Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng cá ông ở phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.71 MB, 30 trang )

*****

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG CÁ ƠNG Ở PHÚ N


MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN....................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu đề tài...................................................................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................................5
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu.....................................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................................................6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.....................................................................6
1. Cơ sở lí luận.......................................................................................................................................6
2. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................................................7
CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG CÁ ƠNG TẠI VIỆT NAM....................7
II. QUAN NIỆM, TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁ ÔNG Ở PHÚ YÊN. ĐÔI NÉT VỀ KIẾN TRÚC
LĂNG ÔNG Ở PHÚ YÊN........................................................................................................................8
1. Quan niệm..........................................................................................................................................8
2. Truyền thuyết...................................................................................................................................11
3. Đôi nét về kiến trúc lăng Ông ở một số vạn chài Phú Yên..............................................................12
III. CÁC NGHI LỄ THỜ CÚNG CÁ ÔNG..........................................................................................13
1. Đám tang cá Ông.............................................................................................................................13
2. Lễ thỉnh ngọc cốt..............................................................................................................................15
IV. LỄ HỘI CẦU NGƯ...........................................................................................................................17
4.1 PHẦN LỄ...........................................................................................................................................20
4.1.1 Phần khai lễ................................................................................................................................20
4.1.2 Lễ rước sắc thần..........................................................................................................................20
4.1.3 Lễ nghinh Ông Sanh...................................................................................................................21
4.1.4 Lễ tế thần.....................................................................................................................................23


4.1.5 Thứ lễ..........................................................................................................................................25
4.1.6 Lễ tôn vương...............................................................................................................................26
4.2 PHẦN HỘI........................................................................................................................................26
4.2.1 Các hoạt động thể thao...............................................................................................................26
4.2.2 Trò chơi dân gian........................................................................................................................27
4.2.3 Các loại hình diễn xướng............................................................................................................28
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................................30
1


PHẦN TỔNG QUAN

1. Lý do chọn đề tài
Là 1 quốc gia có đường bờ biển dài 2360km. Tự cổ chí kim, biển trong tâm
thức của người dân Việt Nam là một phần khơng thể thiếu. Biển khơng những giữ
vai trị quan trọng lớn đối với kinh tế của các cư dân người Việt qua các thời kỳ, biển
cịn đóng vai trị lớn trong q trình sản sinh những đặc trưng văn hóa vùng và tiểu
vùng ven biển. Đồng thời biển còn là con đường tiếp biến và giao thoa giữa nền văn
hóa bản địa Việt và các dịng văn hóa khác trên thế giới như văn hóa Ấn Độ, văn hóa
Nhật Bản, văn hóa phương Tây... qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. .Vì lẽ đó,
việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian cư dân ven biển mang ý nghĩa cấp
thiết.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa cư dân ven biển đối với cơng cuộc
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, và
với mục đích hiểu biết rõ hơn diện mạo văn hóa và bản sắc văn hóa người Việt vùng
ven biển, việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian cư dân ven biển là một tất
yếu khách quan,đáp ứng thực tiễn của thời đại.
Trong dịng chảy văn hóa tín ngưỡng, hầu hết các vị thần được cư dân ven biển
nước ta tôn thờ vốn đều mang yếu tố biển cả, sông nước, bến bãi…có lai lịch cơng

trạng và là niềm tin về quyền năng cứu giúp, là vị thần hộ mệnh cho cư dân của cả
một vùng ven biển. Tín ngưỡng thờ Cá Ông (cá Voi) nhằm đem đến nhiều may mắn
cho ngư dân làm nghề đánh cá, ra khơi vào lộng. Đây là một dạng thức thờ vật linh,
nhiên thần, vị thần độ mạng cho những người đi biển. Vì vậy, tục thờ Cá Ơng là một
tín ngưỡng hết sức phổ biến và có từ lâu đời của cư dân ven biển nước ta trên suốt
dải bờ biển từ Bắc chí Nam.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu " tục thờ cá Ông- lễ hội
cầu ngư Phú Yên " để trang bị hành trang cho bản thân những kiến thức hay và bổ
ích để sống và làm việc trong thời đại phát triển nhanh chóng như ngày nay.Đồng
thời giới thiệu cho những ai chưa biết sẽ được tiếp cận.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đề tài nghiên cứu này chỉ ra được nét đặc trưng cơ bản về tín ngưỡng thờ cúng
cá Ơng của ngư dân ven biển Phú Yên, gắn liền với đó là lễ hội cầu ngư. Đồng thời
làm rõ những giá trị của tín ngưỡng thờ Cá Ông đối với đời sống tinh thần của ngư
dân .Từ đó giúp người đọc hiểu biết một cách sâu sắc hơn về bản sắc cư dân ven
biển Phú Yên.

2


3. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực tơn giáo tín ngưỡng. Tiểu luận tìm hiểu về nguồn gốc tục thờ cá Ông
ở Việt Nam, về sự xuất hiện của cá Ông trong các thư tịch cổ cũng như trong truyền
thuyết…
Đặc biệt nội dung nhấn mạnh đó là lễ hội Cầu Ngư của cư dân ven biển Phú
Yên. Đề tài nghiên cứu về các vấn đề như lăng Ông ở Phú Yên, về vấn đề Ông lụy,
cốt cá Ông, lăng thờ, các nghi thức, nghi lễ của việc cúng Ông và các câu chuyện về
cá Ông ở Phú Yên.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu gắn liền với định tính, đưa ra các nhận

định tri thức chủ yếu dựa vào các quan điểm .Bên cạnh đó tơi cịn sử dụng các thao
tác phân tích và tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn tìm được. Sàng lọc nguồn tư liệu
thứ cấp. Từ đó hệ thống hóa đối tượng và tiến hành phân tích vấn đề. Vận dụng lý
thuyết Chức Năng Luận để lý giải vai trị của tín ngưỡng thờ cúng cá Ơng là điều gì
đó thiêng liêng,quan trọng trong cuộc sống của cư dân ven biển Phú Yên.
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu.
Sau bài nghiên cứu, bản thân tơi đã có thêm những hiểu biết sâu hơn về tín ngưỡng
thờ cá Ơng ở Phú n. Ngồi ra, bài nghiên cứu này có thể cung cấp được phần nào
kiến thức về một nét tín ngưỡng đắc sắc cho bạn đọc. Qua đó, có thể làm nổi bật
cũng như lan tỏa nét tín ngưỡng đặc trưng của cư dân ven biển Phú Yên nói riêng và
Việt Nam nói chung. Góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.
1. Cơ sở lí luận
Theo Từ điển Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh, tín ngưỡng được giải thích:
“Lịng ngưỡng mộ mê tín đối với một tơn giáo hoặc một chủ nghĩa”.
Tương tự, trong quyển Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân (chủ biên), tínngưỡng
nghĩa là: “Tin tưởng vào một tơn giáo: Tự do tín ngưỡng”. Như vậy, nghĩa từ
ngun, tín ngưỡng chính là niềm tin tơn giáo ở mỗi con người...
Theo Giáo sư Đặng Nghiệm Vạn (đại diện tiêu biểu cho nhóm quan điểm tín
ngưỡng dưới góc nhìn của Tơn giáo học, Nhân học) với cơng trình “Lý luận về tơn
giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam” thì thuật ngữ “tín ngưỡng” có thể có hai
nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngồi có thể hiểu đó là niềm tin nói
chung (belief, lelieve, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance
riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngồi tơn giáo, nếu

hiểu là niềm tin tơn giáo (belief, believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín
ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” cho
rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân: “Tổ chức đời
sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá
nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này
sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng
và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng
cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng”.
Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam Ngơ Đức Thịnh chủ biên “ Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” đã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng
được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên,
hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”,
hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là
niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng
thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của
con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời
sống tình cảm...”.
Ở bài nghiên cứu này, tơi chủ yếu dựa theo cách hiểu của GS. Ngơ ĐứcThịnh
trong quyển “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2001 thì tín ngưỡng là niềm tin của con người vào một thế giới
thiêng liêng, một thế lực siêu nhiên, đối lập với cái trần tục hiện hữu.
4


“Thờ” là từ Thuần Việt cổ nhất, là một hành động biểu thị sự cung kính đối với
một đấng siêu hình.
“Cúng” là từ Hán Việt nghĩa là hiến tế, hiến dâng, cung phụng. Ở Việt Nam,
cúng là dâng lễ vật cho các đấng siêu nhiên, cho người đã khuất. Từ ghép thờ cúng
dành riêng cho các hành vi và nội dung tơn giáo, tín ngưỡng.

