Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Phát triển phần mềm quản lý nhân sự tại chi nhánh công ty trách nhiệm hữu hạn Dược phẩm Đô Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.54 KB, 62 trang )

Luận văn
Phát triển phần mềm quản
lý nhân sự tại chi nhánh
công ty trách nhiệm hữu
hạn Dược phẩm Đô Thành


Danh mục từ viết tắt

CNTT

: Công nghệ thông tin

CNPM

: Công nghệ phần mềm

GCPM

: Gia công phần mềm

VN

: Việt Nam

DNPM

: Doanh nghiệp phần mềm

CMMI


: Tiêu chuẩn quốc tế xác nhận độ trưởng thành về quy trình sản
xuất phần mềm

R&D

: Nghiên cứu và phát triển

DN

: Doanh nghiệp

DNPMVN : Doanh nghiệp phần mềm Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỉ XXI, cuộc cách mạng KHCN hiện đại tiếp tục có tác
động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển dựa vào KHCN trở
thành xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
KHCN là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết trung ương II (khoá VIII ) về
KHCN đã khẳng định vai trò động lực của KHCN đối với sự nghiệp cơng
nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nước
ta cần và có thể rút ngắn q trình CNH-HĐH bằng cách phát triển mạnh mẽ
năng lực KHCN, nắm bắt và vận dụng sáng tạo những thành tựu KHCN mới
của thế giới. Cựu tổng thống B.Clinton đã từng nói ‘đầu tư vào cơng nghệ
chính là đầu tư vào tương lai của nước Mỹ". Với sự phát triển như vũ bão của
KHCN thì hiện nay ngành công nghiệp phần mềm đang phát triển rất nhanh
chóng và mang tính chất tồn cầu. Ngành này rất hấp dẫn giới trẻ bởi tính
năng động, khả năng sáng tạo, cơ hội cập nhật và tiếp xúc thông tin, chuyên
gia và công nghệ hàng đầu. Tại nhiều nước trên thế giới ngành này được coi

là kinh tế mũi nhọn.
Trên thực tế thì Trung Quốc và Ấn Độ là hai cường quốc trong việc
phát triển gia công phần mềm, họ đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn.
Họ có nhiều lợi thế cho việc phát triển ngành cơng nghiệp phần mềm như: lao
động dồi dào, trình độ cao, cơ sở vật chất kĩ thuật tốt… Gia công phần mềm
là ngành đem lại giá trị gia tăng lớn.Với Việt Nam thì ngành gia cơng phần
mềm vẫn được coi là non trẻ, chính vì vậy chúng ta cần phải học hỏi kinh
nghiệm của các nước đi trước. Hơn nữa, để theo kịp các nước phát triển trên
thế giới thì vấn đề đầu tư vào công nghệ thông tin là con đường đúng đắn.
Với mong muốn giúp cho các doanh nghiệp gia cơng phần mềm ở Việt Nam
có được cái nhìn sâu hơn nữa về thực trạng phát triển gia công phần mềm để
từ đó có chiến lược làm thế nào nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, và
cao hơn là chúng tôi tin rằng ngành gia công phần mềm của Việt Nam sẽ


được nâng tầm trong thời gian khơng xa, vì vậy chúng tôi chọn đề tài: " Gia
công phần mềm của Trung Quốc và Ấn Độ, bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”. Kết cấu đề tài:
Chương 1. Ngành gia công phần mềm Trung Quốc và Ấn Độ
1. Quan niệm về gia công phần mềm.
2. Ngành gia công phần mềm Trung Quốc
3. Ngành gia công phần mềm Ấn Độ
Chương 2. Thực trạng ngành gia công phần mềm ở Việt Nam và những bài
học kinh nghiệm quý báu từ Trung Quốc và Ấn Độ
1. Thực trạng ngành gia công phần mềm ở Việt Nam
2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc v à Ấn Độ.


Chương 1. Ngành gia công phần mềm Trung Quốc và Ấn Độ.
1. Quan điểm về gia công phần mềm:

Như chúng ta đã biết cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ
nhất có bản chất là q trình cơ khí hố, nội dung là sử dụng máy móc thay
thế lao động chân tay. Kết quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này là
sự ra đời của các nước công nghiệp, cơ cấu kinh tế được chuyển đổi từ thuần
tuý nông nghiệp sang công nghiệp với tỷ trọng cao hơn nhiều lần. Từ những
năm 50 con người bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai có
bản chất là q trình tin học hố nội dung là sử dụng “công nghệ thông tin” để
thay thế một phần lao động trí óc, để trợ giúp phần điều khiển bằng trí tuệ của
con người.
Cơng nghệ thơng tin là tập hợp các ngành khoa học kỹ thuật nhầm giải
quyết vấn đề thu nhận thông tin, quản lý thông tin, xử lý thông tin, truyền
thông tin và cung cấp thông tin.
Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ
yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài ngun thơng tin rất phong phú và tiềm năng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
CNTT bao gồm: công nghiệp phần mềm, công nghiệp phần cứng, và công
nghiệp nội dung.
Phần cứng là sản phẩm thiết bị hoàn chỉnh, cụm linh kiện, linh kiện, bộ phận
của thiết bị số, cụm linh kiện, linh kiện.
Phần mềm là chương trình máy tính được mơ tả bằng hệ thống kí hiệu, mã
hoặc ngơn ngữ điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định.
Trong công nghiệp CNTT thế giới, các nước công nghiệp phát triển
chiếm lợi thế và vị trí độc tơn về cơng nghiệp phần cứng, do ngành này có địi
hỏi rất cao về vốn đầu tư, trình độ khoa học cơng nghệ, năng lực nghiên cứu


phát triển. Các tập đoàn lớn của Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức như

Intel, IBM, Fujitsu, Hitachi, Samsung,... chi phối sự phát triển cơng nghiệp
phần cứng tồn cầu. Các nước đang phát triển hầu như khơng có cơ hội trong
sản xuất phần cứng, nhưng lại có lợi thế so sánh rất tốt trong công nghiệp
phần mềm. Do đặc thù của ngành phần mềm phát triển chủ yếu dựa vào
nguồn lực con người, khả năng cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và
chi phí lao động. Cơng nghiệp phần mềm có tỷ lệ giá trị gia tăng rất cao trong
doanh thu sản phẩm, qui trình sản xuất mang tính quốc tế hố cao, khơng phụ
thuộc biên giới vật lý, chi phí đầu tư cho máy móc, thiết bị sản xuất không
cao… nên thực sự là cơ hội lịch sử hiếm có cho các nước đang phát triển đi
tắt, đón đầu bắt kịp các nước phát triến. Hiện nay nhiều nước coi trọng phát
triển gia công phần mềm và có xu hướng biến ngành này thành ngành kinh tế
mũi nhọn.
Gia cơng là q trình chuyển một phần cơng việc sang làm tại nước khác
để tận dụng nguồn nhân lực và các tài nguyên khác(cả trực tiếp mở chi nhánh,
trung tâm nghiên cứu sản xuất lẫn thuê các công ty bản địa thực hiện).
Gia công phần mềm được hiểu như việc làm thuê một phần hay toàn phần
các dự án phần mềm với tư cách gia công sản phẩm thay vì sở hữu sản phẩm.
Việc định đoạt sản phẩm thuộc về nơi thuê gia công phần mềm. Nhiệm vụ của
đơn vị gia công phần mềm là làm ra sản phẩm thoả mãn yêu cầu của đơn vị,
tổ chức thuê gia công, không tham gia vào việc kinh doanh sản phẩm .
Như vậy GCPM chỉ là 1 giai đoạn trong quá trình sản phẩm đến với
người dùng. Các cơng ty GCPM phải tính tốn chi phí phù hợp được trả ngay
khi gia cơng, vì thực chất họ khơng được sở hữu sản phẩm hay các lợi ích từ
thương hiệu, uy tín của sản phẩm đó. Giá trị của phần mềm khi xuất hiện trên
thị trường có thể rất lớn nhưng phần được hưởng của cơng ty GCPM nói
chung là nhỏ. Việc Kinh doanh phần mềm trên thị trường Quốc tế và sự đáp
ứng cầu về phần mềm chủ yếu rơi vào các tập đoàn lớn - và cách của các Tập
đoàn lớn làm là thuê các công ty bé (trong nước hay nước ngoài, nước kém



