến ngành Dân tộc học, đến chính sách dân tộc của Đảng
cầm quyền và Nhà nước, đó là quan hệ trên hai phạm vi: Quan hệ giữa các tộc người
11


trong một địa phương, khu vực của từng quốc gia, ví dụ: quan hệ giữa người Kinh với
người Tày, người Kinh với người Chăm, giữa người Mông và người Thái và quan hệ
nội bộ tộc người hay giữa các nhóm địa phương của một tộc người, như quan hệ giữa
các nhóm Dao, giữa các nhóm Nùng với nhau.
Dân tộc - tộc người có một số đặc trưng cơ bản sau:
Cộng đồng về ngơn ngữ (bao gồm ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn
đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển dân
tộc người vì nhiều ngun nhân khác nhau, có những tộc người khơng cịn ngơn ngữ
mẹ đẻ sử mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
Ở Việt Nam, có 8 hệ ngơn ngữ được sử dụng để giao tiếp: Nhóm sử dụng ngơn
ngữ Việt Mường (4 dân tộc); Nhóm sử dụng ngơn ngữ Tày Thái (8 dân tộc); Nhóm
ngơn ngữ Mơng – Dao (3 dân tộc); Nhóm ngơn ngữ Ka Đai (4 dân tộc); Nhóm ngơn

ngữ Tạng Miến (6 dân tộc); Nhóm ngơn ngữ Mơn Khơ Me (21 dân tộc); Nhóm ngơn
ngữ Nam Đảo (5 dân tộc); Nhóm ngơn ngữ Hán (3 dân tộc).
Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi
tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo
của dân tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền thống
văn hóa của họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu
thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người. Ở Việt Nam, nét đẹp văn
hóa truyền thống Việt Nam có từ ngàn đời xưa, bao gồm phong tục tập quán. trang
phục truyền thống.
Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc
trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc mình;
đó cịn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù cho có
những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng của giao
lưu kinh tế, văn hóa. Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên quan
trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
12


Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát
triển. Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc người ở
Việt Nam hiện nay.
Thực chất, hai cách diễn giải về khái niệm và quan niệm về vấn đề dân tộc tuy
không đồng nhất nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau, khơng tách rời nhau. Dân tộc
quốc gia bao hàm dân tộc tộc người. Dân tộc tộc người là bộ phận hình thành dân tộc
quốc gia. Dân tộc tộc người ra đời trong những quốc gia nhất định và thơng thường
những nhân tố hình thành dân tộc tộc người không tách rời với những nhân tố hình
thành quốc gia. Đấy là lý do, khi nói đến dân tộc Việt Nam thì khơng thể bỏ qua 54
cộng đồng tộc người, trái lại, khi nói đến 54 cộng đồng tộc người ở Việt Nam phải gắn
liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam.

1.1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
Trong khi thực hiện nghiên cứu về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu
hướng khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng
dân tộc độc lập. Bởi vì sự phát triển đến mức cao nhất của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh
về quyền sống của chính mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các
quốc gia dân tộc độc lập. Và thực tế đã chỉ ra rằng xu hướng này diễn ra ở những quốc
gia, những khu vực nơi có những cộng đồng dân cư với nhiều nguồn gốc tộc người
khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Trong lịch sử, xu hướng này đã trở nên các phong
trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, bóc lột của các nước thực dân, đế quốc từ đó
hướng tới thành lập các quốc gia độc lập. Xu hướng này đã tác động rõ rệt trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động đến với chủ nghĩa đế quốc sau này.
Trong xu hướng này, nhiều cộng đồng dân cư đã tự ý thức được rằng, chỉ trong cộng
đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền tự quyết con đường phát triển của chính dân tộc
mình
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp với nhau, Xu hướng thứ hai phát huy nổi bật vai trò
trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc và thực hiện
13


các cuộc xâm lược, bóc lột và áp bức các nước và dân tộc thuộc địa. Chính vì vậy, sự
phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản
đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt
lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau, đặc biệt ngày nay cịn có sự xích
lại gần nhau để hợp nhất trở lại thành một quốc gia thống nhất như đã tồn tại trong
lịch sử
Trong giai đoạn hiện nay, hai xu hướng này đã diễn ra với nhiều biểu hiện đa
dạng và phong phú trong nhiều phạm vi
Phạm vi một quốc gia: Xu hướng thứ nhất thể hiện qua sự cố gắng của mỗi dân