Cá Ơng- tên gọi tơn kính của lồi cá voi. Với bản tính nghĩa, khí, trung, can hay
giúp ngư dân đánh đuổi cá mập, ông Rái.. phá lưới và đặc tính nương vào các con
thuyền khi biển cả nổi giông bão mà giúp thuyền của ngư dân vào bờ an tồn .Vì lẽ
đó nên ngư dân ven biển ln có lịng tốn kính, biết ơn lồi cá này.
Thờ cúng cá Ơng là hoạt động tín ngưỡng gắn liền với cư dân ven biển Việt
Nam.. Trong đó, ngoài việc thờ cúng hương hỏa ngọc cốt của cá Ông vào ngày rằm
và đầu tháng ở một số vạn chài thì tín ngưỡng thờ cúng cá Ơng cịn gắn liền với lễ
hội Cầu Ngư. Lễ hội Cầu Ngư là hoạt động diễn ra hằng năm gồm: Phần lễ mục đích
chính là cầu an lành và gặp nhiều may mắn trong hành trình vươn khơi bám biển đầy
gian khổ; Phần hội bao gồm các hoạt động vui chơi của bà con với nhiều loại hình
diễn xướng như hát bội, lơ tơ, bài chịi…
2. Cơ sở thực tiễn.
Tín ngưỡng thờ cúng cá Ơng là mơt tín ngưỡng quan trọng và có từ rất lâu đời
trong hoạt động tín ngưỡng của cư dân ven biển Việt Nam. Là sản phẩm của nghề
làm biển, làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của ngư dân với ước nguyện bình an, tai
qua nạn khỏi trước biển cả hung hãn. Đồng thời, mong ước mùa màng bội thu, làm
cho cuộc sống họ đủ đầy, ấm no.
Hiện nay, tục thờ cúng cá Ông- lễ hội Cầu Ngư ở Phú Yên đã và đang nhận
được nhiều sự quan tâm của chính quyền địa phương. Hiện tại, Cơng tác bảo tồn và
phát huy giá trị lễ hội truyền thống được chú trọng. Lễ hội Cầu Ngư được tổ chức
thường niên, ngày càng phát triển hơn, thu hút nhiều khách du lịch, góp phần quảng
bá nét văn hóa đặc sắc ở Phú Yên, phát triển ngành du lịch tỉnh nhà.
Dù là một mảnh ghép trong hệ thống tín ngưỡng thờ cúng cá Ơng ở Việt Nam.
Song, tín ngưỡng thờ cúng cá Ông của cư dân ven biển Phú Yên vẫn có những nét
khác biệt, đặc sắc riêng góp phần làm nên tính thống nhất trong đa dạng của hệ
thống văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, cần phải được tìm hiểu và nghiên cứu.
CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG CÁ ÔNG TẠI
VIỆT NAM
Ngày nay, trên dải đất ven biển miền Trung Việt Nam, hầu hết những ngôi
làng ven biển trong thiết chế thờ tự đều thấy sự hiện diện của lăng thờ cá Voi, dù với

quy mô lớn nhỏ khác nhau tuỳ theo từng địa phương. Những thiết chế kiến trúc này
thường được xây dựng dọc theo bờ biển, toạ lạc ở những nơi có vị trí cao.
5


Tục thờ cúng cá Ông (cá Ngài, Ông Nam Hải…) là tín ngưỡng dân
gian của cộng đồng cư dân ven biển nước ta, phổ biến từ Bắc miền Trung, kéo dài
vào Nam. Song “ thực ra thờ cá Ông vốn là tín ngưỡng và tập tục lâu đời của người
Chăm cư trú ven biển miền Trung nước ta.” ( Huỳnh Quốc Thắng, 2003: 101-102)
“Thần thoại Chăm vẫn kể rằng cá Voi vốn là hóa thân của một vị thần ( Cha Aih –
Va) và cuối cùng người Chăm đã đồng hóa vị thần đó với Thần Sóng Biển ( Pơ
Riyak) là một thế lực linh thiêng có thể phù trợ cho người đi biển.” ( Huỳnh Quốc
Thắng, 2003: 102)” Truyện cổ Chăm vẫn cịn lưu truyền câu chuyện về Pơ Riyak
như sau: Ngày xưa, có chàng Eh Wa xuất thân từ nông dân nghèo, bị bọn cường hào
ác bá áp bức, quyết tâm ra đi tìm thầy học đạo. Sau bao năm tháng học tập dù chưa
xong, nhưng do nỗi nhớ quê nhà, chàng xin thầy cho về để giúp đỡ mọi người. Thầy
không cho song chàng vẫn kết bè vượt sóng về cố hương. Bị lời nguyền rủa của thầy,
đến gần đất liền Eh Wa bị phong ba bão tố, vỡ bè, chàng bị cá mập nuốt sống. Vong
hồn Eh Wa nhập vào cá voi để cứu độ ngư dân khi bị nạn. Eh Wa chết vì sóng nên
được người Chăm truyền tụng là Pô Riyak . Dẫn ra điều này để thấy rằng Pô Riyak
và cá voi là một. Người Chăm thờ thần, ngư dân Việt thờ cá làm thần bảo hộ.
Trong khoảng thời gian cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân chia Đàng Trong và
Đàng Ngoài hơn 200 năm đã tạo điều kiện cho lưu dân người Việt di cư từ Bắc vào
Nam, định cư rải rác ở các tỉnh miền Trung hiện nay. Trong quá trình tiếp xúc với
văn hóa người Chăm và họ nhận thấy tục thờ cá Voi ( cá Ông) của người Chăm cũng
làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người Việt qua trong cuộc sống gắn liền với
biển. Từ đó, tục thờ cá Ơng đã bị “ Việt hóa” và trở nên phổ biến trong cuộc sống
của cư dân ven biển Việt Nam.
Ngồi ra, cũng có một truyền thuyết khác nói về nguồn gốc của tục thờ cá Ông,
cụ thể như sau: Cá Ơng vốn là một trong mn mảnh vải của chiếc áo cà sa của Phật

bà Quan Âm được xé ra, quăng xuống biển mà thành. Với bộ xương đặc biệt của
mình, cá Ơng có phép “thâu đường” (rút ngắn khoảng cách), do đó Phật bà Quan
Âm ban cho cá nhiệm vụ tìm cứu những người mắc cạn giữa biển khơi. Hay có tục
truyền rằng cá Ơng là biến thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát để cứu khổ chúng
sinh. Ngài đã hóa thân thành Ơng đi tuần du trên biển và những người dân sống về
biển cả đều cầu nguyện đến cá Ông mỗi lần gặp nạn.
II. QUAN NIỆM, TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁ ÔNG Ở PHÚ YÊN. ĐÔI NÉT
VỀ KIẾN TRÚC LĂNG ÔNG Ở PHÚ YÊN
1. Quan niệm
Hầu như ở vạn chài nào ở Phú Yên cũng có những câu chuyện và bằng chứng
về sự gia ân của cá Ơng. Tại các làng biển, khơng ít người hàm ân cá Ơng, và trong
cuộc đời của họ dù có chết họ cũng mang ơn đó về nơi chín suối.
Ngày xưa, ngư dân đi đánh bắt cá trên biển thường dùng loại thuyền nan hoặc
ghe bầu đan bằng tre, chiều rộng từ 2,5m đến 3m, chiều dài khoảng từ 7m đến 8m.
6


