Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tài liệu Báo cáo " Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi Việt Nam " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.54 KB, 10 trang )



nghiên cứu - trao đổi
20 tạp chí luật học số 10/2011




TS. Nguyễn Ph-ơng Lan *
1. Nhng khớa cnh lớ lun v h qu
phỏp lớ ca vic nuụi con nuụi
Vic nhn nuụi con nuụi c c quan
nh nc cú thm quyn cụng nhn theo th
tc lut nh s lm phỏt sinh quan h phỏp
lut cha m v con gia ngi nhn nuụi con
nuụi v ngi c nhn lm con nuụi. Khon
1 iu 3 Lut nuụi con nuụi quy nh: Nuụi
con nuụi l vic xỏc lp quan h cha, m v
con gia ngi nhn con nuụi v ngi
c nhn lm con nuụi.
Quan h cha m v con gia ngi nhn
con nuụi v ngi c nhn lm con nuụi
l quan h cha m v con c bit, vỡ quan
h ny khụng phỏt sinh trờn c s s sinh
t nhiờn v gn vi huyt thng gia hai bờn.
Nu quan h gia cha m v con, v bn
cht l quan h t nhiờn gn vi huyt thng,
phỏt sinh t vic th thai, mang thai, sinh con
thỡ quan h gia cha m nuụi v con nuụi l
quan h cha m v con da trờn ý chớ, tỡnh
cm khụng liờn quan n s sinh v quan


h huyt thng gia hai bờn. Do quan h cha
m v con gia ngi nhn nuụi v ngi
c nhn lm con nuụi c to lp mt
cỏch cú ch nh nờn s iu chnh bng phỏp
lut i vi quan h ny l cn thit.
Trong quan h nuụi con nuụi tn ti mi
quan h gia cỏc ch th cú liờn quan l
ngi cú quyn ng ý cho tr em lm con
nuụi (cha, m ; ngi giỏm h ca tr em),
tr em c cho lm con nuụi v ngi nhn
nuụi. Mi quan h gia ba bờn ny khụng
ch tn ti khi bt u xỏc lp quan h nuụi
con nuụi, m tn ti sut trong ton b quỏ
trỡnh thc hin vic nuụi con nuụi, tu theo
s iu chnh phỏp lut ca mi nc. Phỏp
lut cn cú quy nh c th, rừ rng, y
v ton din v cỏc quyn v ngha v cú th
phỏt sinh gia cỏc bờn cú liờn quan trong
quan h cho-nhn con nuụi. S quy nh v
h qu phỏp lớ ca vic nuụi con nuụi cng
y , c th, phự hp vi bn cht ca
quan h nuụi con nuụi thỡ vic iu chnh
quan h nuụi con nuụi cng cú tớnh kh thi
hiu qu, m bo c quyn, li ớch chớnh
ỏng ca cỏc ch th ng thi trỏnh c
cỏc tranh chp cú th xy ra.
Theo quy nh trong h thng phỏp lut
ca mt s nc trờn th gii, h qu phỏp
lớ ca vic nuụi con nuụi ph thuc vo
vic nuụi con nuụi c xỏc lp theo hỡnh

thc nuụi con nuụi y hay nuụi con
nuụi n gin.
Nuụi con nuụi n gin l hỡnh thc xỏc
lp quan h cha m v con gia ngi nhn
nuụi v con nuụi nhng khụng lm chm dt
hon ton cỏc quyn v ngha v phỏp lớ gia
ngi c nhn nuụi vi cha m v gia
ỡnh huyt thng. Hỡnh thc nuụi con nuụi
n gin tn ti ng thi hai quan h cha
* Trng i hc Lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011 21
mẹ và con: quan hệ giữa cha mẹ đẻ - con,
quan hệ giữa cha mẹ nuôi - con nuôi. Do đó
việc quy định các quyền và nghĩa vụ giữa
cha mẹ và con trong hai mối quan hệ này cần
rành mạch, rõ ràng, đầy đủ để có cơ sở pháp
lí điều chỉnh quan hệ giữa các bên.
Nuôi con nuôi đầy đủ (còn gọi là nuôi
con nuôi trọn vẹn) là hình thức nuôi con nuôi
dẫn đến chấm dứt hoàn toàn các mối liên hệ
pháp lí giữa người được nhận nuôi với gia
đình cha mẹ đẻ đồng thời làm phát sinh đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lí của cha mẹ
và con giữa người nhận nuôi và người được
nhận làm con nuôi, người được nhận làm
con nuôi có mọi quyền và nghĩa vụ như con
đẻ trong gia đình cha mẹ nuôi. Trong hình

