1
TÀI LIỆU CHUYÊN ĐỀ
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
2
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM – ĐỐI TƯỢNG – MỤC TIÊU CỦA PHÂN TÍCH
1. Khái niệm:
Phân tích tài chính ngân hàng thương mại là hoạt động nghiên cứu,
đánh giá quá trình kinh doanh, kết quả kinh doanh của ngân hàng; từ đó chỉ
ra mặt mạnh, điểm yếu cũng như khả năng tiềm tàng của ngân hàng để có
biện pháp tốt nhất cho việc cải tiến nâng cao chất lượng kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
2. Đối tượng phân tích:
Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng thương
mại là kết quả kinh doanh của ngân hàng được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu kinh tế. Đối tượng phân tích có thể là kết quả của từng mặt hoạt động
như: tình hình dự trữ, doanh số cho vay, số tiền huy động được v.v… hoặc
nó có thể là kết quả tổng hợp của quá trình kinh doanh như lợi nhuận.
3. Mục tiêu phân tích:
Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi
ro là yếu tố không thể tránh khỏi trên con đường tìm kiếm lợi nhuận của
ngân hàng thương mại. Các rủi ro chủ yếu là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín
dụng, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất v.v…. Các rủi ro này bao trùm lên tất cả
hoạt động của ngân hàng thương mại. Các nhà phân tích không loại bỏ
được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp xử lý
hữu hiệu.
Như vậy, mục tiêu đầu tiên của phân tích hoạt động kinh doanh
ngân hàng thương mại là nhận biết và dự đoán các loại rủi ro để đưa ra
các giải pháp phòng ngừa và chống đỡ hữu hiệu.
3
Mặt khác, mục tiêu quan trọng của phân tích hoạt động kinh doanh
ngân hàng thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, vì lợi nhuận là yếu tố quyết
định sự sống còn của ngân hàng thương mại. Các lĩnh vực hoạt động có
khả năng mang lại lợi nhuận cao luôn là điều hấp dẫn đối với các nhà
quản trị.
Tóm lại, hai mục tiêu chính của phân tích hoạt động kinh doanh
ngân hàng thương mại là phát hiện các lĩnh vực kinh doanh có khả năng
mang lại lợi nhuận cao; đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro
phát sinh trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên, lợi nhuận và rủi ro
là hai yếu tố song hành. Lĩnh vực kinh doanh sinh lợi nhuận càng cao
thì khả năng bị rủi ro càng lớn. Do đó, các quản trị gia phải sáng suốt,
khách quan để có thể lựa chọn một chiến lược kinh doanh phù hợp với thực
trạng ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH
1. Đối với ngân hàng ngoại thương
- Để điều hành tốt hoạt động kinh doanh của ngân hàng, Ban Giám
đốc không những phải biết nghiên cứu thị trường, tổ chức hoạt động, hạch
toán mà còn phải thường xuyên phân tích hoạt động ngân hàng để phát hiện
kịp thời mặt mạnh, điểm yếu của đơn vị mình từ đó có những giải pháp
thích hợp trong việc sử dụng vốn, lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
- Phân tích, kiểm tra hoạt động ngân hàng là khâu quan trọng trong
công tác quản trị. Phân tích kết quả kinh doanh là việc xem xét, đo lường
quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh. Khi một chiến lược mới được
đưa vào thực hiện, nhà quản trị cần kiểm tra, phân tích để phát hiện các sai
lệch giữa thực tiễn và kế hoạch, xác định nguyên nhân, đề ra giải pháp xử
lý. Với nhà lãnh đạo, việc phân tích, đánh giá đúng năng lực hoạt động của
ngân hàng sẽ giúp họ kịp thời đưa ra các quyết định cần thiết, đúng lúc và
hiệu quả. Một chiến lược tốt, tạo được chỗ đứng vững chãi cho ngân hàng
trên thị trường chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở phân tích chính xác và
có căn cứ khoa học.
- Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là lãnh vực chứa đựng nhiều rủi ro.
Phân tích đánh giá thường xuyên hoạt động ngân hàng sẽ giúp ban lãnh đạo
4
đưa ra các giải pháp hữu hiệu, kịp thời giúp ngân hàng tránh được các tổn
thất có thể gặp trong quá trình kinh doanh.
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý vĩ mô trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước là làm lành mạnh
và ổn định nền tiền tệ quốc gia, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và
bình đẳng giữa các định chế tài chính. Vì vậy, bên cạnh một hệ thống luật
lệ rõ ràng, chặt chẽ, thị trường tiền tệ cần có một vị quan toà nghiêm minh,
đầy quyền lực để bảo đảm sự công bằng, ổn định trong kinh doanh.
- Trong thị trường liên ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mối quan
hệ về vốn, tiền đan chéo với nhau rất đa dạng, phức tạp. Quan hệ này giống
như một dây chuyền mà mỗi mắt xích là một tổ chức tín dụng. Nếu một
mắt xích bị đứt thì cả dây chuyền sẽ bị ảnh hưởng. Một ngân hàng bị phá
sản thường kéo theo sự sụp đổ của một vài ngân hàng nhỏ, làm suy yếu hệ
thống tiền tệ của quốc gia. Với chức năng quản lý của mình, Ngân hàng
Nhà nước có thể phát hiện những mắt xích yếu nhất và đưa ra giải pháp
khắc phục nhằm cứu vãn hoặc làm hạn chế tác hại lan truyền của nó.
- Trong kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại quản lý một
bộ phận lớn của cải xã hội dưới dạng tiền ký thác. Ngân hàng thương mại
không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng khối tài sản này với
nhiều trách nhiệm ràng buộc. Vì vậy, ngoài việc xây dựng một hệ thống
luật pháp để điều chỉnh, Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên giám sát,
buộc các tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm vật chất đối với người ký
gởi. Ngân hàng Nhà nước là đại diện của Chính phủ trong việc bảo vệ tài
sản của người gởi tiền. Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp một số thông
tin về tình hình hoạt động của từng ngân hàng thương mại cho công chúng.
Qua công tác thanh tra kiểm soát, Ngân hàng Nhà nước đã góp phần tạo và
giữ gìn “chữ tín” – sản phẩm vô giá cho các ngân hàng thương mại.