phát triển hay nhân lực rẻ mạt...) sản xuất sản phẩm. Ln có rất nhiều dự án
phần mềm cần được gia công dành cho các công ty được coi là "làm thuê".
Khi một công ty nhận gia công một phần mềm, tuy cơng ty này làm trọn vẹn,
tồn phần phần mềm nhưng việc đó khác cơ bản so với việc mua hay đặt
hàng phần mềm.
Điển hình thành cơng là Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan,... Ấn Độ từ một
quốc gia nghèo nhưng có nguồn lực con người dồi dào, nhờ tập trung phát
triển ngành phần mềm mà trong 15 năm đã vươn lên thành cường quốc phần
mềm hàng đầu thế giới, chỉ riêng xuất khẩu phần mềm năm 2006 đạt tới trên
23 tỷ USD (xét về giá trị gia tăng thu về cho quốc gia, 1 USD xuất khẩu phần
mềm tương đương 5-6 USD xuất khẩu của các ngành dệt may, đồ gỗ,...).
Qui mô thị trường công nghiệp CNTT thế giới năm 2005 đã đạt tới
1080 tỷ USD, riêng công nghiệp phần mềm là 633 tỷ USD (năm 2004 là 580
tỷ USD), trong đó khu vực Bắc Mỹ là 313 tỷ USD USD (chiếm 49,5%), Tây
Âu là 193 tỷ USD (chiếm 30,5%), khu vực châu Á – Thái Bình Dương là 103
tỷ USD (chiếm 16,3%).
Hiện nay ở Việt Nam có thể chia gia công phần mềm làm 2 loại:
Thứ nhất, để giảm chi phí các cơng ty nước ngồi th lại các công ty Việt
Nam viết một phần mềm nào đó dựa trên một mã code của họ, loại phần mềm
này được xếp vào loại hàng hoá “Made in Vietnam” tức là “Được sản xuất tại
Việt Nam”.
Thứ hai là, các cơng ty nước ngồi đưa ra đơn đặt hàng cho các công ty
Việt Nam viết một phần mềm hoặc ứng dụng để giải quyết một vấn đề nào đó
trong quá trình vận hành một doanh nghiệp. Trong trường hợp này, phần mềm
đó được gọi là “Designed in Vietnam” tức là “Được thiết kế tại Việt Nam” và
các công ty phần mềm tại Việt Nam chủ yếu ở nhóm thứ nhất.


Các cấp của công đoạn gia công phần mềm được chia thành 5cấp từ thấp lên
cao:

Nhập dữ liệu: đây là công việc đơn giản, người lao động chỉ việc nhập dữ
liệu theo mẫu và yêu cầu có sẵn, với cấp độ này thì người lao động có trình độ
thấp hay trung bình đều có thể làm được.
Kiểm tra(test): đây là việc kiểm tra xem dữ liệu nhập vào có đúng với
chương trình đã được thiết kế hay khơng, vì vậy địi hỏi người lao động phải
có hiểu biết nhất định về phần mềm.
Phát triển công đoạn(component) theo yêu cầu của khách hàng: Ngồi
việc kiểm tra chương trình đã được thiết kế sẵn thì người lao động cần phải có
khả năng phát triển cơng đoạn nào đó trong tồn bộ chương mà khách hàng
yêu cầu.
Phân tích -thiết kế một ứng dụng (module) đã có sẵn: đây là cơng việc có
độ phức tạp và địi hỏi trình độ cao, người lao động phải có chun mơn sâu
để có thể phân tích chính xác, cụ thể một ứng dụng có sẵn.
Tư vấn: đây là cấp độ cao nhất, người lao động có thể thiết kế, kiểm tra
một chương trình phần mềm nào đó, có sự đánh giá, phân tích và giúp nhà
đầu tư đưa ra quyết định cuối cùng.
Có thể nói, gia cơng phần mềm là một ngành chiến lược của rất nhiều các
công ty hiện nay ở Việt Nam. Khi mà sự địi hỏi về tin học hóa hoạt động
doanh nghiệp ngày càng lớn, nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hơn nữa khi mà sự thiếu hụt về
chuyên gia trong lĩnh vực phần mềm và công nghệ thông tin đã trở nên khẩn
thiết, thì việc chuyển giao việc phát triển quản lý một phần hoặc toàn bộ mảng
tin học bao gồm phần cứng và phần mềm cho một đội ngũ chuyên nghiệp, có
chất lượng cao, sẵn sàng phục vụ đúng lúc và đáng tin cậy, trở thành một
trong những lựa chọn tốt nhất để giải quyết tình trạng này.