thức nuôi con nuôi trọn vẹn, việc nuôi con
nuôi được xác lập làm chấm dứt mọi quyền
và nghĩa vụ pháp lí giữa cha mẹ đẻ và con
được cho làm con nuôi. Điều này đã được
cha, mẹ đẻ hoặc người có quyền đồng ý cho
trẻ em làm con nuôi (trong trường hợp cha,
mẹ đều không còn sống, đều không thể thể
hiện được ý chí) bày tỏ ý chí và xác định
ngay từ lúc làm thủ tục xác lập quan hệ nuôi
con nuôi. Điều này cũng được quy định
trong Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác về nuôi con nuôi giữa các
nước. Công ước La Hay năm 1993 đòi hỏi
việc nhận nuôi con nuôi trọn vẹn chỉ được
công nhận ở nước nhận khi có sự thể hiện ý
chí rõ ràng của người có quyền đồng ý cho
trẻ làm con nuôi về việc hiểu rõ và đồng ý
chấm dứt mọi quan hệ pháp lí giữa gia đình
gốc với trẻ em được cho làm con nuôi (Điều
27 Công ước La Hay năm 1993). Nếu cha
mẹ đẻ hoặc người có quyền đồng ý cho trẻ
em làm con nuôi không thể hiện rõ điều đó
thì việc nuôi con nuôi đó chỉ được công nhận
theo hình thức nuôi con nuôi đơn giản ở
nước tiếp nhận.
Việc nuôi con nuôi đầy đủ gắn liền với
việc chấm dứt mọi quan hệ pháp lí với gia
đình cha mẹ đẻ, do đó đứa trẻ được nhận
nuôi theo hình thức nuôi con nuôi đầy đủ chỉ
còn gia đình duy nhất là gia đình người nhận

nuôi (cha, mẹ nuôi). Vì vậy để đảm bảo
quyền lợi cho đứa trẻ, đảm bảo quyền được
sống trong gia đình của trẻ em, pháp luật các
nước quy định những điều kiện nhận nuôi
con nuôi đầy đủ gắn liền với những hệ quả
pháp lí của hình thức nuôi con nuôi này.
Theo quy định của pháp luật các nước,
hình thức nuôi con nuôi đầy đủ chỉ được
xác lập với những điều kiện chặt chẽ. Theo
pháp luật Cộng hoà Pháp việc nuôi con nuôi
đầy đủ chỉ được xác lập với những trẻ em
mà cả cha và mẹ hoặc hội đồng gia tộc chấp
thuận cho làm con nuôi hoặc những trẻ em
mồ côi được nhà nước đỡ đầu hoặc trẻ em
bị tuyên bố bỏ rơi.
(1)
Trong trường hợp vợ
hoặc chồng nhận con riêng của người kia
làm con nuôi theo hình thức đầy đủ thì
người nhận nuôi con nuôi phải đã kết hôn
với người cha hoặc mẹ đẻ của trẻ, người
cha hoặc người mẹ kia của trẻ bị tước
quyền cha mẹ hoàn toàn hoặc người cha
hoặc người mẹ kia của trẻ chết và không
còn người thân thuộc ở hàng thứ nhất (cha
mẹ) hoặc khi những người này hiển nhiên
không quan tâm đến trẻ.
(2)

Về hệ quả pháp lí, “trong gia đình người

nhận nuôi con nuôi, con nuôi có các quyền
và nghĩa vụ như những người con đã xác lập


nghiªn cøu - trao ®æi
22 t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011
quan hệ giữa cha mẹ và con…” và “việc
nhận con nuôi không thể bị huỷ bỏ”.
(3)
Pháp
luật Trung Quốc quy định: kể từ ngày quan
hệ nuôi con nuôi được xác lập, các quy định
pháp luật về quan hệ giữa cha mẹ đẻ và trẻ
em sẽ được áp dụng đối với quan hệ giữa
cha mẹ nuôi và trẻ em được nhận nuôi; các
quy định pháp luật về mối quan hệ giữa trẻ
em và họ hàng thân thích của cha mẹ đẻ sẽ
được áp dụng quy định pháp luật về các
quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa
trẻ nhận làm con nuôi với họ hàng thân
thích của cha mẹ nuôi. Các quyền và nghĩa
vụ giữa trẻ được nhận làm con nuôi với cha
mẹ đẻ và những người họ hàng thân thích
khác sẽ chấm dứt kể từ ngày xác lập quan
hệ nuôi con nuôi.
(4)