tộc để chống lại sự áp bức, bóc lột của chế độ cầm quyền, từ đó đi tới sự tự do, bình
đẳng và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai thể hiện qua sự thúc đẩy nhu
cầu các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau hơn trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Xích lại gần nhau trong sự tự nguyện và bình đẳng này tạo điều kiện cho
các dân tộc có thêm điều kiện vật chất, tinh thần. Ngoài ra tiềm năng của dân tộc này
cũng là tiềm năng của dân tộc anh em khác, bản sắc và tinh hoa, những giá trị của dân
tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau thành những giá trị chung nhưng khơng hịa
tan vào nhau mà ngược lại, cịn giúp gìn giữ những giá trị văn hóa vốn có. Đặc biệt là
ở các nước xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng tác động cùng chiều, bổ sung và hỗ trợ cho
nhau trong cộng đồng quốc gia và các mối quan hệ dân tộc. Cả hai xu hướng đều loại
trừ tư tưởng và hành vi kì thị và phân biệt chủng tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti và xung đột
dân tộc. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định:
“Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với củng cố, phát triển của cộng đồng
các dân tộc ở nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình
hợp thức quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất khơng mâu thuẫn, khơng bài
trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”1
Phạm vi quốc tế: Hiện nay, xu hướng thứ nhất được thể hiện trong phong trào
giải phóng dân tộc nhằm chống lại chủ nghĩa thực dân đế quốc và chống chính sách
đơ hộ, áp bức và độc lập dân tộc chính là mục tiêu chính trị chính của tất cả quốc gia
1 Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. (1986). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB: Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.45.

14


trong thời điểm hiện nay. Độc lập dân tộc là xu hướng khách quan, là chân lý của thời
đại, là sức mạnh tạo nên quá trình phát triển của dân tộc. Và xu hướng thứ hai thể hiện
ở việc các dân tộc muốn xích lại gần nhau, hợp tác để hình thành các liên minh trong
phạm vi khu vực, từ đó tạo điều kiện cho các dân tộc tận dụng tối đa cơ hội và điểm
thuận lợi từ bên ngoài để phát triển dân tộc mình. Các liên minh này xuất phát từ

những yếu tố như vị trí địa lý, một số tương đồng trong giá trị văn hóa, lịch sử và
thậm chí là những kẻ thù chung ở bên ngoài
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc có sự thống nhất biện chứng
với nhau, đồng thời tác động qua lại với nhau, hỗ trợ cho nhau và mọi sự vi phạm mối
quan hệ biện chứng này đều sẽ dẫn tới những hệ lụy tiêu cực, khó lường. Hiện nay, cả
hai xu hướng diễn ra khá phức tạp trên phạm vi quốc tế và trong từng quốc gia, thậm
chí cịn bị lợi dụng vào mục đích chính trị nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hịa
bình”. Hai xu hướng này đang vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp
nhiều trở ngại khi xu hướng này bị chủ nghĩa để quốc phủ nhận, vì nguyện vọng của
các dân tộc được sống tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ và
các chủ nghĩa đế quốc lập ra các khối liên hiệp nhằm áp đặt, không để xu hướng này
tiếp tục phát triển. Nhận thức rõ hai xu hướng này, mỗi dân tộc phải biết thi hành
những chính sách độc lập tự chủ để mở cửa và hội nhập vào sự vận động chung của
nhân loại nhưng cũng phải đồng thời giữ được những nét bản sắc riêng và phát huy
chúng. Đảng ta đã khẳng định: “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác
quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” 2là nguyên tắc thống nhất của
đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
1.1.3: Quan điểm của CN Mác – Lênin về quan hệ dân tộc - giai cấp
Trong giá trị bền vững tư tưởng dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin khi giải quyết
các mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc – giai cấp là nhấn mạnh đến việc dân tộc nào và
ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan điểm
của một giai cấp nhất định. Đây chính là cơ sở lý luận cũng như phương pháp luận
cho việc nhận định những chiến lược, sách lược của Đảng và nhân dân ta về vấn đề
giai cấp, dân tộc trên cơ sở vừa đảm bảo được sự thống nhất, vừa đáp ứng được sự
2 Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Chính sách đối ngoại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. NXB: Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.55