Khi đó, việc đánh bắt cá hồn tồn dựa vào sức người, nên khả năng chống chọi với
thiên nhiên rất hạn chế. Nhất là những lúc gặp mưa bão, gió to, sóng lớn, thì sự sống
và cái chết đơi khi khơng cịn ranh giới. Những lúc đó, ngư dân thường cầu khấn trời
đất, các vị thần biển giúp đỡ, nhiều lúc tỏ ra linh ứng. Ngư dân được cá Ông cứu
giúp.
Ngư dân ở các vạn chài đều tin rằng cá Ông nghe được tiếng người, nên khi
nghe lời cầu khấn lúc gian nguy của ngư dân thì Ơng vội vã đến cứu giúp ngay. Nếu
như Ơng khơng cứu được kịp lúc để ghe chìm, ngư dân chết thì lập tức Ông ấy đi
vào bờ tìm chỗ “lụy” (chết). Song thực tế thì điều ấy hiếm khi xảy ra. Người dân
chài lúc thuyền bị đắm, đã hết lời xin cầu khấn vái, nhưng đều không được thần
Nam Hải cứu giúp, và sau đó cũng khơng có con cá Ơng nào vào bờ lụy. Để giải
thích vấn đề này, một số cụ già cao niên cho rằng “ Ơng khơng cứu hết mọi người,
mà chỉ cứu những người có dun với Ơng” (Lê Thế Vịnh- Phạm Hùng Thoan,

2007: 139-140) , đó là những người hiền lành nhân đức. Như vậy, trên cơ sở đặt lịng
tin tuyệt đối vào tính thiện của cá Ông, ngư dân còn đặt ra các trường hợp tương đối
để lí giải một số trường hợp chưa được thiêng hóa như tâm niệm và lịng tin của ngư
dân, nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh đối với vật thiêng được ngư dân khắp
các vạn chài thờ cúng.
Ngư dân các làng biển cho biết: cá Ông nào đã cứu được người thì trên thân và
đầu đều có dấu vng và dấu trịn. Khi Ơng lụy, ngư dân xem dấu trên thân cá để
xác định mức độ linh thiêng. Qua đó quyết định hình thức tổ chức tang ma cúng tế.
Ơng nào có nhiều dấu thì vạn chài làm tang ma trong nhiều ngày, cúng tế linh đình
và ngư dân các làng bên cạnh đến phúng viếng rất đông, đơi khi Vạn lạch cịn mời cả
chức sắc địa phương về tham dự.
Thơng thường Ơng lụy do nhiều ngun nhân như: Do cá khác đánh, do già yếu
hoặc bệnh tật. Những cái chết tự nhiên ấy đều được ngư dân gắn với quan niệm về
tâm linh.
Trường hợp cá Ông lụy ngồi khơi được sống đưa vào bờ gọi là Ơng “tân lụy”,
vì lúc đi trấn giữ các mỏm, mũi để cứu người bị kiệt sức chết, hoặc trong hành trình
tuần du từ gành này đến mũi kia đuổi cá cho ngư dân dân đánh bắt, Ông đánh nhau
với các xà, cá mập bị chết.
Trường hợp ơng chết ngồi khơi được ngư dân vớt xác được gọi là “ ngài gởi”.
Lúc đó Ơng thường nổi gần nơi ghe thuyền đánh bắt để họ nhìn thấy mà rước xác.
Tuy xác ngài to lớn và nặng hàng tấn, nhưng bằng những cách nào đó người được
ngài gởi xác vẫn đưa được vào bờ. Ngài gởi xác cho người nào, tức là nhận người đó
làm con mình, một mong ước khơng phải ngư dân nào cũng có được.
Theo ghi chép trong “ Văn hóa cư dân Việt ven biển Phú Yên” có nói “Ngư
dân cũng thấy rằng: Cá Ông rất gắn kết với đồng loại. Điều đó được chứng thực ở
thơn Long Thủy cách đây 30 năm. Trong một ngày mưa to, gió lớn, từ ngoài khơi
7


Ơng phun một vịi nước lên cao, dân làng nhìn thấy tín hiệu nên đổ ra bờ biển nhìn

xem, thấy Ông Sanh ( tên gọi dùng để chỉ Ông còn sống) dẫn vào một xác cá Ông.
Khi đến gần bờ, ngư dân xuống biển vớt xác, Ông Sanh vẫy đuổi một cái thật mạnh
như tỏ long biết ơn rồi bơi ra khơi. Trong những ngày ngư dân tổ chức tang ma,
Ơng Sanh ln có mặt trong khu vực. Đến lúc chơn cất xong Ơng lại phun nước lên
để từ biệt dân làng. Ngư dân xem đó là một tín hiệu tốt lành, vì Ơng đã chứng nhận
sự đền đáp của ngư dân.” ( Lê Thế Vịnh: 2007, 141)
Có những con cá Ơng già yếu sắp chết, cá thường tự mình vào bờ hoặc được
Ơng khác dìu đi tìm luồng lạch để lụy. Nơi Ông chọn lụy thường là chỗ sạch sẽ,
nước trong, ít người qua lại. Khi đã tìm được chỗ ưng ý nhưng chẳng may gặp phải
đàn bà đang hành kinh hoặc phụ nữ thụ tang, mang thai đi qua thì Ơng sẽ lập tức tìm
chỗ khác.
Vào những ngày mưa gió liên miên, ngư dân cho là đã có Ông lụy, nên họ
thường đổ ra bờ biển, đến các luồng lạch đẻ tìm xác cá Ơng. Họ coi đó là nghĩa vụ
thiêng liêng, cao cả của mình.
Kinh nghiệm cho thấy cá Ơng thường lụy theo dịng. Mỗi dịng thường lụy vào
một bãi hoặc một lạch. Cụ thể, lạch Long Thủy lúc trước có Ơng Chng lụy thì sau
này Ơng Chuông khác cũng vào lụy ở bãi này.
Ngư dân thường gắn cá Ông với sự thịnh vượng của vạn chài và gia đình. Họ
cho rằng, vạn chài nào được cá Ơng vào lụy thì vạn chài đó ắt sẽ gặp được nhiều
may mắn trong năm. Còn ngư dân nào gặp Ơng lụy đầu tiên, được ngài nhận làm
con ni thì công việc làm ăn luôn được thuận lợi, an lành. Tâm lí đó đã ăn sâu vào
trong nếp nghĩ, nếp sống của nhiều thế hệ ngư dân, dẫn đến một số hết sức cực đoan
trong tranh chấp xác cá Ông giữ vạn chài này với vạn chài khác. Sự việc nhiều khi
dẫn đến phức tạp, địi hỏi phải có sự can thiệp của chính quyền hoặc nhờ thầy pháp
bấm quẻ bói xác định, khi đó cuộc tranh giành mới kết thúc.
Niềm tin về sự hưng thịnh còn được thể hiện qua hoạt động đánh bắt trên biển.
Kinh nghiệm cho thấy, nơi nào cá Ơng xuất hiện thì nơi đó có nhiều cá. Có khi cá
quy tụ từng đàn và bay trên mặt nước để tránh sự truy đuổi của Ông. Những hiện
tượng đó, khơng thể qua mắt ngư dân sành nghề biển. Khi đó, họ đưa thuyền, bửa
lưới quay quanh đàn cá và tìm cách đuổi Ơng đi, song Ơng không giận, không làm