Như vậy, với hình thức nuôi con nuôi
đầy đủ, con nuôi có mọi quyền và nghĩa vụ
đầy đủ trong gia đình cha mẹ nuôi, cũng như

với các thành viên khác trong gia đình cha
mẹ nuôi đồng thời chấm dứt mọi quan hệ
pháp lí với cha mẹ đẻ và với các thành viên
trong gia đình huyết thống.
Do đó, từ góc độ lí luận, hệ quả pháp lí
của việc nuôi con nuôi tuỳ thuộc vào việc
nuôi con nuôi được xác lập theo hình thức
nào. Pháp luật các nước có thể quy định cả
hai hình thức nuôi con nuôi song song nhưng
luôn quy định rõ hậu quả pháp lí gắn với mỗi
hình thức nuôi con nuôi cụ thể. Vì vậy, về
mặt lí luận, hệ quả pháp lí của việc nuôi con
nuôi phải được quy định đầy đủ mối quan hệ
giữa ba bên: cha mẹ đẻ (gia đình gốc), cha
mẹ nuôi (và các thành viên trong gia đình
cha mẹ nuôi) và con nuôi gắn với mỗi hình
thức nuôi con nuôi cụ thể.
2. Những điểm mới về hệ quả pháp lí
của việc nuôi con nuôi theo quy định của
Luật nuôi con nuôi
Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
được quy định tại Điều 24 Luật nuôi con
nuôi. Trong Luật nuôi con nuôi, hệ quả pháp
lí của việc nuôi con nuôi có sự kế thừa các
quy định trong Luật hôn nhân và gia đình
(Luật HN&GĐ) năm 2000 nhưng cũng có
những điểm mới quan trọng. Có thể so sánh
để thấy những điểm giống nhau và khác
nhau cơ bản giữa Luật HN&GĐ năm 2000
với Luật nuôi con nuôi quy định về hệ quả

pháp lí của việc nuôi con nuôi như sau:
2.1. Những điểm giống nhau mang tính
kế thừa
- Con nuôi và cha mẹ nuôi có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo
quy định của pháp luật kể từ ngày giao nhận
con nuôi. Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có
tất cả các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và
con theo quy định của Luật HN&GĐ năm
2000 được quy định từ Điều 34 đến Điều 46
và các quy định khác có liên quan. Các
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân
thân và các quyền, nghĩa vụ về tài sản. Đó là
các quyền như quyền chăm sóc, yêu thương,
nuôi dưỡng, giáo dục; đại diện cho con chưa
thành niên; không được phân biệt đối xử
giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
con; không được lạm dụng sức lao động của
con; cha mẹ nuôi có quyền quản lí tài sản
của con nuôi chưa thành niên; cha mẹ nuôi
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản
do hành vi trái pháp luật của con nuôi chưa
thành niên gây ra; giữa cha mẹ nuôi và con


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011 23
nuôi có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với
nhau, có quyền thừa kế tài sản của nhau khi

một bên chết trước…
- Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định việc
thay đổi họ tên của con nuôi. Việc thay đổi
họ, tên của con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên phải
được sự đồng ý của người đó.
- Việc xác định dân tộc của con nuôi
được xác định theo quy định của Bộ luật dân
sự. Đối với trẻ em bị bỏ rơi được nhận làm
con nuôi mà không xác định được cha mẹ thì
dân tộc của con nuôi được xác định theo dân
tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
2.2. Điểm mới của Luật nuôi con nuôi so
với Luật HN&GĐ năm 2000
- Thứ nhất, Luật nuôi con nuôi không
những quy định mối quan hệ giữa con nuôi
với cha mẹ nuôi mà còn quy định mối quan
hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ nuôi.
Khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi quy
định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa
con nuôi và các thành viên khác của gia
đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa
vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật
về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Qua quy định này có thể hiểu là giữa
con nuôi với các thành viên khác trong gia
đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền và

nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật
dân sự Quan hệ giữa người con nuôi trong
gia đình cha mẹ nuôi bao gồm nhiều quan hệ
khác nhau như: Quan hệ giữa con nuôi với
cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi; giữa con
nuôi với các con đẻ của người nhận nuôi,
giữa con nuôi với những người anh, chị, em
ruột của cha nuôi, mẹ nuôi v.v Trong mối
quan hệ với những thành viên này của gia
đình cha mẹ nuôi, người con nuôi có được
coi như con đẻ của người nhận nuôi hay
không, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như
con đẻ của người nhận nuôi hay không là
điều chưa được làm rõ qua quy định trên. Ví
dụ: Giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của
người nhận nuôi có được thừa kế tài sản của
nhau hay không hoặc giữa họ có phát sinh
quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với nhau
theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ
năm 2000 hay không? Những câu hỏi tương
tự cũng có thể được đặt ra trong quan hệ
giữa con nuôi của người nhận nuôi với những
người con đẻ của người nhận nuôi, như giữa
con nuôi với con đẻ của cha mẹ nuôi có
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp
dưỡng cho nhau hay không? Theo chúng tôi,
đây là nội dung quan trọng trong hệ quả
pháp lí của việc nuôi con nuôi, có ý nghĩa
thiết thực trong quan hệ nuôi con nuôi đồng