- Mặt khác, các định chế tài chính là nơi cất giữ phần lớn các khoản
tiết kiệm của xã hội, là người phân phối các khoản tín dụng, chủ yếu là
trung tâm thanh toán của cả nước, là cơ quan duy nhất có chức năng tạo
tiền v.v… do đó, Chính phủ luôn cố gắng tác động và kiểm soát các ngân
hàng thương mại bằng cách giao cho Ngân hàng Nhà nước quyền giám sát
và thường xuyên kiểm tra hoạt động ngân hàng thương mại. Qua giám sát,
5
Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hiện những yếu kém trong quản lý, gian lận
trong kinh doanh cũng như các biến động tiềm ẩn trong và ngoài nước để
từ đó có thể ban hành các chính sách hữu hiệu cho nền kinh tế.
3. Đối với xã hội:
Các ngân hàng thương mại không thể tồn tại nếu không xác lập
được mối quan hệ với các tầng lớp dân cư. Mối quan hệ đó có thể là hợp
tác kinh doanh như hùn vốn, mua cổ phần hoặc có thể là quan hệ giữa
khách hàng và người cung cấp vốn. Khi đặt mối quan hệ với bất kỳ ngân
hàng nào, các nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân tích khả năng kinh
doanh, chất lượng dịch vụ cũng như uy tín của ngân hàng đó, được như vậy
mối quan hệ giữa hai bên mới lâu bền và tốt đẹp.
Tại các nước có nền kinh tế phát triển, các ngân hàng thương
mại buộc phải công khai các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của
mình trên các phương tiện thông tin đại chúng như: sách báo, trung
tâm giao dịch chứng khoán v.v tạo điều kiện cho các thể nhân, pháp
nhân có nhu cầu đầu tư tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) tìm hiểu,
đánh giá để “chọn mặt gởi vàng”, tránh tình trạng lừa đảo, hiểu sai do
thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác.
Tóm lại, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại là
việc làm tất yếu đối với từng ngân hàng thương mại và với toàn xã hội.
Phân tích giúp nhà quản trị nhận diện được những yếu kém của đơn vị
mình để có những ứng phó kịp thời và phát hiện những lãnh vực kinh
doanh tốt có khả năng mang lại lợi nhuận cao để đầu tư. Phân tích chính
xác, khoa học là cơ sở xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với ngân
hàng thương mại trong từng giai đoạn phát triển. Trong vĩ mô, phân tích &
đánh giá đúng tình hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại sẽ giúp
Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ góp phần ổn định và
tăng trưởng kinh tế.
III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH:
Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại phải dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng cụ thể:
1. Nghiên cứu hiện tượng kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách
quan. Phân tích hoạt động kinh tế là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt
động thực tiễn của các ngân hàng thương mại, làm cho nó phù hợp với từng
6
điều kiện cụ thể và với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan. Muốn
vậy đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng các số liệu chính xác, trung thực
kết hợp với các phương pháp phân tích khoa học để đánh giá thực trạng
ngân hàng, tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí trong phân tích.
2. Phải xem xét, nghiên cứu các hiện tượng kinh tế ở trạng thái
vận động và phát triển. Bản thân số liệu trong một báo cáo kế toán không
phản ảnh đúng chất lượng cũng như xu hướng tiến triển của hiện tượng. Do
vậy, để đánh giá đúng hiện tượng, các nhà quản trị phải nghiên cứu số liệu
qua nhiều kỳ kế toán nhằm phát hiện xu hướng phát triển cũng như tính
quy luật của hiện tượng. Từ đó có thể đưa ra các nhận định đúng đắn về sự
kiện, hiện tượng đó.
3. Phải nghiên cứu hiện tượng trong một không gian và thời gian
nhất định. Mọi hiện tượng đều có quá trình hình thành, phát triển và biến
đổi trong một môi trường nhất định. Vì vậy, muốn đánh giá bản chất của
hiện tượng, các nhà phân tích không chỉ nghiên cứu tình hình hiện tại mà
còn quan tâm đến hoàn cảnh cụ thể cũng như môi trường mà hiện tượng đó
phát sinh. Chẳng hạn, cùng một hiện tượng ở cùng một mức độ, nếu tồn tại
trong điều kiện này thì được đánh giá tốt nhưng trong điều kiện khác thì bị
nhận định xấu.
4. Hiện tượng kinh tế phải được xem xét trong mối quan hệ hữu
cơ với các hiện tượng kinh tế khác. Một hiện tượng kinh tế thường ảnh
hưởng hoặc chịu tác động bởi nhiều hiện tượng kinh tế khác. Bởi vì các
hiện tượng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do đó, muốn đánh giá
đúng hiện tượng, tìm đúng nguyên nhân của sự kiện, xác định đúng các
nhân tố ảnh hưởng đến sự việc các nhà quản trị cần xem xét toàn diện các
mối quan hệ liên quan đến nó. Nói cách khác, khi phân tích các hiện tượng
các nhà phân tích không nghiên cứu từng hiện tượng riêng lẻ, cô lập mà
phải xem xét chúng trong mối quan hệ với các hiện tượng kinh tế khác.
5. Khi phân tích phải phát hiện được các mâu thuẫn, phân loại
mâu thuẫn và đề ra các biện pháp giải quyết mâu thuẫn. Quá trình vận
động và phát triển của các hiện tượng kinh tế luôn tồn tại các mâu thuẫn.
Chính việc tìm ra mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là động lực chủ yếu
và xác định nguyên nhân của mâu thuẫn là cơ sở quan trọng giúp nhà quản
trị xây dựng các chiến lược phù hợp cho kỳ hoạt động sau.
7
IV. KỸ THUẬT PHÂN TÍCH
1. Kỹ thuật so sánh:
- Muốn nghiên cứu mức biến động, tốc độ tăng trưởng của hiện tượng
dùng phương pháp so sánh với số liệu tháng trước, năm trước v.v…
- Muốn xem xét tính chu kỳ của sự kiện, nhà quản trị so sánh số hiện
tại với số cùng kỳ năm trước.
- Muốn xác định tính khả thi cũng như hiệu quả của các chiến lược,
khi phân tích, các số liệu thực tế được so sánh với số kế hoạch.