2. Ngành gia công phần mềm Ấn Độ:
2.1. Một vài nét về Ấn Độ:
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Đây

là quốc gia đơng dân thứ nhì trên thế giới ( hiện nay dân số Ấn Độ đã gần 1,1
tỷ người ít hơn Trung Quốc 200 triệu người), và đồng thời lớn thứ 7 về diện
tích. Ấn Độ có nền văn minh Ấn Hà phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm,
đây là nơi sinh trưởng của bốn tơn giáo quan trọng trên thế giới (Ấn Độ giáo,
Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh).
Kinh tế Ấn Độ là nền kinh tế thứ tư thế giới nếu tính theo sức mua
ngang giá, với GDP tính theo đơla Mỹ đạt 3,63 nghìn tỷ. Nếu tính theo tỷ giá
hối đối với đơla Mỹ thì đây là nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới với GDP tính
theo đơla Mỹ đạt 775 tỷ (2005). Ấn Độ là nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai
thế giới với tỷ lệ tăng trưởng GDP là 8,1% ở cuối quý đầu tiên năm 20052006. Tuy nhiên dân số khổng lồ của Ấn Độ khiến thu nhập trên đầu người
đứng ở mức 3400 USD được xếp hạng vào nước đang phát triển.
Ấn Độ có lực lượng lao động dồi dào và có trình độ tay nghề cao.
Gần đây, Ấn Độ đã tận dụng số lượng dân số có trình độ học vấn cao, thành
thạo tiếng Anh để trở thành vị trí quan trọng về dịch vụ thuê làm bên ngoài
(outsourcing), tư vấn khách hàng ( customer service), và hỗ trợ kỹ thuật của
các cơng ty tồn cầu. Đây cũng là nước xuất khẩu hàng đầu về nhân lực trình
độ cao lĩnh vực dịch vụ phần mềm. tài chính, và chế tạo phần mềm. Đây là
một trong những lý do giải thích tại sao ngành gia cơng phần mềm của Ấn Độ
lại phát triển nhanh chóng và trở thành quốc gia hàng đầu về lĩnh vực này.
2.2. S ự phát triển của gia công phần mềm Ấn Độ
Ấn Độ là mơ hình quốc gia tạo được thành cơng đột phá nhờ phát triển
ngành công nghiệp phần mềm, dùng ngành phần mềm là mũi nhọn đột phá
phát triển kinh tế, chiếm vị trí đỉnh cao trên thế giới, đem lại lợi ích kinh tế,
sự hưng phấn tinh thần quốc gia, lịng tự tin dân tộc, từ đó tạo ra sự bùng nổ
phát triển ở nhiều ngành kinh tế khác (thép, cơ khí, điện tử,...) .
Sự đột phá của Ấn Độ trong lĩnh vực CNTT, đặc biệt là phần mềm đã
từng khiến cả thế giới phải sửng sốt. Nhưng ngay cả khi Ấn Độ liên tục đạt


được hết thành tựu này đến thành tựu kia và trở thành một trong những văn

phòng của thế giới, người ta vẫn khơng thơi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi
rằng: “điều gì làm cho một ngành kinh tế non trẻ như ngành phần mềm có thể
sinh trưởng và phát triển được, thậm chí thành cơng rực rỡ ngay cả trong
những điều kiện ngặt nghèo nhất trên đất nước Ấn Độ?”. Xuất phát là một
quốc gia nghèo, lạc hậu, nhưng Ấn Độ đã tiên phong đầu tư phát triển ngành
công nghiệp phần mềm từ những năm 1990. Chọn lựa này đã giúp Ấn Độ
khai thác thế mạnh về nguồn nhân lực, hạn chế các điểm yếu của 1 quốc gia
đang phát triển là thiếu khả năng đầu tư lớn vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
vốn,… Năm 2006, ngành phần mềm Ấn Độ đạt doanh số 29,5 tỷ USD, trong
đó doanh số xuất khẩu đạt tới 23,4 tỷ USD. Tất cả 500 tập đồn và cơng ty
lớn nhất thế giới theo xếp hạng của Forbes đều đang phải sử dụng các chuyên
gia CNTT trong quản lý, điều hành hệ thống CNTT của mình. Tầm nhìn của
Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Ấn Độ NASSCOM là đưa Ấn Độ trở thành
một trung tâm quyền lực phần mềm của thế giới đang trở thành hiện thực.
Bảng doanh số của ngành công nghiệp CNTT Ấn Độ:
Đơn vị: Tỷ USD
2006
2004

2005

Công nghiệp phần mềm và dịch vụ

16.7

22.6

29.5

Riêng xuất khẩu


12.9

17.7

23.4
6.9

Công nghiệp phần cứng

5.0

5.9

Tổng doanh thu công nghiệp CNTT

21.6

28.4

36.3

( Nguồn: Nasscom, busisessweek.com)
Theo bảng số liệu cho thấy tổng doanh số công nghiệp CNTT năm 2006
ước đạt 36,3 tỷ USD, trong đó cơng nghiệp phần mềm và dịch vụ chiếm 81%,
phần cứng chiếm 19%. Như vậy ngành công nghiệp phần mềm chiếm tỷ trọng
rất cao, đem lại doanh thu lớn.


Mặt khác liên tục từ năm 1999 tốc độ tăng trưởng trung bình 28% mỗi

năm, nếu tính riêng cho cơng nghiệp phần mềm là 32%. Điều này cho thấy
ngành công nghiệp phần mềm đang được chú trọng phát triển và dần giữ vai
trị chủ đạo.
Ngồi ra xuất khẩu chiếm 64% tổng doanh thu công nghiệp CNTT cho
thấy xu hướng gia công phần mềm được ưa chuộng và ngày càng tăng.
Đồ thị tỷ trọng xuất khẩu phần mềm trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Ấn Độ
Đơn vị :%
25
20
15
10
5
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

(Nguồn: Nascom; businessweek.com)
Qua đồ thị cho thấy tỷ trọng xuất khẩu phần mềm liên tục tăng qua các năm,
cụ thể xuất khẩu phần mểm trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng t ừ 2% năm
1996 đến mức 20,3% năm 2003. Để có được thành cơng như vậy là do Ấn Độ
có ưu thế vượt trội và sự đầu tư đúng đắn. Điểm nổi trội của Ấn Độ trước
Trung Quốc là đã đi vào lĩnh vực công nghệ cao trong nhiều năm. Với bề dày
như vậy, Ấn Độ đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cũng như khả năng nắm


bắt những xu thế mới của ngành. Giữa thập kỷ 80, khi công nghiệp phần mềm
bắt đầu phát triển, Ấn Độ nhận thấy đây là cơ hội cho hướng phát triển mới và
áp dụng mọi biện pháp để thúc đẩy ngành cơng nghiệp này. Một loạt các
chính sách được thực hiện như bãi bỏ các rào cản và tự do hóa nhập khẩu đầu
vào nhằm tạo một mơi trường đầu tư thuận lợi cho ngành công nghiệp phần

mềm. Kết quả là công nghiệp phần mềm đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
của Ấn Độ.
Có thể khơng cần phải nói quá nhiều về những con số, những thành công
liên tiếp mà ngành phần mềm Ấn Độ đạt được bắt đầu từ những bước đi đầu
tiên, những đầu tư liên tục, mạnh mẽ và quyết liệt của chính phủ nước này với
phương châm đưa "công nghiệp phần mềm Ấn Độ lên thành kiểu mẫu của
sức mạnh và thành công". Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, đi cùng
với chủ trương tự do hố và mở cửa kinh tế, chính phủ Ấn Độ đã có những
đầu tư chiến lược để đạt được mục tiêu đưa Ấn Độ trở thành một siêu cường
về IT của thế giới. Đưa CNTT lên làm ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung
nhanh, mạnh vào lĩnh vực phần mềm, Ấn Độ đã nhanh chóng có được thành
công vượt trội.
Ngành công nghiệp công nghệ cao của Ấn Độ đã được biết đến với tên
gọi trung tâm gia công phần mềm, một ngành đem lại khoản lợi nhuận khổng
lồ. Hiện nay, tổng giá trị xuất khẩu của ngành IT Ấn Độ chiếm khoảng 35%
tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế, chiếm 75% GDP, khoảng 200 trong
tổng số 500 công ty lớn nhất của Mỹ đã mua các sản phẩm phần mềm của Ấn
Độ. Hiện nay Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của ngành phần mềm Ấn Độ với
thị phần 61%. Giờ đây "India is IT" đã khơng cịn là một khẩu hiệu sng mà
thực sự trở thành một phương châm đưa Ấn Độ lên hàng top trong danh sách
những địa chỉ gia công phần mềm của thế giới với tốc độ phát triển vài trăm
phần trăm mỗi năm. Năm 2007, lĩnh vực IT-PBO của Ấn Độ đạt mức tăng
trưởng 28%, doanh số đạt 47,8 triệu USD, tăng gấp 10 lần so với báo cáo của
năm 1998. Đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân của riêng ngành phần mềm