thời cũng là vấn đề dễ xảy ra tranh chấp, do
đó cần có quy định rõ ràng để có cơ sở pháp
lí giải quyết khi có tranh chấp.
Luật nuôi con nuôi mới có hiệu lực chưa
lâu, nên tác động điều chỉnh của nó chưa thể
hiện rõ trong thực tế. Tuy nhiên, với cách
quy định không rõ ràng như trên, từ góc độ lí
luận có thể có hai quan điểm cơ bản khác
nhau về hệ quả pháp lí của việc nuôi con
nuôi. Sự phân tích các quan điểm khác nhau
về vấn đề này là cần thiết để có thể xây dựng
những quy định phù hợp, nhất quán, rõ ràng


nghiªn cøu - trao ®æi
24 t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011
trong việc điều chỉnh pháp luật về hệ quả
pháp lí của việc nuôi con nuôi.
Quan điểm thứ nhất cho rằng giữa con
nuôi với các thành viên khác trong gia đình
cha mẹ nuôi chỉ tồn tại mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình với nhau, được
điều chỉnh bởi quy định tại Điều 49 Luật
HN&GĐ năm 2000. Với quy định tại Điều
này thì con nuôi chỉ có quan hệ với các
thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi
khi con nuôi sống chung với những thành
viên này, do đó giữa con nuôi và những
thành viên khác trong gia đình của cha mẹ
nuôi chỉ có nghĩa vụ “quan tâm, giúp đỡ

nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung
của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài
sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp
với thu nhập, khả năng thực tế của mình”.
Khi con nuôi không sống chung với các
thành viên khác của gia đình cha nuôi, mẹ
nuôi thì giữa họ cũng không tồn tại quyền và
nghĩa vụ gì. Do đó, quy định tại các điều 47,
48, 58, 59 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng
không được áp dụng để điều chỉnh mối quan
hệ giữa họ với nhau. Điều đó có nghĩa là
giữa con đẻ với con nuôi của người nhận
nuôi không có quan hệ anh, chị, em với
nhau, do đó cũng không có nghĩa vụ
“thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có
nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng
nhau trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không có điều kiện trong nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con” theo
quy định tại Điều 48 Luật HN&GĐ năm
2000 và vì vậy giữa họ cũng không có quyền
và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy
định tại Điều 58 Luật HN&GĐ năm 2000.
Tương tự như vậy, giữa con nuôi của người
nhận nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận
nuôi cũng không có quan hệ giữa ông, bà
nội, ông, bà ngoại với cháu nên giữa họ cũng
không có các quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định tại Điều 47, Điều 59
Luật HN&GĐ năm 2000.

Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi với
các thành viên khác của gia đình cha mẹ
nuôi: Với cách hiểu như trên thì giữa con
nuôi với các thành viên khác của gia đình
cha mẹ nuôi, như với cha đẻ, mẹ đẻ; các con
đẻ; anh, chị, em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi
sẽ không có quyền thừa kế theo luật của
nhau theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân
sự năm 2005. Tương tự, con nuôi cũng
không được hưởng thừa kế thế vị theo quy
định tại Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005
đối với tài sản của cha đẻ, mẹ đẻ của người
nhận nuôi con nuôi nếu người nhận nuôi chết
trước con nuôi. Quan điểm này đã được thể
hiện tương đối rõ ràng và khá thống nhất
trong các giáo trình luật dân sự của các cơ sở
đào tạo luật trước khi Luật nuôi con nuôi ra
đời.
(5)
Sở dĩ quan điểm về vấn đề này được
nhận thức khá thống nhất là do vấn đề này
đã được quy định trong Nghị quyết số
02/1990/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Pháp lệnh thừa kế. Nghị
quyết số 02/1990/NQ-HĐTP nêu rõ: “con
nuôi không đương nhiên trở thành cháu của
cha, mẹ của người nuôi dưỡng và cũng
không đương nhiên trở thành anh, chị, em
của con đẻ của người nuôi. Do đó, con nuôi

không phải là người thừa kế theo pháp luật
của cha, mẹ, con đẻ của người nuôi”. Tuy