nghiêng đổ tàu thuyền, không xé rách lưới như ơng Nược, ơng Rái. Nếu chẳng may
Ơng mắc lưới, vướng câu thì dân chài tìm cách đưa Ơng ra ngồi. Ngư phủ tin rằng:
nếu Ơng vướng vào lưới của người nào thì người đó đánh bắt đạt kết quả cao trong
những chuyến đi biển kế tiếp. Nếu thành tâm tạ ơn, Ông sẽ đưa ngư dân đến nơi
nhiều cá và giúp ghe thuyền tránh gió bão, tai họa, hiểm nguy. Những hiện tượng
trên xuất phát từ đặc tính cá Ơng thích ăn các loại sinh vật biển nhỏ. Trong đó, cá
mồi và ruốc là loại Ơng thích nhất. Nơi nào có nhiều loại thức ăn này, nơi đó Ông
thường xuất hiện và có số lượng Ông lụy nhiều hơn nơi khác. Ngư dân gọi cá Voi
8


bằng những cái tên thật tơn kính: Cá Voi lớn gọi là Ông lớn, cá Voi nhỏ gọi là cá
Cậu, cá Voi cái gọi là cá Cơ. Tùy theo hình dạng ở đầu, cá Voi cịn mang những cái
tên tơn kính khác như: Ơng Chng thì mình ngọc, da láng, đen tựa lãnh, đầu trịn
như chng; Ơng Hố giống cá hố; Ông Bẻo giống cá bẻo; Ông Kiềm giống cá kiềm;
Ơng Bành mình trịn giống như trái banh, da thường biến dạng theo màu sắc của
nước; Ơng Dựng mình dài, mỗi lẫn xuất hiện ở đâu thì ở đó có nhiều cá; Ông Tăm
thường bắn Tăm nước trước lúc xuất hiện. Ơng ở ngồi khơi gọi là Ơng khơi, Ơng ở
gần bờ gọi là Ông lộng.
Ngư dân gọi cá Ông là Ơng Sanh để chỉ Ơng cịn sống, lúc này Ông mang tước
hiệu Đông hải Ngọc lân tôn thần. Đối với Ơng cử ( Ơng chết) thì trở thành phúc
thần, được thờ phụng gọi là Nam hải Ngọc lân tôn thần. Hàng năm, ngư dân tổ chức
lễ hội Cầu Ngư, vạn chài đi nghinh Ơng Sanh tức Đơng hải Ngọc lân tơn thần về dự
lễ.
2. Truyền thuyết
Cùng chung tín ngưỡng thờ cúng cá Ông với ngư dân làm nghề biển Trung Bộ
và Nam Bộ, ngư dân Phú Yên rất tôn kính và biết ơn cá Ơng. Việc thờ phụng cá Ông
không chỉ là thờ phụng một vị phúc thần của người dân đi biển, mà còn là một đấng
thần linh mang lại nhiều may mắn trong đánh bắt của dân chài, họ đã sáng tạo ra
nhiều truyền thuyết để ca ngợi cơng đức của Ơng.

Ở Phú n có nhiều truyền thuyết về cá ông cứu chúa Nguyễn Ánh tồn tại khá
phổ biến trong các vạn chài. Tại làng Khoan Hậu, xã Xuân Thọ, huyện Sông Cầu
ngư dân kể rằng: Khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh bại chạy ra đảo Cơn Lơn,
trên đường đi bị gió to, sóng lớn đánh sắp lật thuyền. Trong lúc cái chết đang gần kề,
Nguyễn Ánh van vái cầu xin. Ngay lúc đó, một con cá Voi đến cặp mình vào mạn
thuyền và đưa thuyền vào bờ, nhờ vậy mà Nguyễn Ánh thoát chết. Tại xã An Hải,
huyện Tuy An ngư dân cũng truyền tụng nhau câu chuyện cá Ông cứu Nguyễn Ánh
lúc tẩu quốc, song lại có một số chi tiết khác. Ngư dân ở đây cho rằng, khi Nguyễn
Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đến An Hải, Ngài được một ngư dân đưa lên thuyền chạy
trốn. Trên đường ra khơi bị gió bão, thuyền bị gió to, sóng lớn cố sức đánh chìm,
Ngài sợ quá liền cầu khấn và được một con cá Voi ghé lưng vào mạn thuyền đưa ra
đảo Côn Lôn. Ngư dân vạn chài Long Thủy truyền nhau câu chuyện cá Ông cứu
Nguyễn Ánh với nội dung giống như ngư dân An Hải.
Ơng Trần Ngọc ở thơn Long Thủy, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa, người từng
được cá Ông cứu giúp kể rằng: Cách đây trên 40 năm, ông cùng một người cháu đưa
thuyền ra khơi đánh bắt cá, khi thuyền ra cách bờ vài kilomet thì bỗng đâu gió bão
nổi lên, chiếc thuyền đứng trước nguy cơ bị sóng gió đánh chìm. Trong lúc nguy
biến, ơng giậm chân van vái ngài Nam Hải, lời khấn vừa dứt, cá Ông bỗng từ đâu lao
đến kề lưng vào mạn thuyền, đưa thuyền và người vào cù lao An Hải. Cụ Nhẩm ở
Long Thủy tuổi đã xế chiều kể lại: Cách đây trên 30 năm, vào một ngày mưa cụ đưa
9


thuyền ra khơi đánh bắt cá, bị gió bão đánh lật thuyền, một mình cụ lênh đênh giữa
đại dương mênh mơng. Trong lúc ranh giới sinh tử cịn rất mong manh, cụ đã van vái
ngài Nam Hải và được Ông đến cứu đưa vào bờ. Từ đó, ơng xem cá Ông là người đã
sinh ra mình lần thứ hai. Đến ngày giỗ, ngày lễ cầu ngư, ông mua sắm một số lễ vật
đem đến lăng Ơng cúng. Cịn tại nhà, cụ cịn lặp một bàn thờ thờ Ơng, đến ngày kỵ
thì tổ chức cúng giỗ như là giỗ cha, giỗ mẹ mình.
Theo lời kể của ngư dân Long Thủy, ơng Mẫn là người theo đạo Thiên Chúa,