15



khác biệt giữa lợi ích các giai cấp, quốc gia và nhân loại trên nền tảng truyền thống
yêu nước và nhân ái của dân tộc.
Quan điểm của C-Mác, Ph-Ăngghen:
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C-Mác và Ph-Ăngghen đã nêu lên vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Các ông nhận định rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ
sản ban đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của
khối đại đa số, đem về lợi ích cho số đơng. Vì thế, các cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản cầm quyền, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc đúng
nghĩa, nhưng mang hình thức dân tộc. Qua đó, C-Mác đã kêu gọi: “giai cấp vơ sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân
tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo cái nghĩa như giai
cấp tư sản hiểu.”3
Các ông cũng cho rằng, khi chủ nghĩa tư bản tiến đến giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, chúng sẽ trở nên lỗi thời về mặt lịch sử, và chỉ có giai cấp vơ sản mới có thể
thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và cả dân
tộc, có khả năng xóa bỏ tình trạng bóc lột, mang lại sự độc lập tự do cho dân tộc mình
và dân tộc khác dẫn đến sự tiến bộ của nhân loại. C-Mác và Ăngghen cũng đã kêu gọi
với khẩu hiệu: “Vơ sản tồn thế giới đồn kết lại” với ý nghĩa rằng chỉ có giai cấp vơ
sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của mình có thể làm được việc này và
điều kiện quan trọng nhất cho sự thành công của cách mạng đó là sự đồn kết.
C-Mác và Ăngghen đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp và không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Nhưng hai ông không đi
sâu vào việc giải quyết vấn đề dân tộc, vì ở Châu Âu vấn đề này đã được giải quyết
trong cách mạng tư sản. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản ở Châu Âu đó là giữa giai cấp tư
sản và vơ sản và giai đoạn này các phong trào giải phóng dân tộc chưa phát triển. Các
ơng nhấn mạnh: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ”, “khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong
nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất

3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.623-624, 624.

16


theo” 4. Theo luận điểm của hai ông, để giải quyết đối kháng dân tộc, trước tiên phải
giải quyết sự đối kháng giai cấp, đó là nhiệm vụ trung tâm và là điều kiện để giải
phóng dân tộc.
Quan điểm của V.I.Lênin:
Quan điểm của Lênin ra đời trong bối cảnh nửa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX,
chủ nghĩa tư bản đã chuyển mình sang giai đoạn đế quốc, giai cấp tư bản trở thành
giai cấp phản động toàn diện với những biểu hiện sau: quân sự hóa về kinh tế, phát xít
hóa về chính trị, gây chiến tranh xâm lược khắp nơi, thế giới xuất hiện hai hệ thống là
các nước đế quốc và các nước thuộc địa. Vì thế, vấn đề dân tộc, dân tộc thuộc địa đã
trở thành vấn đề cấp bách trong phong trào cách mạng thế giới cùng với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản. Và để phát triển luận điểm của C-Mác và Ăngghen, Lênin
đã viết nhiều tác phẩm về vấn đề dân tộc, mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và dân
tộc như “Về quyền dân tộc tự quyết” (1914), “Sơ thảo lần thứ nhất những vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa” (1920). Qua hai tác phẩm tiêu biểu, tư tưởng của Lênin được
thể hiện qua một số nội dung sau:
Một là, Lênin phê phán chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản. Ông khẳng định,
giai cấp tư sản đã giải quyết các vấn đề dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc
một cách trừu tượng và hình thức và đó là một sự dối trá nhằm tiêu diệt các mầm
mống đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp cầm quyền. Ơng cũng chỉ ra rằng
chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản là sự ích kỷ, hẹp hịi, “cá lớn nuốt cá bé”, tạo ra
những quốc gia độc lập về chính trị nhưng phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản về các
phương diện: kinh tế, tài chính, quân sự,… “Chế độ dân chủ tư sản, do bản chất của
nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về quyền bình đẳng
nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp dưới hình thức quyền
bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng
hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và người vơ sản, giữa
kẻ bóc lột và người bị bóc lột, do đó làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một

cách ghê gớm. Ý niệm bình đẳng, - bản thân nó chỉ là sự phản ánh những quan hệ sản
4 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.623-624, 624.
17