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011 25
nhiên con đẻ của người con nuôi thì được coi
là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi và được
hưởng thừa kế thế vị phần tài sản mà đáng lẽ
cha, mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống
vào thời điểm mở thừa kế. Như vậy, đối với
gia đình cha nuôi, mẹ nuôi, “con nuôi chỉ
có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi
mà không có quan hệ thừa kế với cha, mẹ
và con đẻ của người nuôi”.
(6)
Quan điểm
này vẫn được duy trì trong quá trình phát
triển của pháp luật dân sự qua Bộ luật dân
sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.
Khi Bộ luật dân sự năm 1995, sau đó là Bộ
luật dân sự năm 2005 được ban hành và có
hiệu lực không có văn bản nào hướng dẫn
khác về quan hệ thừa kế giữa con nuôi với
các thành viên khác trong gia đình cha nuôi,
mẹ nuôi, nên các quy định của Nghị quyết
số 02/1990/NQ-HĐTP vẫn mặc nhiên được
áp dụng để điều chỉnh quan hệ thừa kế giữa
con nuôi với gia đình cha nuôi, mẹ nuôi. Vì
vậy, với quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật

nuôi con nuôi như trên thì có thể hiểu giữa
con nuôi và các thành viên khác của gia
đình cha mẹ nuôi không có quyền thừa kế
tài sản của nhau “theo quy định của pháp
luật về thừa kế”.
Với cách hiểu như đã phân tích, có thể
nói quan hệ nuôi con nuôi chỉ làm phát sinh
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
với người được nhận làm con nuôi, còn giữa
người con nuôi với những thành viên khác
của gia đình cha, mẹ nuôi về cơ bản không
có quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Quan điểm thứ hai cho rằng theo quy
định: “giữa con nuôi với các thành viên
khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các
quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
pháp luật dân sự và các quy định khác của
pháp luật có liên quan” (khoản 1 Điều 24
Luật nuôi con nuôi) thì giữa con nuôi với
các thành viên khác của gia đình cha mẹ
nuôi cũng có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
giống như con đẻ. Điều này là hợp lí khi
việc nuôi con nuôi được xác lập theo hình
thức nuôi con nuôi đầy đủ. Tuy nhiên, pháp
luật Việt Nam từ trước đến nay chưa có quy
định về việc nhận nuôi con nuôi đầy đủ.
Đặc biệt là việc nuôi con nuôi đầy đủ sẽ dẫn
đến việc chấm dứt mọi quan hệ pháp lí giữa
người được nhận làm con nuôi với cha mẹ

đẻ và gia đình huyết thống. Điều này có
phần nào không phù hợp với phong tục, tập
quán, tâm lí của người Việt Nam. Trong
thực tế, việc nhận nuôi con nuôi không chỉ
làm xác lập mối quan hệ tình cảm giữa cha
mẹ nuôi với con nuôi, mà còn làm xuất hiện
những mối quan hệ gắn bó giữa người con
nuôi với các thành viên khác trong gia đình
cha mẹ nuôi. Để tạo môi trường gia đình tốt
nhất cho trẻ em được nhận làm con nuôi, để
con nuôi có thể hoà nhập với gia đình cha
mẹ nuôi thì con nuôi không chỉ có mối quan
hệ với bản thân người nhận nuôi mà còn
cần thiết lập mối quan hệ gắn bó về quyền
và nghĩa vụ giữa con nuôi với các thành
viên khác trong gia đình của người nhận
nuôi. Vì vậy, quan điểm trong việc xây
dựng Luật nuôi con nuôi là “Con nuôi
không chỉ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
pháp lí đối với cha mẹ nuôi mà còn với ông,
bà nội ngoại, anh, chị, em trong gia đình
cha mẹ nuôi”.
(7)
Với quan điểm đó, nhà làm


nghiªn cøu - trao ®æi
26 t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011
luật muốn xác lập mối quan hệ pháp lí đầy
đủ giữa con nuôi với các thành viên khác

của gia đình cha mẹ nuôi, nên Luật nuôi
con nuôi đã quy định về điều này tại khoản
1 Điều 24. Với cách hiểu này, giữa con nuôi
với các thành viên khác của gia đình cha mẹ
nuôi, mà trước hết là với cha đẻ, mẹ đẻ của
người nhận nuôi, giữa con nuôi với các con
đẻ của người nhận nuôi cũng có các quyền
và nghĩa vụ theo quy định tại Chương V
Luật HN&GĐ năm 2000.
(8)
Điều đó có nghĩa
là giữa họ không chỉ có quyền và nghĩa vụ
được quy định tại Điều 49 Luật HN&GĐ
năm 2000, mà còn có các quyền và nghĩa vụ
đối với nhau theo quy định tại Điều 47, Điều
48 Luật HN&GĐ năm 2000. Khi đã có các
quyền và nghĩa vụ tại các điều này thì giữa
họ cũng có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
cho nhau theo quy định tại Điều 58, Điều 59
Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên, như đã
phân tích, quy định này là chưa rõ ràng nên
chưa có cách hiểu thống nhất. Đặc biệt khi
việc nhận con nuôi đầy đủ chưa trở thành
thói quen, nếp nghĩ, cách ứng xử của người
dân Việt Nam thì càng cần phải có quy định
rõ ràng về hệ quả pháp lí của việc nuôi con
nuôi trong mối quan hệ này. Mặt khác, các
quy định có liên quan của pháp luật dân sự
(Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP) lại có
quy định rất rõ về các mối quan hệ này và