- Muốn đánh giá, so sánh hoạt động của ngân hàng với các tổ chức tín
dụng khác trên địa bàn, các nhà quản trị nên so sánh với số bình quân
của hệ thống ngân hàng trên địa bàn hoặc số liệu tương ứng của một
vài định chế tài chính có môi trường kinh doanh tương tự.
- Muốn phân tích khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường, các nhà
quản trị nên so sánh với mức cung cầu sản phẩm của nền kinh tế;
chẳng hạn, nhu cầu ký thác, thanh toán, vay vốn v.v…
* Xác định điều kiện so sánh
Khi so sánh, nhà phân tích phải tuân thủ các yêu cầu sau:
- Bảo đảm sự thống nhất về nội dung kinh tế của các chỉ tiêu phân
tích.
- Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính, đơn vị tính.
2. Kỹ thuật liên hệ:
Các hiện tượng kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết với một hoặc
nhiều hiện tượng kinh tế khác. Để lượng hoá các mối quan hệ này các nhà
phân tích thường áp dụng các kỹ thuật liên hệ sau:
- Liên hệ cân đối: chẳng hạn, mối quan hệ giữa tổng vốn & tổng
nguồn, giữa nhu cầu & khả năng thanh toán v.v….
- Liên hệ trực tuyến: ví dụ lợi nhuận có sự liên hệ cùng chiều với
doanh số cho vay, lãi suất tín dụng và có mối quan hệ ngược chiều
với thuế, chi phí v.v….
8
- Liên hệ phi tuyến: là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu; trong đó, mối
quan hệ giữa chúng luôn thay đổi hướng và tỷ lệ quan hệ. Ví dụ mối
quan hệ giữa lãi suất, tỷ giá với lợi nhuận.
V. CÁC LOẠI HÌNH PHÂN TÍCH
5.1 Dựa vào thời hạn phân tích
- Phân tích thường xuyên
- Phân tích định kỳ
5.2 Dựa theo nội dung phân tích
- Phân tích chuyên đề
- Phân tích toàn diện
5.3 Dựa vào phạm vi phân tích:
- Phân tích điển hình.
- Phân tích tổng thể
VI. CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH CHỦ YẾU.
1. Bảng tổng kết tài sản (Balance Sheet):
Khái niệm:
Bảng tổng kết tài sản (hay bảng cân đối tài sản) là một báo cáo
tài chính tổng hợp phản ánh toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình
thành tài sản đó của ngân hàng tại một thời điểm nhất định.
BTKTS là một báo cáo tài chính quan trọng, và chủ yếu nhất. Dựa
vào BTKTS người quản trị có thể biết được tài sản hiện có, hình thái vật
chất, cơ cấu tài sản, tình hình hoạt động kinh doanh và kết quả tài chính của
ngân hàng. Thông qua BTKTS, các nhà phân tích có thể nghiên cứu, đánh
giá trình độ quản lý, chất lượng kinh doanh cũng như dự đoán những triển
vọng của ngân hàng trong tương lai.
2. Kết cấu Bảng tổng kết tài sản:
Bảng tổng kết tài sản được chia thành hai phần:
- Tài sản có hoặc tích sản (Assets)
9
- Tài sản nợ hoặc tiêu sản và vốn chủ sở hữu (Liabilities &
Capital)
Sao cho:
Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ + Vốn chủ sở hữu
3. Nội dung Bảng tổng kết tài sản
Bảng TKTS được chia thành hai phần. Phần nội bảng và phần ngoại
bảng.
3.1 Phần nôi bảng
- Tài sản nơ: Tài sản nợ hoặc nguồn vốn của ngân hàng thương
mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động, tạo lập được,
dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
khác . Tài sản nợ bao gồm các thành phần chủ yếu như: vốn huy
động, vốn vay, vốn trong thanh toán v.v…
- Vốn sở hữu chủ gồm: vốn pháp định, vốn điều lệ, các quỹ, lợi
nhuận để lại v.v…
- Tài sản có: Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân
hàng. Các tài sản có sinh lời là các khoản mục chủ yếu tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng thương mại. Tài sản có bao gồm các khoản
mục sau: tiền dự trữ, các khoản đầu tư chứng khoán, các khoản mục
tín dụng và tài sản có khác như tài sản cố định, vật liệu, công cụ lao
động, các khoản phải thu, tài sản thiếu hụt, mất mát v.v….
3.2 Phần ngoại bảng:
Ngoài các giao dịch được phản ảnh trong nội bảng tổng kết tài sản,
các ngân hàng còn tham gia các hoạt động chưa được thừa nhận là vốn
hoặc là nguồn của ngân hàng. Các hoạt động này hiện được theo dõi tại
các khoản mục ngoại bảng. Một số nghiệp vụ ngoại bảng đáng chú ý là :
- Các nghiệp vụ bảo lãnh: Bảo lãnh mở L/C, bảo lãnh công nợ, bảo
lãnh đấu thầu v.v….
- Các giao dịch hối đoái có kỳ hạn như Swaps, Future, Options v.v…
- Các chứng từ có giá, những cam kết mua bán trong tương lai v.v….
10
Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay
đổi kết cấu cân số BTKTS, nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế
phát sinh trong quá trình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động
mạnh mẽ đến độ an toàn của ngân hàng.
Rủi ro ngoại bảng có thể phát sinh ngay khi ngân hàng nhận thực
hiện các nghiệp vụ ngoại bảng. Bởi vì, khách hàng có thể yêu cầu ngân
hàng thực hiện cam kết ngay thời điểm ngân hàng gặp khó khăn về vốn
hoặc tình trạng của ngân hàng có thể xấu đi từ khi ngân hàng ký cam
kết đến khi ngân hàng thực hiện các cam kết đó.
Do đó, khi phân tích hoạt động ngân hàng thương mại, bên cạnh việc
nghiên cứu các hoạt động trong BTKTS, các nhà quản trị cần phải quan
tâm đến mức độ và diễn biến của các hoạt động ngoại bảng. Bởi vì, độ rủi
ro của các hoạt động này cũng ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh
của ngân hàng thương mại.