xuất hàng hóa, - đã bị giai cấp tư sản biến thành một vũ khí đấu tranh chống lại việc
thủ tiêu giai cấp dưới chiêu bài của quyền bình đẳng tuyệt đối của cá nhân. Ý nghĩa
thật sự của việc địi quyền bình đẳng chung quy chỉ là địi thủ tiêu giai cấp” 5. Ông phê
phán chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc Sơ vanh, vì ơng cho rằng điều này
gây hại cho phong trào công nhân của chính nước đó nói riêng và phong trào quốc tế
nói chung. “Người nào đứng trên quan điểm của chủ nghĩa dân tộc thì tự nhiên là
người đó sẽ đi đến chỗ có ý thức muốn dùng bức vạn lý trường thành để quây bọc lấy
dân tộc mình và phong trào cơng nhân của dân tộc mình, người đó sẽ không băn
khoăn ngay cả trước việc phải xây những bức tường riêng ở từng thành phố, địa
phương, làng mạc, người đó sẽ khơng ngần ngại dùng cả sách lược chia rẽ và phân tán
để biến thành con số không lời di huấn vĩ đại về việc làm cho vô sản thuộc mọi dân
tộc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ, sát cánh và thống nhất nhau lại” 6. “Những thành
kiến dân tộc cũng tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh, những thành kiến này được
nuôi dưỡng thường xuyên tại những nước văn minh vì lợi ích của các giai cấp thống
trị, nhằm làm cho quần chúng vô sản không chú ý tới những nhiệm vụ giai cấp của
bản thân họ và quên mất nghĩa vụ đoàn kết giai cấp quốc tế”7
Hai là, V.I.Lênin cũng khẳng định, vấn đề dân tộc phải được giải quyết trên
quan điểm của giai cấp vô sản vì chỉ có giai cấp vơ sản mới bảo vệ quyền tự do thực
sự của các dân tộc và sự thống nhất của công nhân thuộc mọi dân tộc. “Nhưng, đối với
giai cấp tư sản thì yêu sách về quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế thường là sự tuyên
truyền cho tính bản vị dân tộc và chủ nghĩa sôvanh và rất thường hay gắn liền với việc
tuyên truyền cho sự chia rẽ dân tộc và việc làm cho các dân tộc xa rời nhau. Chủ
nghĩa quốc tế vơ sản tuyệt đối khơng dung hịa với lập trường đó vì chủ nghĩa quốc tế
tun truyền khơng những cho sự gần gũi giữa các dân tộc, mà cho cả sự liên hợp của
công nhân thuộc tất cả các dân tộc ở một quốc gia trong những tổ chức thống nhất của

giai cấp vô sản”8
Ba là, nhằm khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa giai cấp và dân tộc, Lênin
cho rằng việc gắn kết phong trào công nhân với phong trào giải phóng dân tộc là vấn
5 Tồn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.198, 198-199, 198-199, 203.
6 Tồn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.393-394
7 Tồn tập, t.17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.227.
8 Toàn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.167, 319.
18


đề sống còn, là điều kiện tiên quyết trong sự đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Bác
Hồ đã đánh giá: “Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Lênin là người đầu tiên đã hiểu và đánh
giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào
phong trào cách mạng. Lênin là người đầu tiên chỉ rõ ràng, nếu khơng có sự tham gia
của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội khơng thể có được” 9. Lênin nhấn
mạnh sự phụ thuộc của vấn đề dân tộc vào vấn đề giai cấp, qua đó dù vai trị của giải
phóng dân tộc rất quan trọng nhưng ông vẫn khẳng định sự thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc lệ thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản. Nhưng Lênin cũng
phê phán xu hướng tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc, đặt vấn đề dân tộc lên trên vấn đề
giai cấp. “Giai cấp tư sản bao giờ cũng đặt những yêu sách dân tộc của mình lên hàng
đầu. Nó nêu những yêu sách đó ra một cách tuyệt đối. Đối với giai cấp vơ sản, những
u sách đó phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp” 10. Ngồi ra, Lênin
cũng khẳng định vấn đề dân tộc có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc sẽ góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh giai cấp, vào cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa và ông cũng kiên quyết chống lại tư tưởng xem nhẹ vấn đề dân
tộc mà chỉ xem xét vấn đề giai cấp.
Bốn là, Lênin khẳng định phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ
phận trong cách mạng vô sản thế giới. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng mười ở
Nga, Lênin nhấn mạnh sự kết hợp giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản với phong
trào giải phóng dân tộc “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể tiến hành được dưới