không thừa nhận giữa người được nhận làm
con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận
nuôi đương nhiên có quan hệ giữa ông bà
và cháu, giữa con nuôi và các con đẻ của
người nhận nuôi không đương nhiên có
quan hệ anh, chị, em với nhau… mà chưa
có văn bản nào quy định khác. Vì vậy, quy
định tại khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi
chưa cụ thể, chưa xác định được quyền và
nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình
cha, mẹ nuôi với người được nhận làm con
nuôi, dẫn tới những cách hiểu khác nhau,
không thống nhất.
- Thứ hai, về quan hệ giữa con đã cho
làm con nuôi với cha mẹ đẻ, khoản 2 Điều
24 Luật nuôi con nuôi quy định sự chấm dứt
một số quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ
với người con đã cho làm con nuôi như sau:
“trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi có thoả thuận khác, kể từ ngày giao
nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền
và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp
dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường
thiệt hại, quản lí, định đoạt tài sản riêng
đối với con đã cho làm con nuôi”. Với quy
định này, về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ
làm cha mẹ được chuyển từ cha mẹ đẻ sang
cha mẹ nuôi kể từ ngày việc nuôi con nuôi
được pháp luật công nhận. Cha mẹ đẻ
không còn quyền cha mẹ đối với con đã cho

làm con nuôi. Quy định này là cần thiết để
tránh sự tranh chấp về quyền, nghĩa vụ làm
cha mẹ giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi đối
với con nuôi, khắc phục được điểm hạn chế
của các quy định về hệ quả pháp lí của việc
nuôi con nuôi trong các văn bản trước đây.
Tuy nhiên, với quy định này thì không phải
mọi quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và
con đều đương nhiên chấm dứt mà chỉ
những quyền và nghĩa vụ nào được quy
định rõ tại khoản 2 Điều 24 Luật nuôi con
nuôi là chấm dứt thì mới chấm dứt. Điều đó
cũng có nghĩa là về nguyên tắc, quan hệ
pháp lí giữa cha mẹ đẻ và con đẻ đã cho


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011 27
làm con nuôi chấm dứt trước pháp luật khi
việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực nhưng
quan hệ thừa kế giữa người con đó với cha
mẹ đẻ và gia đình huyết thống lại không
đương nhiên chấm dứt, mà vẫn tồn tại, vì
quan hệ thừa kế này không được liệt kê
trong quy định trên là sẽ chấm dứt. Như
vậy, người con đã cho làm con nuôi vẫn có
quyền thừa kế theo luật đối với cha đẻ, mẹ
đẻ và những người họ hàng huyết thống
khác trong gia đình gốc như trước khi đi
làm con nuôi và ngược lại, cha đẻ, mẹ đẻ và

những người họ hàng huyết thống vẫn là
người thừa kế theo luật của người được
nhận làm con nuôi khi người này chết. Theo
quan điểm của chúng tôi, điều này không
phù hợp với bản chất và thực tế thực hiện
quan hệ nuôi con nuôi, kể cả quan hệ nuôi
con nuôi trong nước và đặc biệt là trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Với trường hợp được nhận nuôi con
nuôi trong nước, khi cha mẹ nuôi đã xác lập
quan hệ cha mẹ với người con nuôi thì theo
lẽ thông thường, cha mẹ nuôi mong muốn
con nuôi có cuộc sống ổn định, yên ấm
trong gia đình cha mẹ nuôi, không muốn
duy trì bất cứ mối quan hệ nào với gia đình
cha mẹ đẻ, kể cả quan hệ thừa kế, trừ
trường hợp đặc biệt (như cô, dì, cậu, chú,
bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi hoặc
cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ
hoặc chồng làm con nuôi) hoặc giữa cha mẹ
đẻ với cha mẹ nuôi có thoả thuận khác.
Trong trường hợp trẻ em Việt Nam được
nhận làm con nuôi người nước ngoài với
hình thức nuôi con nuôi đầy đủ phù hợp với
pháp luật của nước nhận thì mọi quyền và
nghĩa vụ giữa người con đó với cha mẹ đẻ
và gia đình huyết thống là chấm dứt, do đó
quan hệ thừa kế giữa người con đã cho làm
con nuôi nước ngoài với cha mẹ đẻ và gia
đình gốc huyết thống cũng không thể tồn