3.3 Đặc điểm của Bảng Tổng Kết Tài Sản:
3.3.1 Bảng tổng kết tài sản là báo cáo kế toán tại một thời điểm
nhất định
Nếu hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại được xem
như một cuốn phim thì BTKTS là tấm ảnh “chụp” lại “diện mạo” của
ngân hàng mà nhà quản trị nếu chỉ dựa vào một BTKTS thì dễ vấp phải
nhiều sai lầm nghiêm trọng. Đó là chưa kể đến trường hợp “tấm ảnh” đã
được tô điểm , sửa đổi lại cho cân đối hơn, hài hoà hơn…. để hoàn mỹ
hơn và để dễ chấp nhận hơn.
Tính thời điểm là hạn chế lớn nhất của BTKTS. Để khắc phục đặc
điểm này các nhà ngân hàng cần phải xem xét thêm nhiều báo cáo kế toán
hỗ trợ khác; đồng thời, phải nghiên cứu BTKTS trong nhiều kỳ báo cáo để
có thể đưa ra những nhận định chính xác về tình hình hoạt động của ngân
hàng; chỉ rõ được mặt mạnh, điểm yếu và đề ra được nhiều biện pháp khả
thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3.3.2 Tính đặc thù của Bảng tổng kết tài sản của ngân hàng
thương mại:
Đối tượng kinh doanh của ngân hàng thương mại là tiền tệ và quyền
sử dụng tiền tệ. Chính điều này đã làm cho BTKTS của các ngân hàng
11
thương mại nói riêng và của các tổ chức tín dụng nói chung có nhiều điểm
khác biệt với BTKTS của các doanh nghiệp phi tài chính. Thật vậy, hầu hết
tài sản nợ của ngân hàng thương mại là các khoản nợ về tài chính. Vốn tự
có của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Sự
khác biệt về thành phần tích sản giữa ngân hàng thương mại với doanh
nghiệp khác xuất phát từ sự khác biệt về bản chất tiêu sản và đặc điểm kinh
doanh mà đơn vị đang thực hiện. Đối với tổ chức phi tài chính phần lớn
lợi nhuận được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh: do đó, họ cần
nhiều tài sản cố định, nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho v.v…; ngược
lại, lợi tức của ngân hàng thương mại có được chủ yếu từ việc đầu tư và
cho vay, cho nên các ngân hàng thương mại nằm giữ nhiều trái phiếu,
kỳ phiếu và các công cụ tài chính khác làm cơ sở cho các khoản tiền sẽ
được thanh toán trong tương lai.
4. Báo cáo thu nhập – Chi phí – Kết quả kinh doanh
Báo cáo thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh (Income Statement)
là bảng tổng kết tình hình tài chính của ngân hàng. Qua báo cáo này các
nhà lãnh đạo, có thể biết được tình hình thu – chi, mức độ lỗ, lãi trong kinh
doanh để kịp thời đề ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ hoạt động.
Phân tích từng khoản mục thu nhập và chi phí sẽ giúp hạn chế những khoản
chi bất hợp lý, có biện pháp tăng cường các khoản thu, hầu nâng cao lợi
nhuận cho ngân hàng.
Báo cáo được phân thành các phần chủ yếu sau:
- Phần thu nhập.
- Phần chi phí
- Phần lợi nhuận – Kết quả kinh doanh
Ngoài hai báo cáo trên, trong phân tích ngân hàng thương mại các
nhà quản trị còn sử dụng nhiều báo cáo khác như: báo cáo về các khoản
mục cho vay, các khoản mục đầu tư, tình hình huy động vốn, báo cáo ngoại
tệ v.v Đây là các báo cáo tài chính quan trọng giúp các nhà quản trị đánh
giá chính xác thực trạng kinh doanh của đơn vị, từ đó đề ra được các giải
pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong
tương lai.
12
CHƯƠNG 2:
PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG TÀI SẢN CÓ
I. CÁC KHOẢN MỤC TÀI SẢN CÓ (ASSETS):
Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng. Các tài
sản có sinh lời là các khoản mục chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân
hàng thương mại.
Tài sản có bao gồm các khoản mục sau:
1. Tiền dự trữ:
Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư.
- Dự trữ bắt buộc (DTBB): Là khoản tiền Ngân hàng Nhà nước yêu
cầu các ngân hàng thương mại phải thường xuyên duy trì theo một tỷ
lệ nhất định trên tổng số tiền huy động. Tỷ lệ DTBB phụ thuộc vào
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ nhất
định. Khoản dự trữ này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cũng
như chi phí của ngân hàng thương mại.
- Dự trữ thặng dư: Để đảm bảo nhu cầu thanh toán và giảm rủi ro
thanh khoản, các ngân hàng luôn có sẵn một khoản dự trữ nhất định
để thoả mãn các nhu cầu rút tiền và cho vay trong kỳ.
2. Các khoản đầu tư chứng khoán.
Chứng khoán là chứng từ xác nhận quyền về tài sản của người
sở hữu chứng khoán. Chứng khoán có hai loại:
- Chứng khoán nợ gọi chung là trái phiếu.
- Chứng khoán vốn gọi chung là cổ phiếu.
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mang lại cho ngân hàng thương
mại một khoản lợi nhuận tương đối lớn. Trong trường hợp chưa tìm ra
khách hàng đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải
quyết vốn một cách hữu hiệu nhất cho ngân hàng. Song đầu tư chứng
khoán là nghiệp vụ mang lại nhiều rủi ro. Do đó, ngân hàng cần phân tích
kỹ trước khi lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư. Việc phá sản của Ngân
13
hàng Barings trong tháng 2/1995 là bài học cho những ngân hàng
muốn phiêu lưu trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
3. Các khoản mục tín dụng:
Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Nguồn thu từ hoạt động cho vay chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu
nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, tín dụng là lãnh vực có nhiều rủi ro và
phức tạp nhất. Rủi ro tín dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng
như: xây dựng chiến lược sai, thẩm định hồ sơ không chính xác, cho vay
không đúng các nguyên tắc tín dụng vv….cũng có thể do các nguyên
nhân khách quan như: hoả hoạn, thiên tai, khách hàng bị phá sản v.v….