nước này đạt tới 5,4%, cao hơn nhiều so với mức 1,2% của năm 1998. Còn
theo báo cáo mới nhất, chỉ tính riêng doanh thu của ngành phần mềm, Ấn Độ
đã thu về tới 39 tỷ USD. Nếu so sánh với ngành phần cứng của chính đất
nước này, chỉ với 6 tỷ USD, thì 39 tỷ USD doanh số cũng đã là một con số

thành công thật sự nổi bật.
Nghe đến những con số, biết được những thành tựu này của Ấn Độ từ
trước khi đặt chân đến đất nước này, nhưng đến khi "chạm" vào thực tiễn sản
xuất, được tiếp xúc với các doanh nghiệp và tổ chức trong lĩnh vực phần mềm
ngay tại Bangalore và New Dehli, tận mắt chứng kiến những điều kiện mà từ
đó phần lớn sản lượng phần mềm xuất khẩu của Ấn Độ cất cánh, chúng ta sẽ
thực sự ngỡ ngàng về sức mạnh của ngành công nghiệp mới mẻ này trên đất
thung lũng rộng mênh mơng với những tồ nhà chọc trời, cả khu công nghiệp
phần mềm Ấn Độ nằm giữa Bangalore chỉ sở hữu một cơ sở hạ tầng vào loại
thường thường bậc trung, với những điều kiện không hơn Việt Nam. Ngay
cạnh những toà nhà cao tầng là những cánh đồng rộng với đàn bò thủng thẳng
gặm cỏ. Nối giữa những khu nhà là những con đường nhỏ nhắn rợp bóng.
Nếu khơng được giới thiệu trước, thực sự sẽ rất khó hình dung đây là một khu
cơng nghệ cao, nơi được mệnh danh là trái tim của ngành phần mềm
Bangalore, trái tim của phần mềm Ấn Độ.
Tất cả những gì mà Ấn Độ đã đạt được khẳng định được sức mạnh và
vị thế của ngành gia c ông phần mềm Ấn Độ.
2.3. Ngun nhân của những thành cơng:
Có thể nói ngành gia công phần mềm của Ấn Độ rất phát triển và Việt
Nam có thể học hỏi vì có được thành cơng đó là nhờ nhưng tiền đề rất vững
chắc như:
Điều đầu tiên trực tiếp có thể nhìn thấy ngay đã tạo nên thành cơng
cho ngành phần mềm Ấn Độ chính là nguồn nhân lực. Hệ thống giáo dục
tuyệt vời với các học viện công nghệ quốc gia được trang bị các trang thiết bị
hiện đại nhất, mạng lưới hơn 1000 trường đại học và cao đẳng đào tạo chuyên


ngành về CNTT nằm rải rác khắp cả nước, chưa kể các cơ sở đào tạo tư nhân
uy tín, các trung tâm đào tạo và đào tạo lại của các doanh nghiệp lớn... tất cả
đã tạo cho nguồn nhân lực phần mềm của quốc gia này một căn bản cực tốt.

Cộng thêm thuận lợi sẵn có, tiếng Anh là thứ ngơn ngữ chính thống dùng
giảng dạy, các kỹ sư CNTT, kỹ sư phần mềm của Ấn Độ ngay khi ra trường
đã có thể làm việc ngay tại mơi trường quốc tế với chất lượng đạt chuẩn tồn
cầu. Đó là chưa kể khả năng thích ứng cực tốt của các kỹ sư này với mọi môi
trường làm việc và những biến đổi nhạy bén của thế giới trong lĩnh vực
CNTT. Cùng với xu hướng tồn cầu hố, những kỹ sư này được hút ra các thị
trường ngoài biên giới Ấn Độ như Mỹ, châu Âu và rồi lại trở lại thị trường Ấn
Độ để tạo ra các thế hệ kỹ sư phần mềm mới cho đất nước. Tất nhiên, không
thể phủ nhận sau những thế hệ kỹ sư được đào tạo từ thời Xơ Viết, chất lượng
nhân lực của ngành có phần giảm sút, mất cân đối cung cầu, song không vì
thế, nguồn nhân lực mất đi vai trị chủ chốt trong nội lực của ngành phần mềm
nước này. Và nguồn nhân lực được đào tạo bàn bản vẫn luôn là một trong
những nguồn sức mạnh chủ yếu của Ấn Độ.
Thứ hai có thể đề cập tới là chính sách. Dù không thực sự rõ ràng và trực
tiếp tác động, nhưng chính sách mở cửa, thơng thống và những ưu đãi nhất
định của chính phủ Ấn Độ đã phần nào tạo nên sức hút khiến phần lớn những
tên tuổi lớn nhất của cơng nghệ tồn cầu đã phải có mặt ở đây. 7 khu công nghệ
cao nằm rải rác khắp cả nước đã được xây dựng nên nhờ những nguồn vốn đầu
tư cơ sở hạ tầng của các tên tuổi lớn của thế giới như IBM, Digital, Hewlett
Packard, Sun, Motorola... với những chính sách ưu đãi đặc biệt như: cung cấp
đầy đủ cơ sở hạ tầng, miễn thuế nhập khẩu, thuế doanh thu trong 5 năm, tối
giản các thủ tục hành chính phức tạp và tạo quyền chuyển lợi nhuận về nước...
Đó cũng là những hành động thiết thực nhất thể hiện quyết tâm đầu tư quyết
liệt của chính phủ nước này cho CNTT nói chung và phần mềm nói riêng.
Một nhân tố thứ ba, khơng kém phần quan trọng chính là sự nỗ lực tự
thân, rất độc lập và tự chủ của bản thân chính các cơng ty. Khơng trơng chờ


quá nhiều vào những ưu đãi đầu tư của nhà nước, rất nhiều công ty đã rất chủ
động lựa chọn đầu tư thích hợp và liên tục nâng cao năng lực đầu tư khai thác