tại. Vì vậy, quy định về việc quan hệ thừa
kế giữa con đã cho làm con nuôi với cha mẹ
đẻ và gia đình huyết thống không đương
nhiên chấm dứt như các quyền và nghĩa vụ
khác là không phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế về hệ quả pháp lí của việc
nuôi con nuôi và cũng không có tính khả thi.
Mặt khác, trong trường hợp giữa cha mẹ
đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận thì việc
chấm dứt hay tồn tại quyền và nghĩa vụ gì
(kể cả quyền thừa kế) giữa cha mẹ đẻ và con
đã cho làm con nuôi tuỳ thuộc vào sự thoả
thuận giữa hai bên. Về nguyên tắc, cha mẹ
đẻ và cha mẹ nuôi có toàn quyền thoả thuận
với nhau về các quyền và nghĩa vụ làm cha
mẹ đối với người con, trên cơ sở đảm bảo
mục đích của việc nuôi con nuôi là vì lợi ích
tốt nhất của người được nhận nuôi. Việc thoả
thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi bao
gồm các quyền và nghĩa vụ mà cha mẹ đẻ sẽ
được giữ lại đối với con và cách thức thực
hiện những quyền này sau khi đã cho con
làm con nuôi. Việc thoả thuận này được thực
hiện trước khi đăng kí việc nuôi con nuôi tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải
được lập thành văn bản.
(9)
Văn bản ghi nhận
sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi
là cơ sở pháp lí để uỷ ban nhân dân xấp xã

nơi cha mẹ nuôi thường trú kiểm tra, theo
dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi
theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật nuôi
con nuôi và là cơ sở pháp lí để cơ quan có


nghiªn cøu - trao ®æi
28 t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011
thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa các bên trong quá trình thực hiện việc
nuôi con nuôi.
3. Một số ý kiến hoàn thiện quy định
về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
Qua sự phân tích trên đây, có thể thấy về
hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi Luật
nuôi con nuôi đã có sự tiếp cận gần với
những quy định của pháp luật các nước và
pháp luật quốc tế, đã phản ánh được phần
nào bản chất và mối quan hệ giữa các chủ
thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, quy định về vấn đề này trong
Luật nuôi con nuôi còn tồn tại những điểm
chưa rõ ràng, rành mạch, do đó có thể dẫn
đến những cách hiểu và áp dụng pháp luật
khác nhau như đã phân tích ở trên. Vì vậy,
theo chúng tôi, cần có văn bản quy định rõ
về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi ở
một số khía cạnh cụ thể sau:
- Luật nuôi con nuôi không có quy định
nào về việc con liệt sĩ, con thương binh, con

của người có công với cách mạng được
người khác nhận làm con nuôi vẫn tiếp tục
được hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ,
con thương binh, con của người có công với
cách mạng như tại Điều 74 Luật HN&GĐ
năm 2000. Vậy vấn đề này được hiểu như
thế nào theo Luật nuôi con nuôi? Có ý kiến
cho rằng vấn đề này đã được điều chỉnh
trong Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng, do đó “đối với các trường hợp
con nuôi trước đây là con liệt sĩ, con thương
binh, con của người có công với cách mạng,
thì hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi sẽ
được thực hiện theo quy định của Luật nuôi
con nuôi, còn việc hưởng các quyền lợi của
cha mẹ đẻ sẽ được thực hiện theo quy định
của Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng”.
(10)
Tuy nhiên, việc nhận nuôi
con nuôi thiết lập quan hệ cha mẹ và con
mới, không gắn với huyết thống, nên các
quyền lợi của người con đã cho làm con nuôi
phát sinh trong quan hệ với cha mẹ đẻ không
đương nhiên còn tồn tại mà tuỳ thuộc vào
quy định của pháp luật. Do đó, để các bên
chủ thể hiểu rõ các quyền, nghĩa vụ trong
quan hệ nuôi con nuôi, cũng như áp dụng
pháp luật thống nhất để giải quyết tranh chấp
khi phát sinh thì cần có quy định rõ và thống