Tín dụng liên quan chặt chẽ với tất cả lãnh vực của nền kinh tề từ tiêu dùng
đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
nghiệp vụ tín dụng ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn các nhu cầu về vốn
cho nền kinh tế, thu hút nhiều khách hàng và tạo điều kiện tăng lợi nhuận
cho ngân hàng thương mại.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại thường áp dụng các hình thức
tín dụng như: chiết khấu các chứng từ có giá, tín dụng chấp nhận, thấu chi,
ứng trước, tín dụng thuê mua. Factoring, bảo lãnh, tài trợ ngoại thương
v.v…
4. Tài sản có khác.
Bao gồm:
- Tài sản cố định, vật liệu & công cụ lao động: Đây là những tư liệu
lao động cần thiết, là cơ sở vật chất quan trọng không thể thiếu đối
với các tổ chức kinh doanh tiền tệ.
- Các khoản phải thu, tài sản thiếu hụt, mất mát trong kinh doanh.
- Các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán.
II. PHÂN TÍCH TỔNG QUÁT TÀI SẢN CÓ:
Một trong những nguyên tắc cơ bản để tiến hành hoạt động phân tích
là phải sắp xếp lại đối tượng phân tích theo một trật tự nhất định phù hợp
với mục tiêu phân tích. Sau đó, nhà quản trị sẽ nghiên cứu tỷ trọng của
từng loại khoản mục tài sản có để có thể đưa ra những nhận định khái quát
về cách phân bổ vốn của ngân hàng.
14
Chỉ số phân tích:
Số dư từng khoản mục tài sản
có
Tỷ trọng
từng khoản
mục
tài sản có
=
Tổng tài sản có
* 100
Với chỉ số này, các nhà phân tích sẽ nắm được kết cấu của tài sản có,
qua đó có thể nhận định được mặt mạnh, điểm yếu của ngân hàng. Bởi vì,
mỗi khoản mục tài sản có đều có khả năng sinh lời và độ an toàn trong
kinh doanh khác nhau. Bước phân tích này sẽ quyết định đến các chiến
lược kinh doanh “đầu ra” của ngân hàng thương mại trong từng thời kỳ
nhất định.
III. PHÂN TÍCH KHOẢN DỰ TRỮ:
1. Dự trữ bắt buộc:
DTBB là một trong các công cụ quản lý và điều hành chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước dùng chính sách dự trữ
bắt buộc để kiểm soát khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương
mại và điều hoà khối lượng tiền trong lưu thông. Theo yêu cầu này, các
ngân hàng thương mại phải có nhiệm vụ dự trữ một tỷ lệ nhất định trên số
vốn huy động. Tỷ lệ DTBB do Ngân hàng Nhà nước ban hành và thay đổi
theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ nhất định. Số tiền
DTBB có thể là tiền gởi DTBB tại Ngân hàng Nhà nước, tiền mặt tồn quỹ
tại ngân hàng thương mại. Cơ cấu DTBB cũng thay đổi theo mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
Thực trạng chính sách DTBB của Việt Nam cho thấy đến giữa năm
1995, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung đều vi phạm chế độ DTBB
một cách thường xuyên và liên tục. Bởi vì, trong giai đoạn này, DTBB của
các ngân hàng được ký gởi trong một tài khoản riêng biệt và chỉ sử dụng
cho mục đích duy nhất là thực hiện các quy định về DTBB. Điều này đã
gây nhiều khó khăn cho ngân hàng trong quản trị nguồn vốn. Theo thuyết
tạo tiền, nếu tỷ lệ DTBB là 10% thì toàn hệ thống ngân hàng thương
mại có thể đầu tư gấp 10 lần số vốn huy động ban đầu. Tiến trình tạo
15
bội số tín dụng nói trên chỉ xảy ra trong một môi trường kinh doanh lý
tưởng; nghĩa là toàn bộ số tiền phát ra cho vay phải được chuyển vào tài
khoản tiền gửi của một ngân hàng thương mại nào đó. Nhưng thực tế,
các khách hàng thường có nhiều phản ứng bất lợi cho việc “tạo tiền” của
ngân hàng thương mại. Trước hết, người ký thác ban đầu và những người
nhận tiền kế tiếp đã không giữ lại toàn bộ số tiền trên tài khoản, mà họ
rút ra một lượng lớn tiền mặt để chi trả cho các nhu cầu thanh toán
khác. Số tiền này hoà nhập vào khối tiền ngoài ngân hàng. Hậu quả tất yếu
là khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại bị giảm sút.
Ngoài ra, về nguyên tắc, DTBB là loại tài sản có không sinh lời.
Vì vậy khi phải DTBB các ngân hàng thương mại buộc phải trả thêm một
khoản phí trong kinh doanh – Phí DTBB. Trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, khi tăng tỷ lệ DTBB, ngân hàng buộc phải tăng lãi suất cho vay.
Điều này không những làm giảm khả năng sinh lợi mà còn có thể gia tăng
độ rủi ro trong kinh doanh đầu tư của ngân hàng thương mại.
Chính vì các nguyên nhân trên, để tồn tại và phát triển nhiều ngân
hàng thương mại cổ phần đã không thực hiện đúng chế độ DTBB. Nhận
thức được vấn đề này và để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tự
giác tham gia và thực hiện chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản để chỉnh sửa và hoàn thiện việc thực hiện chính sách
DTBB. Theo nghị định 51/1999/QĐ-NHNN1, DTBB của các ngân hàng
thương mại được xác định như sau:
Số tiền phải DTBB
=
Số dư tiền gởi bình
quân của kỳ xác định
DTBB
* Tỷ lệ DTBB
Trong đó
- DTBB là số tiền mà tổ chức tín dụng phải duy trì trên tài khoản
gởi không kỳ hạn tại Ngân hàng Nhà nước. Tiền gởi DTBB bao
gồm tiền gởi bằng VND và USD.