hình thức kết hợp cuộc nội chiến của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các
nước tiên tiến với cả một loạt phong trào dân chủ cách mạng, kể cả phong trào giải
phóng dân tộc trong các nước chưa phát triển”11. Theo Lênin, giai cấp vô sản ở các
nước tiên tiến cần ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, đồng thời giai cấp vơ sản ở các nước thuộc địa cần có sách lược đúng đắn để lãnh
đạo tốt phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với đó, giai cấp vơ sản ở mỗi dân tộc đều
phải ý thức đoàn kết, thực hiện chủ nghĩa quốc tế vơ sản: “...cịn chủ nghĩa quốc tế vơ
sản thì địi: thứ nhất, lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong một nước
phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản trong phạm vi tồn
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.136.
10 V.I.Lênin: Tồn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.167, 319
11 VI.Lênin: Toàn tập, t.30, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1981, tr.146
19


thế giới; hai là, các dân tộc đang chiến thắng giai cấp tư sản, phải có khả năng và sẵn
sàng chịu đựng những hy sinh rất lớn của dân tộc mình để lật đổ tư bản quốc tế”12
Tư tưởng của Lênin đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa Mác, có
tác dụng chỉ đạo giai cấp vơ sản nhằm lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa. Sau này, Hồ Chí Minh đã cũng đã khẳng định: Lênin đã đặt tiền đề
cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa. Giá trị bền vững
trong tư tưởng của V.I.Lênin khi giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc, giai cấp
là ở chỗ ông luôn nhấn mạnh, vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và
giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Trong thời
đại mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, đây là những cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng Sản
về vấn đề giai cấp, dân tộc trên cơ sở vừa đảm bảo được sự thống nhất, vừa đảm bảo
sự khác nhau giữa lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân loại
1.2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc

Quan điểm 1: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc.
Các dân tộc hồn tồn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc lớn hay nhỏ khơng phân biệt
trình độ phát triển cao hay thấp đều có ý nghĩa và quyền lợi ngang nhau; không một
dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật
pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình
đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan
hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
Quan điểm 2: Các dân tộc được quyền tự quyết

12 V.I.Lênin: Tồn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.198, 198-199, 198-199, 203.
20


Quyền các dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình, quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển
của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra
thành lập ra một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm
quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng với lợi ích để có
đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Quan điểm 3: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân
tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó
đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp

xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời
nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến
thắng kẻ thù của mình. Đồn kết, liên hiệp cơng nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc
để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung
liên hiệp cơng nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh
thành một chỉnh thể. Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế
tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành một sức mạnh vơ cùng to lớn.
Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân
tộc, quốc gia xích lại gần nhau.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã nêu bật lên vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa dân
tộc, trước hết là làm rõ quan điểm về dân tộc theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp và
những đặc trưng cơ bản của dân tộc nhằm làm rõ sự quan trọng của dân tộc. Chủ
nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc cũng đã được làm rõ trong chương 1 qua hai xu
21


hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc trên toàn thế giới trong lịch sử
cũng như tương lai. Hơn nữa, quan điểm của C-Mác, Ph-Ăngghen về vấn đề dân tộc
cũng được tiếp nối bởi V.I. Lênin tạo nên sự hình thành về đường lối cho các nước Xã
Hội Chủ Nghĩa trong thời kỳ quá độ. Từ đó, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc đã được nêu lên nhằm đem lại sự
bình đẳng, quyền tự quyết và sự liên kết giữa các dân tộc. Vấn đề dân tộc có liên hệ
mật thiết với vấn đề giai cấp và Chương 1 đã nêu lên được mối quan hệ đó để từ đó,
nêu ra những vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và
những giải pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước

22



Chương 2

VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người có những quan điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh có 82.085.826 người,
chiếm 85,3% dân số Việt Nam, dân tộc thiểu số có 14.123.158 người chiếm 14.7% cập
nhật số liệu vào ngày 1 tháng 4 năm 2019. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc cũng không
đồng đều, có dân tộc với số dân lớn hơn 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khơ me,
Mơng), nhưng có dân tộc với số dân mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó
khăn cho việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát
triển giống nịi. Do vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt
đối với những dân tộc thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có
những chính sách quan tâm đặc biệt.
Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán, xen
kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam khơng có lãnh thổ tộc người riêng. Vì vậy,
khơng có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn.
Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu
biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn
hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen kẽ nên trong

23



quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.
Theo kết quả tổng điều tra năm 2019, dân số thành thị là 33.122.548 người,
chiếm 34,4% tổng dân số cả nước; dân số nông thôn là 63.086.436 người, chiếm
65,6%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực thành thị giai đoạn 2009-2019 là
2,64%/năm, tăng gấp sáu lần so với tỷ lệ tăng dân số bình qn năm khu vực nơng
thơn song vẫn thấp hơn mức tăng 3,4%/năm của giai đoạn 1999-2009. Tỷ lệ dân số
sống ở khu vực thành thị của Việt Nam đã tăng lên những vẫn đang ở mức thấp so với
các nước trong khu vực Đông Nam Á, chỉ cao hơn Ti-mo Lét-xtê (31%), Mi-an-ma
(29%) và Cam-pu-chia (23%).
Dân số Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế - xã hội, trong
đó, Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung dân cư lớn nhất của cả nước với 22,5 triệu
người, chiếm 23,4% tổng dân số cả nước; tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung với 20,2 triệu người đang sinh sống, chiếm 21,0%. Tây Ngun là nơi
có ít dân cư sinh sống nhất với 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số cả nước.
Giai đoạn 2009-2019, Đơng Nam Bộ có tỷ lệ tăng dân số bình quân cao nhất cả
nước (2,37%/năm), đây là trung tâm kinh tế năng động, thu hút rất nhiều người di cư
đến làm ăn, sinh sống và học tập; Đồng bằng sơng Cửu Long có tỷ lệ tăng dân số bình
quân thấp nhất (0,05%/năm).
Kết quả TĐT năm 2019 cho thấy, quy mô dân số chủ yếu của các tỉnh trên cả
nước là từ 1 đến 2 triệu người (35 tỉnh), tiếp đến là nhóm các tỉnh có quy mô dân số
nhỏ, dưới 1 triệu người (21 tỉnh), 7 tỉnh có quy mơ dân số trên 2 triệu người. Hai
thành phố là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có quy mơ dân số lớn nhất cả nước
(tương ứng là 8.053.663 người và 8.993.082 người), trong đó chênh lệch về dân số
giữa địa phương đông dân nhất cả nước (thành phố Hồ Chí Minh) và địa phương ít
dân số nhất cả nước (tỉnh Bắc Kạn) là trên 28 lần.
Việc phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương chủ yếu là do điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tiếp cận việc làm, giáo dục và dịch vụ y tế của một số
địa phương có lợi thế hơn hẳn các địa phương khác nên di cư để lựa chọn nơi sinh

sống phù hợp hơn là một trong những lý do làm gia tăng chênh lệch về tăng dân số ở
24


một số địa phương. Tình hình này xảy ra ngay cả trong điều kiện những tỉnh có đơng
dân nhưng tỷ lệ sinh luôn thấp hơn mức sinh thay thế trong nhiều thập kỷ qua.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bổ chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng.
Mặc dù chỉ chiếm 14.7% dân số cập nhật ngày 1 tháng 4 năm 2019, nhưng 53 dân
tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú trên ¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu
của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phịng, mơi trường sinh thái - đó là vùng
biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước. Một số dân tộc có quan hệ dịng tộc
với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Mơng,
dân tộc Khmer, dân tộc Hoa; do vậy, các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng VN - cho ví dụ vào ----Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển khơng đều.
Các dân tộc ở nước ta cịn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của
các dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc
thiểu số Việt Nam ở những trình độ phát triển khác nhau: Một số ít các dân tộc cịn
duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại bộ phận các dân
tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chun mơn kỹ thuật
của nhiều dân tộc thiểu số cịn thấp.
Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc, phải từng bước giảm, tiến tới xóa bỏ khoảng
cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là nội dung quan
trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam để các dân tộc
thiểu số phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm: Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết gắn bó lâu đời trong cộng
đồng dân tộc - quốc gia thống nhất.


25


×