nhất về vấn đề này. Vì vậy, Luật nuôi con
nuôi cần quy định rõ như đoạn 2 Điều 74
Luật HN&GĐ năm 2000.
- Quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật
nuôi con nuôi là chưa rõ ràng, có thể dẫn tới
nhiều cách hiểu khác nhau. Mặc dù quan
điểm của nhà lập pháp là muốn xác lập đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi
không chỉ với cha mẹ nuôi mà còn với các
thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi
nhưng thực tế quy định này đã không được
hiểu như vậy, từ góc độ thực tiễn và góc độ
khoa học.
Theo quan điểm của chúng tôi, việc nuôi
con nuôi có làm phát sinh đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ giữa con nuôi với các thành viên
khác của gia đình cha mẹ nuôi hay không
tuỳ thuộc vào việc nuôi con nuôi được xác
lập theo hình thức nào: đơn giản hay đầy đủ.
Phù hợp với logic quy định tại Điều 24 Luật
nuôi con nuôi, chúng tôi cho rằng nếu giữa
cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thoả


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2011 29
thuận gì khác thì việc nuôi con nuôi có hiệu
lực làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
giữa người con với cha mẹ đẻ và gia đình
huyết thống đồng thời làm phát sinh đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
giữa cha mẹ nuôi với con nuôi giữa con nuôi
với các thành viên khác trong gia đình cha
mẹ nuôi như con đẻ của người nhận nuôi, kể
cả quyền thừa kế. Điều đó cũng có nghĩa là
cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thể và cần lựa
chọn quyết định xác lập quan hệ nuôi con
nuôi theo hình thức nào, và quyết định đó
của họ chi phối đến hệ quả pháp lí phát sinh
sau khi việc nhận nuôi con nuôi được hoàn
tất về thủ tục.
Do đó, ý chí của cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi là yếu tố quyết định hệ quả pháp lí của
việc nuôi con nuôi song điều đó phải được
pháp luật ghi nhận. Với logic như vậy thì hệ
quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có thể
được quy định theo hai trường hợp:
Thứ nhất, có sự thoả thuận tự nguyện
giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi về các quyền
và nghĩa vụ pháp lí giữa cha mẹ đẻ, cha mẹ
nuôi, con nuôi cũng như giữa con nuôi với
gia đình cha mẹ đẻ hoặc giữa con nuôi với
các thành viên khác trong gia đình của cha
mẹ nuôi. Sự thoả thuận này bao gồm cả hai
hướng: Chấm dứt hoặc giữ lại toàn bộ hay
một phần các quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa
các bên chủ thể có liên quan. Sự thoả thuận
này được lập thành văn bản có sự chứng kiến
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận việc nuôi con nuôi.

Thứ hai, nếu giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi không có thoả thuận gì về các quyền và
nghĩa vụ pháp lí giữa các bên sau khi quan
hệ nuôi con nuôi được xác lập thì quan hệ
giữa con đã cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ
và gia đình gốc huyết thống chấm dứt toàn
bộ, kể cả quan hệ thừa kế đồng thời con nuôi
được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
trong gia đình cha mẹ nuôi, gồm cả quan hệ
với các thành viên khác của gia đình cha
nuôi, mẹ nuôi như con đẻ của người nhận
nuôi, kể cả quyền thừa kế theo luật.
Quy định như vậy vừa rõ ràng, vừa thể
hiện sự tôn trọng quyền tự quyết gắn liền với
nhân thân của các đương sự, đảm bảo sự
tương thích với quy định của pháp luật các
nước, do đó có tính khả thi và thống nhất khi
thực hiện, áp dụng pháp luật./.

(1).Xem: Điều 347 Bộ luật dân sự Pháp, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2005.
(2).Xem: Khoản 1 Điều 345 Bộ luật dân sự Pháp,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
(3).Xem: Điều 358 và Điều 359 Bộ luật dân sự Pháp,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
(4).Xem: Điều 23 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc
có hiệu lực từ ngày 01/4/1999.
(5).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 2005, tr. 341; xem: Khoa luật, Viện đại học mở

Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự (tập II), Nxb. Công
an nhân dân, tr. 285 - 286.
(6).Xem: Mục 5, mục 6 Nghị quyết số 02/1990/NQ-
HĐTP.
(7).Xem: Bản thuyết minh về Dự án Luật nuôi con
nuôi của Bộ tư pháp, ngày 30/9/2009.
(8).Xem: Triệu Thị Thu Thuỷ, “Hệ quả pháp lí của
nuôi con nuôi”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số
chuyên đề Pháp luật về nuôi con nuôi, Hà Nội,
2011, tr. 45.
(9).Xem: Điều 20, Điều 21 Luật nuôi con nuôi, khoản 3
Điều 8 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011
quy định chi tiết một số điều của Luật nuôi con nuôi.
(10).Xem: Triệu Thị Thu Thuỷ, tlđd, tr. 47.

×