nên trong đời sống tâm linh của mình, ơng khơng tin đi vào bất cứ điều gì ngồi
chúa. Có hơm nọ, ơng cùng các thợ bạn đưa thuyền ra khơi đánh bắt thì gặp bão.
Trong lúc thuyền ơng có thể bị sóng đánh chìm, các thợ bạn kia dậm chân van vái
xin thần Nam Hải cứu giúp. Và rồi, lời van vái đó ứng nghiệm, cá Ơng đến đưa
thuyền của họ an tồn vào bờ. Được tận mât chứng kiến điều kì diệu của cá Ơng nên
khi về đến nhà, ơng Mẫn đã lập bàn thờ cá Ông. Hằng năm, cứ mỗi dịp lễ Cầu Ngư,
ơng Mẫn ln là người tích cực tham gia việc thờ cúng của vạn chài. Cụ Ba Nhứt ở
thôn Lễ Thịnh, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An kể rằng: cách nay khoảng trên 20
năm, vào đêm nọ cụ đang đánh cá tại cù lao Mái Nhà cùng hơn chục ngư dân khác
thì bất thần bị giơng gió giật sắp lật thuyền. Trong cơn hỗn loạn giữa biển khơi, cụ
đã khấn thần Nam Hải trợ giúp và được đưa vào bờ an tồn tại cửa biển Lễ Thịnh.
3. Đơi nét về kiến trúc lăng Ông ở một số vạn chài Phú Yên
Một yếu tố không thể bỏ qua khi nghiên cứu về tục thờ cúng cá Ơng đó là kiến
trúc lăng Ông. Theo quan niệm của ngư dân, việc xây dựng lăng Ông phải tuân theo
các quy tắc phong thủy, mà trước hết cái quan trọng nhất là chọn đất và chọn hướng.
Theo một số ghi chép, đất xây cất lăng Ông được vạn chài ưa chuộng là nơi lưng dựa
vào vách đá- vách núi; nơi xa dân, yên tĩnh, có mặt bằng thống đãng, phong quang,
tiện lợi cho việc cúng tế và bảo vệ. Song thực tế cho thấy, nhiều lăng Ông hiện nay
được xây dựng sát bãi biển, nằm ngay trong khu dân cư. Có thể kể đến như lăng Ông
Long Thủy, lăng Ông Mỹ Quang.... Hướng được ưa chuộng là quay mặt về hướng
Đông. Đây là hướng để Ơng ln nhìn thấy biển khơi và ngư dân đi biển, để Ơng có
thể cứu giúp ngư dân kịp thời khi gặp hiểm nguy. Khi đã chọn xong đất và hướng,
vạn chài sẽ tiến hành xem ngày và giờ cúng mở móng , sau đó tiến hành xây dựng.
Tùy theo điều kiện đóng góp tài vật của mỗi vạn chài mà các lăng Ơng ở Phú n sẽ
có quy mơ khác nhau. Tuy các lăng Ơng ở Phú Yên thường có quy tắc xây dựng như
trên, nhưng kiến trúc lăng Ơng ở mỗi vạn chài sẽ có những điểm khác nhau. Cụ thể
như sau:

10



Lăng Ơng Long Thủy
có ba gian thờ, gồm gian
thờ chính ,nhà tả vu và nhà
hữu vu. Bên tả thờ Tiền
hiền, Hậu hiền; Bên hữu thờ
Táo qn. Trước mặt lăng
Ơng có một nhà võ ca dùng
để hát bả trạo, hát thứ lễ. Đó
cịn là nơi vạn chài hội họp
để bàn bạc, thảo luận các
vấn đề liên quan đến nghề
biển hoặc cúng tế.
(Lăng Ông Long Thủy)

Lăng Ông Phú Câu: lúc đầu lăng được đặt tại trường tiểu học Bạch Đằng nhưng
vào năm 1947 bị thực dân Pháp đốt cháy. Sau ngày giải phóng, lăng Phú Câu được
xây dựng lại gồm có 3 gian: Gian giữa thờ bà Thiên Y A NA, gian bên phải thờ thần
Nam Hải ( cá Ông), gian trái thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Trước mặt lăng là miếu thờ
âm hồn- cơ hồn.
Lăng Ơng Đơng Tác được xây dựng từ lâu đời, mặt quay về hướng Đơng, có
diện tích 15m × 5m, tường bằng gạch, mái lợp ngói. Trên gờ nóc có đắp hình "
Lưỡng long tranh châu". Cột nhà được xây theo kiểu cột vng, trên đó khắc nhiều
câu đối bằng chữ Hán. Phía trong cũng có 3 gian thờ gồm gian chính thờ thần Nam
Hải, hai bên thờ Tả Ban và Hữu Ban. Trước mặt lăng là nhà võ ca, diện tích 20m2,
trụ đúc bằng bê tơng, mái lợp tơn.
Lăng Ơng Bình Lợi có ba bệ thờ xây bằng xi măng. Trong đó, bệ thờ chính giữa
thờ thần Nam Hải, cịn được gọi là điện Ơng. Bên phải điện Ông thờ bà Thiên Y A
Na, bên trái thờ thần Hội đồng.
III. CÁC NGHI LỄ THỜ CÚNG CÁ ÔNG

1. Đám tang cá Ông
Trong quan niệm của ngư dân Phú Yên cũng như ở các địa phương khác, cá
Ơng là một vật thiêng, nên ngư dân khơng đặt cá Ông ( cá voi) vào đối tượng đánh
bắt, giết hại mà ln ý thức bảo vệ Ơng mọi lúc, mọi nơi. Khi Ông chết, ngư dân sẽ
vớt xác và đưa Ông lên bờ, Vạn trưởng vạn lạch sẽ phân công, cắt cử người đi mượn
vật dụng về cúng rạp. Ngư dân ở vạn chài đó sẽ quyên góp tiền bạc mua sắm vải
vóc, hương đăng, hoa quả; Cử người mời đội chèo bả trạo, đội siêu và ban nhạc cỗ
về phục vụ tang lễ. Nếu cá Ông lớn và có nhiều dấu trịn, dấu vng trên đầu và lưng
thể hiện tính thiêng thì Vạn trưởng cũng sẽ mời các chức sắc địa phương về tham dự,
ngư dân lạch bên cũng mang lễ vật đến phúng điếu.
11


Khi đã dựng rạp xong, ngư dân đưa xác cá Ơng vào rạp, nơi nào có nhà võ ca
thì đưa xác vào nhà võ ca rồi lập bàn thờ gồm có chánh ban, hữu ban và tả ban. Tại
mỗi bàn thờ đều phải có hương, đăng, hoa quả và trầu rượu. Nghi thức tang ma cá
Ông cũng giống như nghi thức tang ma của người, đều trải qua các bước: Mộc dục,
tẩm liệm, động quan, di quan, thành phục, an táng. Ngồi ra, ngư dân cịn tổ chức
chèo bả trạo và múa siêu.
Đám tang cá Ông ở lạch
Mỹ Quang, An Chấn, Tuy An, Phú
Yên năm 2015 ( Ảnh: internet)

Khi ngày giờ tốt đã đến,
ngư dân sẽ đưa cá Ông đi chơn
cất. Thường nơi chơn cất Ơng
là khu đất sau lưng lăng Ơng
( cịn gọi là nghĩa trang cá
Ơng). Đi đầu sẽ là bốn người
khiêng long đình, tiếp đó là ban