thị trường của mình và biến năng lực khai thác thị trường bên ngoài Ấn Độ
của mình trở thành một thế mạnh thực sự.
Nhân tố thứ tư, nhân tố quan trọng làm nên những biến đổi kỳ diệu ở
lĩnh vực phần mềm nước này chính là ở uy tín của Ấn Độ đối với thế giới.
Khơng chỉ là uy tín với các dịng sản phẩm làm ra, uy tín với nguồn nhân lực
được đào tạo bàn bản và quy mơ, các doanh nghiệp Ấn Độ nói riêng và ngành
phần mềm Ấn Độ nói chung cịn tạo ra được một uy tín vơ hình trong quan hệ
kinh doanh và trên thị trường, khiến những ông lớn của nền công nghệ thế
giới khi cần là nghĩ đến Ấn Độ và các sản phẩm của Ấn Độ.
Đương nhiên, bấy nhiêu đó chưa thể khái quát hết được những nhân tố
làm nên sức mạnh của ngành phần mềm Ấn Độ. Song đó cũng là những nét
căn bản, những phác thảo rõ rệt nhất về những gì làm nên sức mạnh của một
ngành công nghiệp mũi nhọn của Ấn Độ.
2.4. Hướng đi mới của ngành gia công phần mềm Ấn Độ và vấn đề đặt ra:
Để duy trì vị trí hàng đầu thế giới về dịch vụ gia công phần mềm IT
và phần mềm ngoại biên (BPO), Ấn Độ đang có kế hoạch xây dựng thêm 43
khu công nghệ phần mềm mới trên cả nước trong 10 năm. Mỗi khu công nghệ
mới có diện tích khoảng 500 hecta, có quy hoạch hợp lý, thuận tiện, hiện đại
với mạng lưới giao thông nối các thành phố lớn và sân bay. Xung quanh các
khu cơng nghệ này sẽ có các thị trấn vệ tinh là các khu dân cư, vui chơi giải
trí, trường học, bệnh viện. Chính phủ Ấn Độ dự kiến sẽ chuyển 40% khối
lượng hoạt động gia công đến 43 khu công nghệ này và tạo thêm khoảng 3,5
triệu việc làm vào năm 2018. Kế hoạch xây dựng các khu công nghệ phần
mềm mới được triển khai để khắc phục tình trạng giá lao động và chi phí xây
dựng cơ sở hạ tầng tại các thành phố lớn ngày càng tăng cao có nguy cơ làm
suy yếu lợi thế của Ấn Độ trong lĩnh vực gia công phần mềm. Hiện cơ sở hạ
tầng tại các khu công nghệ phần mềm lớn của Ấn Độ đặt tại 7 thành phố


Bangalore, Chennai, Mumbai, Hyderabad, Kolkata, Gurgaon và Noida.

Những nơi này hiện khơng cịn chỗ để đáp ứng khối lượng cơng việc ngày
một nhiều.
Để chắc chắn, các công ty Ấn Độ đang thiết lập hoạt động riêng của họ tại
Trung Quốc. Chẳng hạn như, Satyam rất hăng hái mở rộng ra ngoài Ấn Độ.
Các hãng Infosys và Tata Consultancy Services cũng thế. Nhưng vấn đề đặt ra
là các nhà quản trị đến từ các công ty Trung Quốc cho rằng họ vẫn có lợi thế
hơn đối thủ Ấn Độ. "Chúng tơi quyết tâm giữ kinh doanh tại Trung Quốc",
một hãng thầu phụ nhỏ của Trung Quốc nói. Trong khi đó, các cơng ty Ấn Độ
"khơng có động lực mạnh như chúng tơi để kinh doanh tại Trung Quốc". Như
vậy có nghĩa là đối thủ của Ấn Độ rất quyết tâm và tin tưởng vào sự phát triển
của ngành gia công phần mềm nước nhà, đó là điều khó khăn khi các doanh
nghiệp phần mềm Ấn Độ mở rộng cơ sở của mình ở Trung Quốc. Mặc dù
vậy như ng Trung Quốc vẫn cịn chặng đường dài để đi trước khi có thể bắt
kịp Ấn Độ trong ngành gia công dịch vụ CNTT. Các công ty dịch vụ của
Trung Quốc chưa thể đạt đến quy mô hay sự chuyên nghiệp như các hãng Ấn
Độ. Hiện nay chưa một công ty gia công nào ở Trung Quốc có ít nhất 1 tỷ
USD doanh thu gia cơng phần mềm. Trung Quốc cũng chưa có danh tiếng
trên toàn cầu để thu hút các hợp đồng lớn. Các cơng ty đa quốc gia sẽ tìm
kiếm những đối tác có khả năng và quy mơ hỗ trợ họ.
Hiện nay ngành gia công phần mềm đang gặp phải khó khăn là “gia cơng
phần mềm bị bội thực”. Đây sẽ là cơ hội cho các nước khác như Ấn Độ, Việt
Nam… Vì vậy các doanh nghiệp phần mềm Ấn Độ cần có sự bố trí nhân lực
sao cho hợp lý, đồng thời tránh tình trạng nhận hợp đồng gia công một cách ồ
ảt trong khi với khả năng về lao động hiện khó có thể đáp ứng được.
Mặc dù cịn một số thách thức nhưng những gì mà Ấn Độ đạt được đã
khẳng định vị trí hàng đầu về gia công phần mềm.


3. Ngành gia công phần mềm Trung Quốc:
3.1. Vài nét về Trung Quốc:

Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm
nhất. Đây là quốc gia có nền văn hóa đa dạng và lâu đời. Là một đất nước có
dân số lớn nhất thế giới, lao động dồi dào, tiếp thu cơng nghệ thơng tin nhanh
chóng là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế. Đặc biệt Trung Quốc đã đạt
được những thành tựu lớn về khoa học như: la bàn, thuốc súng, kĩ thuật làm
giấy, kĩ thuật in ấn. Đây được coi là “tứ đại phát minh”. Từ lâu Trung Quốc
được coi như là một trung tâm sản xuất công nghiệp và nghiên cứu và phát
triển (R&D) trong khi Ấn Độ nổi bật về dịch vụ và công nghệ thông tin . Tuy
nhiên, tương quan giữa hai bên có thể thay đổi vì Trung Quốc có lợi thế mới
nhờ hệ thống hạ tầng kỹ thuật phát triển, nguồn lao động vừa rẻ vừa có tay
nghề cao và thông thạo Anh ngữ. Hiện nay Trung Quốc và Ấn Độ đã bắt đầu
tranh nhau phần lớn của chiếc bánh gia công phần mềm đang ngày càng hấp
dẫn. Trên thực tế Trung Quốc có những lợi thế làm nên thành công đáng kể
cho ngành gia công phần mềm.
3.2. Tình hình phát triển gia cơng phần mềm:
Ngành gia cơng phần mềm của Trung Quốc tăng trưởng khá nhanh
chóng. Doanh thu nội địa tăng 48%, đạt 34.8 tỷ USD năm 2006 (năm 2003 là
23,6 tỷ USD), chiếm 3% qui mô ngành công nghiệp CNTT thế giới (Mỹ
chiếm 38%, EU chiếm 31%, Nhật chiếm 10%, các nước còn lại chiếm 18%).
Doanh thu công nghiệp phần mềm và dịch vụ tăng 73%, từ 5,5 tỷ USD năm
2003 lên 9,5 tỷ USD năm 2006, tốc độ tăng trưởng gần 20% hàng năm. Xuất
khẩu của cơng nghiệp phần mềm qui mơ nhỏ, nhưng có tốc độ tăng trưởng
cao, trong 5 năm 1998 – 2003 đã tăng hơn 7 lần, từ trên 30 triệu USD năm
1998 lên 250 triệu USD năm 2003 (chưa có số liệu 2003-2006).
Lực lượng lao động trong lĩnh vực này cũng tăng. Lao động từ trên 2,7
triệu lên trên 3,7 triệu, tăng thêm 1 triệu lao động, trong đó riêng cơng nghiệp
phần mềm tăng thêm 500 nghìn (từ trên 700 nghìn lên trên 1,2 triệu), riêng
các cơng ty nước ngồi tăng thêm 250 nghìn lao động.