- Tài khoản DTBB được gộp chung với tài khoản tiền gửi không kỳ
hạn . Định kỳ ngân hàng thương mại xác định số dư bình quân
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn trong kỳ “duy trì DTBB” của
ngân hàng thương mại. Nếu số tiền phải DTBB nhỏ hơn số dư bình
16
quân trên tài khoản tiền gởi thanh toán, Ngân hàng Nhà nước sẽ trả
lãi cho số chênh lệch đó. Nếu số dư bình quân trên tài khoản tiền gửi
nhỏ hơn mức DTBB, ngân hàng thương mại sẽ bị phạt với lãi suất
cao. Đây là sự thay đổi lớn theo hướng làm nhẹ gánh DTBB cho các
ngân hàng thương mại. Bởi vì, trong một số trường hợp đặc biệt,
ngân hàng thương mại có thể dùng số tiền DTBB cho các nhu cầu
thanh toán để giảm những căng thẳng về vốn; sau đó, ngân hàng
thương mại có thể hoàn trả lại số DTBB tạm thời thiếu này vào
những lúc tình hình tài chính khả quan hơn.
Với những thay đổi, ngân hàng thương mại đã nâng cao được tính
hiệu lực và ý thức chấp hành chính sách DTBB của các ngân hàng. Thực tế
cho thấy, từ năm 1996 đến nay, hầu hết các ngân hàng cổ phần tại TP.Hồ
Chí Minh đều thực hiện tốt chính sách DTBB. Như vậy, có thể xem đây là
một thành công của Ngân hàng Nhà nước trong việc ban hành và thực hiện
DTBB.
2. Dự trữ thặng dư:
Bên cạnh việc thực hiện DTBB theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước các ngân hàng thương mại còn phải đảm bảo một khoản dự trữ
thặng dư để thoả mãn các nhu cầu thanh toán trong kỳ – khoản dự trữ
này bao gồm các tài sản có độ lưu hoạt cao như tiền mặt, ngân phiếu
thanh toán, vàng, bạc, đá quý, trái phiếu kho bạc, tiền gửi tại các tổ
chức tín dụng khác v.v… Đây là các tài sản có không sinh lời hoặc khả
năng sinh lời thấp. Ngân hàng thương mại luôn gặp phải mâu thuẫn
giữa ý muốn giảm khoản dự trữ để tăng khả năng sinh lời cho tài sản
có và nỗi lo sợ rủi ro thanh khoản. Vậy dự trữ bao nhiêu là tối ưu? Câu
hỏi này sẽ được kết hợp giải quyết ở phần rủi ro thanh khoản.
IV. PHÂN TÍCH NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG:
1. Nghiệp vụ tín dụng:
Phân tích nghiệp vụ tín dụng là nội dung quan trọng trong việc phân
tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tùy theo mục tiêu phân tích, các
nhà quản trị đưa ra nhiều tiêu thức phân tổ khác nhau khi phân loại tổng dư
nợ của ngân hàng. Chẳng hạn, phân loại các khoản tín dụng theo ngành
kinh tế, thành phần kinh tế, theo từng loại hàng hoá vốn tín dụng đầu tư,
khả năng thanh toán của khách hàng v.v… Với mỗi cách phân loại khác
17
nhau, nhà quản trị có thể xác định được những rủi ro ngân hàng thương mại
đang và sẽ gánh chịu để có đưa ra được những biện pháp hữu hiệu góp
phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Theo nghị định 48/1999/QĐ-NHNN5, về trích lập dự phòng và xử lý
rủi ro, tài sản có của hoạt động tín dụng được phân thành các nhóm sau:
Nhóm 1: gồm:
- Các khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ (kể cả gia hạn nợ).
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán.
- Các khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn.
Nhóm 2: gồm:
- Các khoản cho vay có bảo đảm quá hạn dưới 180 ngày, khoản cho
vay không có bảo đảm quá hạn dưới 90 ngày.
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn quá dưới 30 ngày.
- Số tiền phải trả cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được
tiền dưới 30 ngày.
- Khoản cho thuê tài chính chưa thanh toán trong thời hạn dưới 180
ngày.
Nhóm 3: gồm
- Các khoản cho vay có bảo đảm quá hạn từ 180- dưới 360 ngày,
khoản cho vay không có bảo đảm quá hạn từ 90 – dưới 180 ngày .
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn quá hạn từ 30 – dưới 90 ngày.
- Số tiền phải trả cho người được bảo lãnh chưa thu hồi được tiền từ
30- dưới 90 ngày.
- Khoản cho thuê tài chính chưa được thanh toán trong thời hạn từ 180
- dưới 360 ngày.
Nhóm 4: gồm:
18
- Các khoản cho vay có bảo đảm quá hạn từ 360 ngày trở lên, khoản
cho vay không có bảo đảm quá hạn từ 180 ngày trở lên.
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn quá hạn từ 90 ngày trở lên.
- Số tiền phải trả cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được
tiền từ 90 ngày trở lên.
- Khoản cho thuê tài chính chưa được thanh toán trong thời gian từ
360 ngày trở lên.
Phân tích tín dụng là một việc làm phức tạp và đòi hỏi nhiều nguồn
thông tin chính xác. Dựa vào những thông tin trong BTKTS, các nhà
kinh tế có thể áp dụng các chỉ số sau để đánh giá tình hình cho vay của
ngân hàng thương mại.
2. Chỉ số phân tích:
- Chỉ số 1: Tổng dư nợ/ Nguồn vốn huy động.
- Chỉ số 2: Tổng dư nợ/ Tài sản có.
- Chỉ số 3: Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Cho vay ngắn hạn (hoặc trung dài
hạn)
- Chỉ số 4:
Tổng dư nợ
X
100
Ý nghĩa của các chỉ sô :
Chỉ số 1 : Chỉ số này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy
động. Nó giúp nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với
nguồn vốn huy động.
Chỉ số 2 : Đây là chỉ số tính toán hiệu quả tín dụng của một đồng tài sản
có. Ngoài ra, chỉ số này còn xác định quy mô hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Chỉ số 3 : Chỉ số đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của các ngân
hàng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp thường được đánh giá cao về chất
lượng tín dụng.
19
Chỉ số 4 : Đây là chỉ số xác định cơ cấu tín dụng theo thời hạn cho vay.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang khuyến khích các ngân hàng
thương mại dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư cho trung – dài hạn
(khoảng 20% - 30%) nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn hiện nay của
nền kinh tế. Nhưng để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực
hiện được kế hoạch này, Ngân hàng Nhà nước nên quan tâm đến yếu tố lãi
suất; vấn đề thanh khoản; mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị
trường chứng khoán vv…để giảm bớt các rủi ro cho từng ngân hàng
thương mạinói riêng và cho toàn hệ thống ngân hàng nói chung.