tang lễ, người thấy xác Ông đầu
tiên, rồi đến đội siêu, đội chèo, chiêng trống, cờ xí, cuối cùng là ngư nghệ trong lạch.
Nhưng có một số trường hợp ngoại lệ sau lăng Ơng khơng có đất chơn như trường
hợp ở lăng Ơng Mỹ Quang thì sẽ chơn Ơng ở khu nghĩa trang của làng, hay trường
hợp Ơng lớn q khơng thể di chuyển như ở lăng Ơng Lễ Thịnh thì ngư dân sẽ đóng
cọc, rắc vơi và chơn Ơng tại chỗ. Xác cá Ông được đặt trên một chiếc bàn lược, toàn
thân sẽ được phủ bằng miếng vãi hoặc tấm giấy màu đỏ.
Khi đã tới huyệt chôn cất, chủ tế sẽ bày lễ vật khấn cáo thổ thần, xin phép được
an táng Ông ở đây. Sau khi được thổ thần đồng ý sẽ làm lễ hạ huyệt. Tiếp đó chủ tế,
chủ tang cùng hội chủ ngư nghệ sẽ là những người đầu tiên thả đất xuống huyệt, mỗi
người một nắm. Khi công việc thực hiện xong, đội âm công sẽ lắp huyệt, mộ cá Ơng
được đắp lên cao. Sau đó, đội bá trạo xếp theo hình chiếc thuyền đứng thành hai
hàng, vừa múa vừa hát ca ngợi công đức, cầu Ông phù trợ vạn chài gặp điều lành,
tránh điều hung, đánh bắt bội thu, nhà nhà hưng thịnh.
Chôn cất xong, ngư dân làm lễ rước linh hồn Ông về lăng thờ cúng. Lúc này
hương đăng, hoa quả được bày cúng và nhang đèn thắp sáng suốt ngày đêm. Tất cả
gươm, chèo và đồ tang lễ đều để tại lăng Ơng.
Thơng thường, đám tang cá Ông được tổ chức trong khoảng 1 đến 3 ngày. Số
ngày ít hay nhiều sẽ phụ thuộc vào cá Ông lớn hay nhỏ, đã cứu được nhiều người
hay chưa ( được xác định thông qua dấu trịn hoặc vng trên lưng và đầu của cá
12


Ông) . Ngoài ra, ngày tốt giờ tốt cũng là một yếu tố để ngư dân quyết định thời gian
chôn cất Ông.
Theo phong tục, người con cả sẽ để tang Ông trong thời gian 3 năm (thực tế chỉ
2 năm) hoặc 1 năm, song thực tế cho thấy nhiều nơi chỉ để 3 tháng 10 ngày. Trong
thời hạn để tang, người con cả phải trai giới và không được cắt tóc. Hằng ngày phải
cùng ơng Từ lo việc hương đèn, trà rượu nơi điện thờ.
Trong khi làm đám tang cá Ơng, ngư dân khơng được phép chỉ trỏ, nói lời vơ

phép với Ơng cũng như là nhổ nước bọt vào Ông. Ngư dân quan niệm rằng, nếu có
những hành động vơ lễ đó sẽ bị Ơng quở trách, khơng được Ơng bảo trợ lúc hiểm
nguy. Có người cịn kể rằng, nếu nhổ nước bọt hoặc có lời lẽ xúc phạm tính thiêng
của Ơng thì sẽ bị Ơng làm cho khơng nói được hay ốm bệnh, chỉ khi nào đem lễ đến
thành tâm cầu xin Ơng tha thứ thì mới khỏi.
Đám tang cá Ông được xem như là đám tang chung của cộng đồng ngư dân,
nên lạch nào có Ơng lụy thì các vạn chài khác khơng cần chờ báo tin, mời mọc cũng
tự nguyện sắm sửa lễ vật, mang nhang đèn, tiền bạc đến phúng điếu. Còn nhân dân
trong vạn lạch khơng kể làm nghề gì cũng đi đám tang, khấn lạy. Tiền đi đám tang
còn gọi là tiền cúng hương, do một thành viên trong ban tang lễ nhận và ghi vào sổ
sách. Số tiền đó được dùng để lo chi phí cho tang lễ, nếu cịn dư thì dùng để sửa
sang lại lăng Ông và mua sắm vật dụng thờ cúng.
Sau ba ngày chôn cất, hội chủ vạn chài và chủ tang biện một lễ mọn cúng mở
cửa mã cho ông Nam Hải. Hội chủ vạn chàu sẽ khấn xin thần Nam Hải phù hộ bổn
vạn làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn và bình an khi đánh bắt cá. Trong lễ cúng
này, vạn chài thường có tục xem chân gà để biết điều lành, điều dữ. Phần chủ tang
thì xin Ơng cho được gửi khăn điều tại lăng.
Đúng thời hạn 1 năm hoặc 3 năm, chủ tang báo với vạn trưởng vạn chài xin làm
lễ trừ phục, khăn tang được thỉnh từ lăng ra mộ, rồi đem đốt tại đây. Đồng thời trong
ngày này, ngư dân làm lễ thỉnh ngọc cốt Ông.
2. Lễ thỉnh ngọc cốt
Theo phong tục của ngư dân, ngày thỉnh ngọc cốt cá Ông thường không căn cứ
vào ngày chôn cất, mà tùy thuộc vào ngày giờ của tháng và năm ấy. Cũng như họ
khơng lấy ngày Ơng lụy làm ngày giỗ, mà lấy tháng làm ngày giỗ.
Trước ngày thỉnh ngọc cốt, Vạn trưởng vạn chài bày một lễ nhỏ cúng xin phép
Ông cho vạn lạch được đưa ngọc cốt Ngài vào lăng thờ. Người được chọn thỉnh
ngọc cốt Ông phải trai giới trước đó ba ngày.
Khi lấy ngọc cốt, ngư dân lấy theo thứ tự từ đầu đến đuôi, lấy đến đâu phải rửa
sạch đến đó. Nước rửa thường là rượu trắng hoặc được nấu bằng các loại hoa lá có
mùi thơm. Sau đó, đem cốt Ơng phơi khơ và xếp vào một cái quách sơn màu đỏ.

13


Nếu cốt Ơng q to khơng chứa được trong qch thì ngư dân phải đóng một cái hộc
gỗ rồi sắp xếp cốt Ơng theo thứ tự từ đầu đến đi, đặt hộc gỗ đó sau lưng điện thờ.
Và cứ như thế, hằng năm vào dịp lễ Cầu Ngư, Vạn trưởng cùng ban vạn lạch dùng
rượu rửa sạch, lau chùi và phơi khô ngọc cốt rồi đặt vào chỗ cũ. Ngư dân không bao
giờ để ngọc cốt bị ẩm ướt, mục nát hay thất lạc. Theo quan niệm, ngọc cốt chính là
sự hiện diện của thần Nam Hải, mà tính chất của nó là mang chức năng định đoạt số
phận của vạn chài trong việc làm ăn.
Lễ thỉnh ngọc cốt được vạn chài tổ chức chu đáo, công phu. Ngư dân quan
niệm rằng, chăm lo chu tồn cho Ơng cũng chính là chăm lo cho đời sống tín
ngưỡng của mình. Vì Ơng là đại diện cho sự độ trì, lịng từ bi và tính thiện, mang
trong mình hình bóng và tâm phúc của đức phật.
Ngày thỉnh ngọc cốt Ông vào lăng, đội chèo, đội bả trạo cùng tham gia thực
hành nghi lễ. Lời hát của đội chèo tại lạch Đông Tác ( Tuy Hịa) sau đây tỏ rõ sự
ngưỡng vọng, tơn kính và hiển linh của Ơng đã giúp dân chài.
Án nội lễ nghi chỉnh túc,
Nay tiền đình đăng chúc huy hồng,
Truyền bá trạo nghiêm trang,
Xếp chèo vào bái yết,
Nhớ tơn linh ngày xưa hiển hách,
Quản khai đại độ,
Nay siêu phàm về tại miếu môn
Ngày mùng 8 tháng 2 năm Giáp Tuất,
Ơng, Ơng ơi, lụy mình cảm động vạn thơn,
Lìa gót ngọc về nơi sở tự,
Nay bổn lạch có lịng thậm đốn,
Ngư dân trên dưới thuận hịa,
Tuyết vừa, đơng mãn, xn qua,

Đem thần cốt về nơi lăng tự,
Cùng lệnh Thủy tề Chúa ngọc Nương Nương,
Lệnh Bà ơi,
Chữ có rằng: sự tử như sanh,
Nay bổn lạch lịng thành,
Kính dâng giữa trời xanh cuộc thế,
14