Đặc biệt Trung Quốc có được sự đầu tư nước ngồi vào cơng nghiệp
CNTT năm 2005 đạt 3,5 tỷ USD. Năm 2005 Microsoft đầu tư 100 triệu USD
lập cơ sở nghiên cứu R&D với 800 lao động. Tập đoàn IBM đầu tư từ năm
1992, hiện có 5000 lao động. Một trong 4 công ty phần mềm lớn nhất thế giới
SAP đầu tư từ năm 2004 lập cơ sở R&D và Trung tâm hỗ trợ khách hàng với
1000 lao động. Điều này tạo điều kiện để phát triển gia công phần mềm.
Từ năm 2003 Trung Quốc đã trở thành nước gia công phần mềm lớn nhất
cho Nhật Bản, nhu cầu kỹ sư phần mềm biết tiếng Nhật đang tăng 150%/năm.
Theo đánh giá của các chuyên gia cho thấy so với Ấn Độ thị trường gia cơng
phần mềm của Trung Quốc cịn rất trẻ. Gần đây công ty phần mềm của Trung
Quốc MDCL-Frontline (thuộc tập đoàn Frontline Châu Á) đã nhượng quyền
sử dụng nhiều hệ thống phần mềm mà họ sản xuất tại Trung Quốc, và ký
những hợp đồng trị giá nhiều triệu USD phát triển phần mềm ứng dụng và hệ
thống quản lý cho các hải cảng ở thành phố Đại Liên.
Phân tích của hãng nghiên cứu thị trường IDC cũng cho thấy rằng, trái
với Ấn Độ, thị trường gia công CNTT của Trung Quốc chủ yếu nhắm vào nhu
cầu nội địa. Năm 2006, hơn 40 % doanh thu GCPM đến từ các tập đoàn đa
quốc gia hoạt động tại Trung Quốc. Dự báo nhu cầu này sẽ tiếp tục tăng
nhanh trong 4-5 năm tới, mở ra cơ hội tuyệt vời cho các nhà cung cấp dịch vụ
bằng cách giúp họ mở rộng hoạt động mà không phải cạnh tranh trực diện với
các doanh nghiệp Ấn Độ trên thị trường Âu châu và Bắc Mỹ. Tập đồn
Neusoft có trụ sở tại Thâm Quyến là nhà gia công CNTT lớn nhất ở Trung
Quốc, sử dụng hơn 10.000 nhân công, chuyên cung cấp phần mềm và dịch vụ
CNTT cũng như công nghệ y dược. Phần lớn doanh thu của Neusoft là từ
kinh doanh phần mềm và dịch vụ ở thị trường nội địa.
Trong những năm gần đây ngành công nghiệp phần mềm của Trung
Quốc tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ trong hai năm từ 2001 đến 2003, số lượng
các doanh nghiệp phần mềm đã tăng từ 4000 lên 8000, trong đó 23% các
doanh nghiệp này có tổng doanh thu đạt mức 1,2 triệu USD/năm. Hiện nay ở
Thượng Hải đang có 200 chuyên gia phần mềm nhưng dự kiến trong thời gian

sắp tới con số này sẽ tăng lên đến 2500.


Trong vòng 20 năm trở lại đây Ấn Độ nổi lên trên trường quốc tế như
một nhà cung cấp các sản phẩm phần mềm hàng đầu trên thế giới. Chỉ trong
vòng hơn 10 năm từ 1991 đến 2002, xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ tăng từ
400 triệu USD lên đến trên 8 tỷ USD. Tuy nhiên vị trí của Ấn Độ đang bị
Trung Quốc đe dọa. Tập đoàn Gartner Inc dự đoán: Xuất khẩu phần mềm của
Trung Quốc sẽ đuổi kịp trong vòng 4 năm. Biểu đồ sau chứng minh điều đó.
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Trung Quốc và Ấn Độ
Đơn vị : tỷ USD

30
25
Trung Quốc

20

Ấn Độ

15
10
5
0
1999

2000

2001


2002

2006

(Nguồn: Gartner Inc; 10/16/2002 CHINA DAILY; NASSCOM)
Qua biểu đồ cho thấy xuất khẩu phần mềm và các dịch vụ hỗ trợ của
Trung Quốc đạt 850 triệu USD năm 2002 và sẽ lên đến mức 27 tỷ USD vào
năm 2006, tốc độ tăng trưởng 620%. Trong cùng thời gian, xuất khẩu của Ấn
Độ sẽ tăng lên từ 6,2 tỷ USD lên 27,5 tỷ USD. Có thể thấy tốc độ tăng trưởng
về xuất khẩu phần mềm của Trung Quốc là rất cao, và Trung Quốc đang vươn
lên mạnh mẽ nhằm giành vị trí hàng đầu về gia cơng phần mềm.
Hiện nay Trung Quốc đang thực hiện 3 dự án công nghệ phần mềm lớn
hướng vào xuất khẩu, đó là Wangxin Software Development Base, Wangxin
Nanchang Software Park and Ningbo Software Park. Các dự án này sẽ đặt
trọng tâm vào các thị trường phần mềm của Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu.


3.3. Ngun nhân của những thành cơng:
Để có được các thành công trên, về quản lý nhà nước Trung Quốc đã áp
dụng rất nhiều cơ chế và chính sách đặc biệt cho ngành cơng nghiệp phần
mềm.
3.3.1. Nhà nước:
 Chính phủ có Bộ cơng nghiệp CNTT, có Cục phát triển cơng nghiệp
phần mềm và công nghiệp vi mạch. Các doanh nghiệp có Hiệp hội DN phần
mềm Trung Quốc làm đại diện và được Nhà nước hỗ trợ. Tháng 7/2000, Hội
đồng Nhà nước ban hành Nghị định khuyến khích phát triển cơng nghiệp
phần mềm và công nghiệp vi mạch
 Ưu đãi về thuế :
Từ năm 2000, nhà nước áp dụng chính sách đặc biệt về thuế để hỗ trợ
doanh nghiệp phần mềm. Cụ thể nhà nước vẫn thu thuế VAT 17% trên sản