V. PHÂN TÍCH NGHIỆP VỤ ĐẦU TƯ VÀ GÓP VỐN LIÊN
DOANH:
1. Nghiệp vụ đầu tư, góp vốn:
Bên cạnh nghiệp vụ cho vay, các ngân hàng thương mại có thể đầu
tư vốn vào chứng khoán. Chứng khoán là các tài sản tài chính có khả
năng sinh lợi cao với rủi ro lớn. Các chứng khoán có khả năng chuyển đổi
cao là nguồn cung thanh khoản hữu hiệu cho các ngân hàng thương mại.
Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam chủ yếu đầu tư vào chứng khoán Chính
phủ. Đây là những tài sản có độ an toàn cao, và là khoản dự trữ thứ cấp của
các ngân hàng. Trong tình huống không tìm được các dự án khả thi để
cho vay, các ngân hàng thường xem trái phiếu kho bạc là một cứu cánh
trong kinh doanh.
Ngoài ra, theo Luật các Tổ chức tín dụng, các ngân hàng có thể đầu
tư vào các doanh nghiệp dưới hình thức góp vốn kinh doanh. Mức góp vốn,
mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh nghiệp và tổng mức góp
vốn, mua cổ phần của một tổ chức tín dụng không được vượt quá giới hạn
do Ngân hàng Nhà nước quy định.
20
2. Chỉ số phân tích:
Chỉ số 1:
Mức góp vốn, mua cổ phần tại DN
Vốn của DN
X 100
Chỉ số 2:
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần
Vốn tự có của ngân hàng
X 100
VI. PHÂN TÍCH CÁC TÀI SẢN CÓ KHÁC:
Tài sản có khác của ngân hàng hầu hết là các tài sản, nhưng để tồn
tại và phát triển, ngân hàng buộc phải duy trì nó ở một mức độ nhất định
trong phạm vị cho phép của luật pháp.
Những khoản mục đáng quan tâm trong tài sản có khác của ngân
hàng là các khoản thu, chờ phân bổ , vốn trong thanh toán v…v… Đây là
những khoản vốn phức tạp, nhập nhằng mà các nhà phân tích không dễ
dàng phát hiện ra sai sót trong hạch toán nếu không xem xét từng hồ sơ,
từng định khoản. Được như vậy, nhà phân tích mới có thể phát hiện những
chỗ yếu, sai lầm thậm chí gian lận, lừa đảo trong hạch toán để kịp thời đưa
ra biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý tài sản của ngân hàng thương mại.
21
CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH TÀI SẢN NỢ VÀ VỐN SỞ HỮU CHỦ
I. PHÂN TÍCH TÀI SẢN NƠ:
1. Các khoản mục Tài sản Nợ:
Tài sản nợ của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân
hàng huy động, tạo lập được, dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh khác. Tài sản nợ bao gồm các thành phần chủ yếu
sau:
1.1 Vốn huy động:
Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do ngân hàng thu nhận từ
nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ ký thác và nghiệp vụ khác để làm vốn
kinh doanh. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là ngân hàng chỉ được
quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó
thuộc về những người ký thác. Do đó, khi sử dụng nguồn vốn này ngân
hàng phải luôn dự trữ tiền tệ ở một tỷ lệ nhất định để bảo đảm thoả mãn các
nhu cầu tiền tệ của khách hàng
Dựa vào tính khả dụng của vốn huy động người ta có thể chia nó
thành các loại sau đây:
Tiền gởi không kỳ hạn:
Tiền gởi không kỳ hạn là loại tiền gởi hoàn toàn theo nguyên tắc khả
dụng. Mục đích của người ký thác là muốn sử dụng các tiện ích của
ngân hàng. Do đó, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào họ muốn và
ngân hàng buộc phải thoả mãn các yêu cầu của họ.
Tiền gởi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gởi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách
hàng và ngân hàng. Trong thời gian này, ngân hàng được quyền chủ động
sử dụng lượng tiền ký gởi. Nều khách hàng muốn rút tiền trước hạn
phải được sự đồng ý của ngân hàng.
22
Tiền gởi tiết kiệm
Bao gồm: tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm mua
nhà v v Đây là một bộ phận thu nhập bằng tiền tạm thời nhàn rỗi của các
cá nhân được ký gởi vào ngân hàng nhằm mục đích để dành và thu lợi.
Nguồn vốn huy động khác
Ngoài việc huy động vốn thông qua các loại tiền gởi nêu trên, ngân
hàng còn thu hút vốn dưới nhiều hình thức khác như: phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu, chứng chỉ tiền gởi-CDs v v
1.2 Vốn vay
Bên cạnh nguồn huy động, các ngân hàng thương mại có thể vay
mượn lẫn nhau tại thị trường liên ngân hàng hoặc vay Ngân hàng Nhà nước
để giải quyết kịp thời các khó khăn về tài chính. Đặc biệt một số ngân hàng
thương mại có uy tín mạnh có thể vay các tổ chức tài chính ngoài nước.
2. Phân tích tổng quát tài sản nợ:
2.1 Chỉ số phân tích
Số dư từng khoản mục tài sản
nợ
Tỷ trọng từng
khoản mục tài sản
nợ
=
Tổng tài sản nợ
X 100
2.2 Ý nghĩa:
Chỉ số này sẽ giúp nhà lãnh đạo biết được cơ cấu nguồn vốn của
ngân hàng mình. Mỗi tài sản nợ đều có những yêu cầu khác nhau về chi
phí, thanh khoản, thời hạn hoàn trả v v ;do đó, ngân hàng cần phải quan
sát, đánh giá chính xác từng loại nguồn vốn để kịp thời có những chiến
lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ nhất định.
3. Phân tích vốn huy động và vốn vay của Ngân hàng.
Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của ngân hàng thương
mại và các doanh nghiệp phi tài chính là: ngân hàng thương mại kinh
doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh
nghiệp phi tài chính chủ yếu kinh doanh bằng nguồn vốn tự có. Vì vậy,
khi nghiên cứu của ngân hàng là việc làm đầu tiên mà các nhà phân tích
nên xúc tiến.