Về trên ban có chốn sanh thành,
Giàng trần cảnh xuất danh hồng điện,
Nay tiếng hơ trạo ca dìu dịu
Hỡi đồng nghịch bích cung,
Quả ơng rồi xưa có linh thiêng,
Nay bổn lạch đã toan đành dạ,
Thuyền phân ra hai ngả,
Truyền tung chánh thuyền rồng,
Mười hai em chèo quế rộn ràng,
Giương một ngọn bườm lang chống thẳng,
Nghe tiếng hỡi trạo ca dăng dẳng,
Bên lăng chào cuộc xướng tri tri,
Ơng ơi, quả ơng rồi, dám cách trai kỳ,
Xuôi thôn lạch đồng môn phước chỉ,
Phước chỉ lưu tồn bổn lạch,
Nguyện chư thần phù hộ ngư dân,
Đồng lịng cung kính đền ơn,
Phị nguy cứu tử trong cơn hiểm nghèo,
Cúi đầu lạy tạ lệnh ông,
Phú An, Đơng Tác, lạnh thơn thái bình.
( Lê Thế Vịnh, 2015: 60-63)

Lễ cúng Ơng ln gắn với phần hội tạo thành lễ hội cầu ngư, là hoạt động văn
hóa quan trọng nhất diễn ra tại di tích lăng thờ cá voi hằng năm. Đây là một sinh
hoạt văn hóa - tín ngưỡng - tâm linh mang tính cộng đồng rất đặc sắc. Thông qua lễ
hội, những giá trị nhân văn mang nét đẹp về thuần phong mỹ tục được duy trì, các
loại hình diễn xướng dân gian, nghệ thuật sân khấu truyền thống có điều kiện được
bảo tồn và phát huy, tinh thần gắn kết cộng đồng được củng cố. Vậy Cầu Ngư là lễ
hội như thế nào?
IV. LỄ HỘI CẦU NGƯ
Lễ Cầu Ngư là lễ hội quan trọng nhất của vạn chài. Thời gian diễn ra lễ hội Cầu
Ngư thì khơng có ngày thống nhất chung, mà mỗi nơi, tùy thuộc vào ngày cá Ông
đầu tiên lụy hoặc ngày nhận sắc vua phong hoặc theo phong tục, công việc làm ăn
15


mà ban lạch cùng bà con trong làng định ngày mở lễ hội. Hiện nay, tồn tỉnh có 41
lăng Ơng và nơi nào có lăng Ơng thì nơi đó đều tổ chức lễ hội Cầu Ngư.
Lễ Cầu Ngư luôn được các vạn chài tổ chức theo lịch âm. Ngư dân thơn Tân
Long ven đầm Ơ Loan tổ chức lễ Cầu Ngư vào mùng 7 tháng giêng âm lịch.Ngư dân
Phú Thường tổ chức lễ Cầu Ngư vào ngày 18 tháng 4. Lạch Nhơn Hội tổ chức lễ
Cầu Ngư vào ngày 16 tháng 3. Ngư dân thơn Phước Đồng và Xn Hịa tổ chức vào
ngày 5 tháng 8. Ngư dân thôn Phú Lạc tổ chức vào ngày 12 tháng 5. Vạn chài Phú
Thọ tổ chức lễ Cầu Ngư ngày 8 tháng 5. Làng Phú Câu lễ Cầu Ngư trước kia được tổ
chức vào tháng 6, hiện nay được tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng giêng. Lễ Cầu Ngư
thôn Khoan Hậu ở Sông Cầu được tổ chức vào ngày 24 tháng 4. Thơn Hịa Lợi tổ
chức vào ngày 3 tháng 3. Lạch Long Thủy tổ chức lễ Cầu Ngư vào ngày 11 tháng 6.
Ngư dân thôn Mỹ Quang tổ chức lễ Cầu Ngư vào ngày 13 tháng 6 âm lịch. Thơn
Vịnh Hịa tổ chức vào ngày 15 tháng 2. Ngư dân Tiên Châu tổ chức lễ Cầu Ngư vào
ngày 20 tháng giêng.
Dù ở mỗi địa phương có thời gian tổ chức lễ Cầu Ngư khác nhau, song qua tìm
hiểu, ta có thể thấy được: Lễ hội Cầu Ngư đa phần được tổ chức tập trung vào mùa

Xuân và mùa thu. Sở dĩ có điều này là vì ngư dân quan niệm “ xuân cúng thu tế”,
cộng với việc mùa xuân là mùa bắt đầu việc đánh cá, mùa thu là lúc ngư dân tạm gác
tàu thuyền nghỉ ngơi, gọi là mãn mùa cá nên mùa xuân và mùa thu thường là thời
gian được chọn để tổ chức lễ Cầu Ngư...Song cá biệt có một số nơi tổ chức vào mua
hè như ở Lạch Long Thủy, Lạch Mỹ Quang, Thôn 4 ( Xuân Hải), Phú Lạc, Phú Thọ.
Lễ hội Cầu Ngư là sự kiện văn hóa - tín ngưỡng lớn của ngư dân miền biển Phú
Yên nên được ngư dân chuẩn bị trước cả tháng trời. Dù đã được tổ chức rất nhiều
lần, nhưng hàng năm trước khi tiến hành tổ chức lễ Cầu Ngư, đầu tiên phải họp dân
làng để bàn việc đóng góp tiền để mua sắm lễ vật cúng và đãi khách; luyện tập đội
chèo; mời đoàn hát; chuẩn bị văn tế thần; chuẩn bị thuyền, quần áo, mũ mão cho các
đội chèo, đội lân, sắm sanh chèo, đèn, cờ, trống và lễ vật cúng như heo, hương hoa.
Sau đó, tu bổ sơn vẽ lại tường, điện thờ, dọn dẹp xung quanh lăng và đường làng
ngõ xóm quang quẻ, trang hoàng lăng vạn rực rỡ cờ, phướn. Để điều hành cuộc lễ,
vạn chài thành lập Ban tổ chức lễ cúng gồm bộ phận hành lễ, bộ phận soạn viết văn
tế, bộ phận luyện tập đội chèo bả trạo và đội siêu, bộ phận vật chất, bộ phận tu sửa
lăng, làm sân khấu hát bội. Trước khi tổ chức lễ Cầu Ngư, vạn chài còn thực hiện
các lễ thức khác như: Tắm tượng, rửa ngọc cốt. Mỗi bộ phận do một trưởng bộ phận
phụ trách, song tất cả đều đặt dưới quyền giám sát chung của Vạn trưởng.
Lễ hội Cầu Ngư được chia thành hai phần chính. Phần lễ là những nghi thức
mang ý nghĩa nhất định về sự sùng tín đối tượng thờ cúng là cá voi và bao giờ cũng
là sự biểu hiện đã cách điệu hóa những nội dung làm niềm cộng cảm của ngư dân.
Phần hội: Là sự tập hợp đơng người trong đó có các thành viên của cộng đồng, cùng
vui chơi, giải trí, cùng hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Qua phần hội gắn
16


bó mọi ngư dân của vạn chài trong một niềm cộng cảm, lòng tin vào điều thiện, vào
cuộc sống ngày mai được ấm no đủ đầy hơn.
Tuy được gọi chung là lễ hội Cầu Ngư ở Phú Yên. Song ở mỗi vạn chài sẽ có
diễn trình tổ chức lễ hội khác nhau. Vì thế qua tìm hiểu và sàng lọc, tơi chọn ra được

2 vạn chài có lễ hội Cầu Ngư có thể xem là tiêu biểu trong hệ thống lễ hội Cầu Ngư
Phú Yên. Đó là vạn chài Long Thủy và vạn chài Mỹ Quang. Lí do tơi chọn cả 2 là vì
2 vạn chài có 2 thế mạnh tiêu biểu khác nhau, có thể đại diện cho nét truyền thống
trong phần lễ là lễ hội Cầu Ngư lạch Long Thủy và sự náo nhiệt, sôi nỗi trong phần
hội là hội Cầu Ngư lạch Mỹ Quang. Lễ hội cầu Ngư gồm hai phần: Phần hội và phần
lễ.