phẩm phần mềm khi tiêu thụ, nhưng sau đó cấp hỗ trợ lại cho DN phần mềm
97% số thuế VAT đã nộp để DN mở rộng sản xuất và phát triển cơng tác R &
D. Như vậy có nghĩa là trên thực tế thì các doanh nghiệp chỉ phải đóng một
phần rất nhỏ thuế VAT. Ngồi ra nhà nước cịn miễn thuế nhập khẩu trang
thiết bị khi thành lập DN phần mềm, đồng thời ưu đãi miễn, giảm thuế thu
nhập cho DN phần mềm bằng việc chọn một số DN phần mềm chủ lực quốc
gia, áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10%. Như vậy có thể nói
nhà nước rất quan tâm và chú trọng đến sự phát triển của ngành gia công phần
mềm, đây sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phần mềm đầu tư các
trang thiết bị và lao động để đáp ứng ng ày càng tốt hơn nhu cầu ề gia công
phần mềm ngày càng tăng.
 Một số ưu đãi khác:
Từ năm 2000, Bộ công an, Bộ công nghiệp CNTT phối hợp cùng các cơ
quan liên quan tổ chức các hoạt động kiểm tra định kỳ chống vi phạm bản
quyền phần mềm. Nhà nước đầu tư thành lập các khu công nghiệp phần mềm,
vườn ươm doanh nghiệp phần mềm, quĩ hỗ trợ khởi nghiệp DN phần mềm,
đồng thời cấp một phần vốn cho các Quĩ đầu tư mạo hiểm tư nhân hoạt động
trong lĩnh vực cơng nghiệp phần mềm. Bên cạnh đó nhà nước còn hỗ trợ kinh


phí cho các DN phần mềm trong áp dụng các qui trình quản lý chất lượng
quốc tế ISO, CMM, trong hoạt động R & D và dành ngân sách hàng năm để
mời các chuyên gia phần mềm nước ngoài đến đào tạo, tập huấn và làm việc
tại Trung Quốc cũng như gửi các chuyên gia cao cấp trong nước đi học tập,
nghiên cứu ở nước ngoài. Ngoài ra Nhà nước đã giao cho Hiệp hội DN phần
mềm chủ trì cùng Bộ công nghiệp CNTT, Tổng cục thuế hàng năm tổ chức
đánh giá, công nhận các DN phần mềm để làm cơ sở áp dụng các ưu đãi của
Nhà nước cho DN phần mềm.
Những ưu đãi trên đã làm nên thành công đáng kể cho ngành phần mềm
Trung Quốc.

3.3.2. Lợi thế từ nhân cơng giá rẻ, trình độ ngày càng nâng cao và thủ
tục thơng thống.
Có thể nói một trong những lý do hàng đầu để gia công phần mềm tại
Trung Quốc ngày nay là các công ty Mỹ và Nhật Bản đang cố nối kết các thị
trường nước ngoài, chủ yếu với các trung tâm gia công phần mềm. Điều đó có
nghĩa là các cơng ty như Microsoft, Motorola và Nokia đang cố gắng khai
thác thị trường tiêu dùng khổng lồ này, họ sẽ phải đặt hàng gia công phần
mềm hỗ trợ cho chiến lược mở rộng hoạt động của họ tại Trung Quốc. Ngoài
giá lao động rẻ, các yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng ngành GCPM ở Trung
Quốc là sự thơng thống của các quy định và thủ tục, sự đầu tư lớn vào giáo
dục công nghệ, tiến bộ trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, và sự bùng nổ
của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy có những bước tăng trưởng đầy ấn tượng,
Trung Quốc vẫn không ngừng củng cố năng lực của lực lượng lao động, nhất
là về khả năng Anh ngữ, kỹ năng quản lý dự án và kinh nghiệm cạnh tranh
với Ấn Độ trên thị trường toàn cầu. Theo đánh giá “Ngày càng có nhiều
khách hàng đặt niềm tin vào việc kinh doanh ở Trung Quốc” điều đó cho thấy
rằng gia cơng phần mềm ở Trung Quốc phất triển mạnh mẽ, không chỉ những
thế mà trong lúc gia tăng việc đấu thầu các dự án gia công quốc tế, các công
ty CNTT Trung Quốc cũng khai thác các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc,
nơi họ có lợi thế là sự gần gũi về địa lý và sự tương đồng về chữ viết. Lợi
dụng mức lương thấp và kỹ năng sử dụng các ngôn ngữ Đông Á của công


nhân Trung Quốc, ngày càng có nhiều doanh nghiệp cung ứng dịch vụ gia
công của Ấn Độ đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc. Nhờ sự ủng hộ của chính
phủ cả hai nước, nhiều doanh nghiệp Ấn Độ – kể cả các công ty CNTT hàng
đầu như Infosys, Satyam Computer Services và Wipro Technologies, đã triển
khai hoạt động tại Trung Quốc. Học tập các doanh nghiệp Ấn Độ, các công ty
GCPM tốt nhất của Trung Quốc đang dần dần tích hợp vào sản phẩm của
mình những ứng dụng tiên tiến. Một số công ty này đang phát triển khả năng

soạn thảo các phần mềm nhúng (embedded software) có chất lượng cao để
làm việc với các nhà sản xuất điện thoại di động và thiết bị phần cứng khác.
Vậy phải nói rằng Trung Quốc rất biết sử dụng lợi thế của mình, và biết chớp
lấy thời cơ để thực hiện hành động của mình một cách hiệu quả nhất và kết
quả là gia công phần mềm của trung quốc doanh thu của thị trường GCPM
của Trung Quốc tăng gấp năm lần trong 5 năm qua. Năm 2006, thị trường gia
công của Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh, đạt giá trị 1,4 tỷ USD, tăng 48
% so với cùng kỳ năm trước; mức tăng trưởng doanh thu từ GCPM của Trung
Quốc bình quân là 38 %/năm suốt 5 năm qua.
3.3.3. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng tốt:
Hầu hết các doanh nghiệp phần mềm đều đầu tư và phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật cùng hệ thống tiêu chuẩn CNTT cốt lõi. Mặc dù Bắc Kinh,
Thượng Hải, Quảng Châu và một vài thành phố lớn khác ở vùng duyên hải
vẫn là địa điểm được phần lớn các công ty ngoại quốc chọn lựa, nhưng Trung
Quốc đang có kế hoạch làm cho các thành phố nhỏ trở nên hấp dẫn hơn. Các
doanh nghiệp đang tìm cách giảm chi phí cần chú ý rằng Trung Quốc có hơn
100 thành phố có quy mô dân số trên một triệu người_ và gần như tất cả các
thành phố này đều đang nỗ lực tối đa để thu hút đầu tư nước ngoài. Doanh
nghiệp nào chọn các thành phố hạng hai – thậm chí hạng ba – sẽ được hưởng
những ưu đãi hết sức hào phóng. Tây An, một thành phố bốn triệu dân đang
phát triển nhanh ở miền Tây Trung Quốc chẳng hạn, đã thành lập một khu cơng
nghệ cao, trong đó doanh nghiệp nước ngồi được giảm tối đa giá th văn
phịng và được miễn thuế cho đến khi nào có lợi nhuận trong hai năm liên tiếp.