23
3.1 Phân tích vốn huy động
3.1.1 Chỉ số phân tích
Chỉ số 1:
Vốn huy động
Vốn tự có
Chỉ số 2:
Số dư từng loại tiền
gửi
Tỷ trọng từng loại tiền gửi
=
Tổng vốn huy động
X 100
Ý nghĩa chỉ số:
Chỉ số 1: Chỉ số này xác định khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền
kinh tế của ngân hàng thương mại.
Chỉ số 2: Đây là chỉ số xác định cơ cấu vốn huy động. Như trên đã
phân tích, mỗi loại tiền gởi có những đặc tính khác nhau; do đó, việc xác
định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể
gặp phải và tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn.
Bên cạnh việc huy động vốn dưới dạng tiền gửi, các ngân hàng thương
mại còn có thể thu hút vốn dưới dạng đi vay. Chủ nợ của các ngân hàng
thương mại có thể là Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước, các định chế tài chánh quốc tế.
Trước hết, ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín
dụng khác ở thị trường liên ngân hàng. Về mặt lý thuyết, chi phí ngân hàng
phải trả cho vốn vay ở thị trường liên ngân hàng trong nước lớn hơn chi phí
trả cho vốn huy động trực tiếp từ nền kinh tế. Như vậy, thông thường, các
ngân hàng thương mại chỉ vay các tổ chức tín dụng khác khi gặp các rủi ro
về thanh khoản hoặc ngoại hối.
Sau nữa, các ngân hàng thương mại có thể vay vốn ở Ngân hàng Nhà
nước. Hiện nay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng
Nhà nước tỉnh, thành phố chỉ được cho vay thanh toán bù trừ, còn các
khoản vay khác phải do Ngân hàng Nhà nước Trung ương quyết định. Với
24
yêu cầu này, Ngân hàng Nhà nước Trung ương muốn tập trung quản lý
nhằm kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền trong lưu thông. Song việc làm
này gây nhiều khó khăn cho ngân hàng thương mại;bởi vì, nếu muốn nhận
được vốn vay từ trung ương, ngân hàng thương mại phải tốn nhiều thời
gian và chi phí. Do đó, trong những năm qua, số ngân hàng thương mại
được vay vốn Ngân hàng Nhà nước rất ít, và tập trung vào các ngân hàng
gặp khó khăn trầm trọng về tài chính hoặc các ngân hàng bị đặt trong tình
trạng kiểm soát đặc biệt.
Ngoài nguồn vốn trong nước, ngân hàng thương mại còn có thể vay
các tổ chức tín dụng nước ngoài. Để vay được vốn của tổ chức tín dụng
nước ngoài, ngân hàng thương mại phải là một doanh nghiệp có uy tín, sản
phẩm đa dạng, quan hệ quốc tế tốt, công nghệ ngân hàng tiên tiến v v và
được sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù, điều kiện để được cấp
tín dụng của ngân hàng nước ngoài rất khó khăn nhưng nếu được cấp, ngân
hàng sẽ nhận được một số vốn lớn với lãi suất thấp, chi phí giao dịch nhỏ.
Kết quả tất yếu là chi phí bình quân trên 1 đồng vốn vay nhỏ hơn rất nhiều
so với chi phí phải trả cho 1 đồng vốn huy động trong nước. Chính điều
này đã dẫn đến trường hợp một ngân hàng mạnh, trong một thời gian
dài, thờ ơ với việc huy động vốn trong nước, làm ảnh hưởng đến chiến
lược “ tiết kiệm, sử dụng vốn trong nước” của Nhà nước và làm phức
tạp hoá hiện tượng “ Nợ nước ngoài” của Việt Nam.
II. PHÂN TÍCH VỐN SỞ HỮU CHỦ
1. Thành phần vốn sở hữu chủ:
1.1 Vốn (Capital)
Về khía cạnh kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do các chủ
sở hữu đóng góp, và một phần kết quả kinh doanh được thể hiện dưới dạng
lợi nhuận để lại. Ở góc độ quản lý, các nhà quản trị ngân hàng chia vốn
tự có thành hai bộ phận: vốn cơ bản và vốn bổ sung.
- Vốn cơ bản bao gồm: cổ phần thường (hay vốn điều lệ), vốn
cổ phần ưu đãi vĩnh viễn, các quỹ dự trữ và dự phòng, lợi
nhuận để lại, các khoản khác.
25
- Vốn bổ sung bao gồm: cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu
vốn, trái phiếu được chuyển đổi….
Theo quy định của một số nước phát triển, vốn bổ sung được phép huy
động tối đa 50% so với cơ bản.
Vốn là điều kiện pháp lý cơ bản đồng thời là yếu tố tài chánh quan
trọng nhất trong việc đảm bảo đối với các khoản nợ khách hàng. Chính vì
vậy, quy mô vốn tự có là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy
mô các nghiệp vụ thuộc tài sản có.
Vốn tự có có các chức năng sau:
- Chức năng bảo vệ
- Chức năng hoạt động
- Chức năng điều chỉnh
Tại Việt Nam, theo chế độ kế toán, tài chính hiện hành vốn tự có của
ngân hàng thương mại bao gồm các thành phần sau:
Vốn pháp định, vốn điều lệ:
Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập
ngân hàng theo quy định của luật pháp.
Vốn điều lệ: là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi
vào điều lệ của ngân hàng.
Các quỹ: bao gồm quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài
chính. Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng…v v…
2. Phân tích vốn sở hữu chủ:
2.1 Phân tích vốn điều lệ:
Theo nghị định số 82/1998/QĐ-CP về mức vốn pháp định của các
tổ chức tín dụng, đến giữa năm 2000 có 10/19 tổ chức tín dụng có hội sở tại
TP.HCM có vốn điều lệ không bằng mức vốn pháp định (chiếm 52.63%).
Đây là con số đáng lo ngại. Bởi vì, mục đích của việc quy định mức vốn
pháp định là nhằm tạo điều kiện đảm bảo độ an toàn trong kinh doanh. Tạo
điều kiện mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động nâng cao tầm cỡ của các tổ
chức tín dụng Việt Nam trong tương lại. Cũng theo nghị định này, sau thời