3.3.4. Hướng đi mới của ngành gia công phần mềm Trung Quốc:
 Tiếp tục đầu tư vào nhân lực:
Chắc chắn chỉ sau một thập niên nữa, Trung Quốc sẽ vượt qua Ấn Độ để
trở thành địa chỉ gia công CNTT hàng đầu thế giới. Tiềm năng tăng trưởng
cho lĩnh vực này hãy cịn rất lớn. Theo tính tốn của Tập đoàn tư vấn

McKinsey Global Institute, cho đến nay giá trị gia công CNTT chỉ mới đạt
18,4 tỷ USD, giá trị gia công các dịch vụ kinh doanh là 11,4 tỷ USD – tương
đương với khoảng 10 % tiềm năng của thị trường gia cơng tồn cầu.
Nhìn về tương lai, với đà phát triển cơ sở hạ tầng, công nghệ và nhân lực,
Trung Quốc đang thu hẹp dần khoảng cách với các nước phương Tây. Đất
nước đang khao khát tiến bộ này sẽ tiếp tục phấn đấu giành các mục tiêu cao
hơn và có thể nói rằng khơng bao lâu nữa, Trung Quốc sẽ là địa chỉ gia cơng
được ưa thích trong nhiều lĩnh vực kinh tế. Và để thực hiện mục tiêu đó,
Trung Quốc vừa cơng bố kế hoạch đào tạo nhân lực cho ngành GCPM, gọi là
kế hoạch “5-10-100”. Theo đó, trong năm năm tới sẽ phát triển 100 cơng ty
chun về dịch vụ gia cơng có chất lượng cao ở 10 thành phố nhằm thu hút
khoảng 100 tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng đến đặt hàng tại Trung Quốc.
Ngồi ra để duy trì lợi thế cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các công ty
dịch vụ gia công của Trung Quốc đã biết tăng cường thu hút khách hàng
bằng cách cung ứng những sản phẩm và dịch vụ tiêu chuẩn cao, tính sáng tạo
rõ ràng và hàng loạt những lợi ích cộng thêm khác.
* Các cuộc nghiên cứu về khắc phục những lỗ hổng kinh nghiệm phát triển
phần mềm tại Trung Quốc: tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp với phát triển phần mềm
giáo dục, chỉ số kinh nghiệm phát triển phần mềm…để từ đó có chiến lược
đầu tư hơn nữa cho nhân lực.


Chương 2. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Ấn Độ
1. Thực trạng ngành gia công phần mềm của Việt Nam:
1.1 Tình hình phát triển ngành gia cơng phần mềm ở Việt Nam
1.1.1 Tình hình phát triển chung:
Phát triển CNTT, đặc biệt là CNPM là chủ trương ưu tiên của lãnh đạo
Nhà nước, là một trong những hướng đi tắt, đón đầu để cơng nghiệp hố đất
nước. Thời gian qua, CNTT đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát
triển cao nhất và giá trị đóng góp vào tăng trưởng GDP ngày một lớn, trở thành

ngành có sức hấp dẫn, thu hút mạnh đầu tư trong, ngoài nước. Những hoạt động
hợp tác đầu tư CNPM với nhiều nước diễn ra sôi nổi những năm gần đây đã mở
ra nhiều triển vọng tốt đẹp với nhiều kế hoạch đầu tư lớn. Đây là động thái quan
trọng mở đường cho sự phát triển thị trường gia công phần mềm và sự trưởng
thành, lớn mạnh của các doanh nghiệp phần mềm trong nước.
Theo đà phát triển của công nghệ thơng tin, thị trường phần mềm nước
ta đã có sự tăng trưởng khá mạnh. Từ năm 2000 đến 2005, tốc độ tăng trưởng
bình quân của thị trường nội địa đạt trên 32%/năm. Trong tổng giá trị sản
phẩm và dịch vụ phần mềm gần đây, thị trường trong nước chiềm khoảng 2/3.
Theo nhiều phân tích thì cơ quan hành chính sự nghiệp và công ty Nhà nước
vừa qua đã là những khách hàng tiềm năng của CNPM Việt Nam, chiếm 1/3
tổng chi tiêu cho CNTT cả nước.
Tuy chỉ bắt đầu bước vào thị trường xuất khẩu trong vòng 10 năm gần
đây, song phần mềm xuất khẩu Việt Nam đã có nhịp độ tăng trưởng khá nhanh.
Nhiều công ty phần mềm đã vươn tới những thị trường lớn ở Mỹ, Châu Âu và
Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng (từ 70 triệu
USD năm 2005 lên 110 triệu USD năm 2006, tăng 57%, đạt 180 triệu USD,
tăng gần 64% trong năm 2007).
Việt Nam vừa được công bố là nằm trong tốp các quốc gia hấp dẫn về
gia công phần mềm. Sau khi trở thành điểm GCPM hấp dẫn, VN tiếp tục
được hãng nghiên cứu thị trường Gartner vừa công bố nằm trong tốp 10 quốc


gia Châu Á - Thái Bình Dương có giá nhân công rẻ. Theo các chuyên gia,
ngành GCPM của VN chỉ nên coi đây là những giá trị mang tính tiềm năng.
Bởi trên thực tế, sự hấp dẫn và giá rẻ này không thể biến thành giá trị kinh tế
cao nếu như khơng có tính hiệu quả và chất lượng. Theo báo cáo của Gartner,
những tiêu chí đánh giá gồm kỹ năng ngoại ngữ, hỗ trợ của Chính phủ, nguồn
nhân lực, cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục, chi phí... và sắp xếp theo mức yếu,
trung bình, tốt, rất tốt và tuyệt vời.

Từ đây, điều đáng lo ngại là ngoài yếu tố giá rẻ được coi là thế mạnh;
còn lại đa số những tiêu chí khác của VN nằm ở mức trung bình. Thậm chí
đáng lo ngại hơn thế là VN có 4 tiêu chí bị đánh giá yếu gồm kỹ năng ngoại
ngữ, sự hỗ trợ của Chính phủ, cơ sở hạ tầng, an ninh và bảo vệ quyền riêng tư.
Những đánh giá này khá đồng nhất với Liên minh phần mềm doanh nghiệp
BSA và The Brown-Wilson Group khi cho rằng VN còn quá yếu về nghiên
cứu phát triển, đào tạo nhân lực và an ninh cũng như bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Doanh nghiệp phần mềm nước ta đã tìm được những khách hàng lớn để
gia cơng xuất khẩu nhưng chủ yếu mới là dịch vụ và đang gặp phải sự cạnh
tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp phần mềm Ấn Độ, Nga, Trung Quốc và
những nước đang phát triển. Gần đây, thị trường Nhật Bản đang nổi lên, và đã
có một lựa chọn ưu tiên với những doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch đầu tư
mở rộng dịch vụ phần mềm tại Việt Nam. Những cơng ty có người Mỹ gốc
Việt làm việc cũng là khách hàng lớn của các công ty phần mềm ở Việt Nam.
Vào thời điểm giữa tháng 4.2007, việc ban hành chỉ tiêu đến năm 2010
dù đặt ra mức 800 triệu USD đã không... gây sốc như trước đây (trong đó giá
trị xuất khẩu ít nhất đạt 40%). Bởi, đầu tư nước ngoài đang dồn dập đổ vào
Việt Nam, đặc biệt là công nghệ cao. Hàng loạt các Cty CNTT, viễn thông
Châu Âu, Châu Á đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội hợp tác. Từ chứng khoán đến
nhà đất - những thị trường cực kỳ quan trọng của một nền kinh tế - đều đã sơi
trở lại.
Tình hình kinh tế suy thối hiện nay đã ảnh hưởng đến các doanh nghiệp


×