17


4.1 PHẦN LỄ
4.1.1 Phần khai lễ
Phần này cịn có tên gọi khác là lễ vọng ( cáo giỗ), được bắt đầu từ lúc sáng
sớm. Vạn trưởng vạn chài thắp hương khấn bái Ông và các thần về việc tổ chức lễ,
cầu mong các vị thần về chứng giám, độ trì trong cuộc sống và lao động. Vật phẩm
cúng gồm xôi, chè, hoa quả. Nếu vạn chài muốn cúng heo thì phải cáo trước.
4.1.2 Lễ rước sắc thần
Phần này thường được tiến hành vào khoảng 2 giờ chiều. Đoàn rước xuất phát
từ lăng ông và đi ra hướng cửa biển, sau đó đến các đền, đình, miếu trong làng để
nghinh rước thần. Đoàn rước bao gồm chánh tế, Bồi tế, Tư văn, học trị lễ, các chủ
gia nghệ, đại diện đồn hát, đội nhạc cổ, chiêng trống, đội siêu, đội chèo bả trạo và 4
người khiêng long đình.
Về trang phục, Chánh tế và Bồi tế mặc áo thụng màu xanh, quần lá tọa trắng,
đầu đội khăn đóng. Các cụ già và chủ gia nghệ mặc áo dài đen đội khăn đóng hoặc
âu phục, song áo dài đen đội khăn đóng vẫn được ưa chuộng và phổ biến hơn. Bởi
lẽ, Cầu Ngư là lễ hội mang tính chất truyền thống của dân tộc. Đội múa siêu, chèo bả
trạo ăn mặc theo lễ phục. Trong lễ rước sắc thần, cờ lệnh lúc nào cũng đi đầu, vì đây
là cờ của tướng, theo sau là cờ chèo, gọi là cờ hầu.
Khi đoàn rước đã đến nơi tế lễ, chiếc long đình được đặt trước đền, đội chiêng
trống đứng hai bên, đội siêu, chèo bả trạo xếp thành một hàng dài chuẩn bị bước vào

cuộc tế lễ.
Mở đầu Chánh tế và Bồi tế miếu thắp hương, đốt đèn khấn vái. Sau đó , Thầy
lễ xướng: “ Chấp sự giả các tư kỳ sự: Chánh tế, Đông hiến, Tây hiến, chiêng cổ,
nhạc sanh ứng diện”. Lúc này, người đánh chiêng cổ cầm chiếc dùi vào bái lạy thần,
xong về vị trí.
- Khởi chinh cổ: Chiêng đánh một tiếng, trống đánh một tiếng và cùng xổ dài,
đến khi đủ 3 hồi, chiêng bắt đầu đánh giống 3 ( đánh 3 tiếng) và trống cũng đánh
theo.
- Khởi nhạc sanh: Dàn nhạc cổ đánh bài chiêu, sau đó đánh bài bá lịnh.
- Ca công khởi vũ: đội siêu 5 người bât đầu nhảy múa, trong đó có 4 người
nhảy chính và 1 người cầm trống lịnh gõ chỉ huy. Múa siêu gồm 5 bài múa chính:
Xn thiên, Lơi phong, Bể đồng, Lan mã và bài cuối cùng là hát chúc. Múa siêu loại
múa thiêng thường dùng trong tang ma người và tang ma cá Voi, thể hiện ước muốn
người sống tiễn đưa người quá cố đi đến nơi, về đến chốn, khơng bị ma quỷ phá
phách, ngăn trở.
Liền đó, Chánh tế trong bộ trang phục lễ đứng trước bàn thờ lâm râm khấn:
18


“Nam mô A di đà Phật.
Hôm nay nhơn dân ca lễ nhất diên
Bổn thôn lạch cử Chánh tế ( họ tên)
Cung tự bổn sở
Cung nghinh tam vị thần hoàng
Sắc bổn chính thần hồng
Đại vương tơn thần
Cùng các vị chư thánh
Thần quy hồi tại sở
Cử xướng nhất diên
Chứng minh, chứng giám

Hội kỳ thơn nội sơn dân đẳng, hạ đắc bình an.
Tứ thời thế mỗi niên mỗ nguyệt
Mỗ nguyệt mỗ thời quy hồi tại sở
Về chứng minh bảo hộ
Cung di tôn thần
Nam mô A di đà Phật.”
(Lê Thế Vịnh- Phạm Hùng Thoan, 2007: 155)

Khấn xong mọi người vái lạy. Tổng lái, Tổng mũi, Tổng khoan đại diện cho đội
bả trạo bước vào lạy thần. Xong việc, chiêng trống cùng xổ một hồi dài, lễ nghinh
thần tại các đình miếu coi như kết thúc.
4.1.3 Lễ nghinh Ơng Sanh
Đây là lễ nghi mang tính cố định. Các vạn chài có thể chọn lựa tổ chức nghinh
Ơng một trong hai hình thức sau: Nghinh Ơng ngồi khơi hoặc nghinh Ơng tại bờ.
Đối với Nghinh Ơng ngồi khơi, vạn chài sẽ chọn sẵn một cịn thuyền lễ đã
được chọn sẵn. Chiếc thuyền được chọn phải là loại thuyền lớn, làm ăn phát đạt
trong năm, chủ thuyền phải phu phụ song tồn, có đạo đức, phẩm chất tốt. Khơng
chịu tang và vợ mang bầu.Đồn đi nghinh gồm có Chánh tế, Bồi tế, hị bả trạo, đội
múa siêu, đội chiêng trống, đội nhạc cổ, bốn người khiêng long đình, chủ gia nghệ
và chủ thuyền. Đồn đi nghinh sẽ xuất phát từ lăng Ông, ra đến cửa lạch sẽ lên
thuyền và ra cách bờ biển khoảng 1km thì dừng lại và lễ nghinh Ông Sanh bắt đầu.

19


Lúc này, chiêng trống và dàn nhạc cổ nổi lên đánh dấu cho sự mở đầu. Tiếp
đó, Chánh tế đến trước mũi thuyền, tay cầm nhang, mặt hướng ra khơi chắp tay khấn
vái:
“Nam mô A di đà Phật
Tước vị Nguyễn Văn a, bổn thôn lạch cử

Cung nghinh Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn Thần
Lịnh Bà thủy tề Chúa Nương Nương.
Tam đầu cửu vĩ, ngủ vị long vương
Ngũ vương hà bá.
Thủy giang chi thần
Giang liên hà hải chi thần
Cung nghinh quy hồi bổn sở ( năm, ngày, tháng, giờ)
Chứng minh chiếu giám, bổn thôn ca xướng chúc diện xuân
Kỳ ( xn hay thu tế) thơn nội nhơn dân
Vạn đắc bình an, cung nghinh vái lạy”
(Lê Thế Vịnh- Phạm Hùng Thoan, 2007: 156157)

Trường hợp nghinh Ơng tại bờ, đội hình đi nghinh cũng giống như nghinh
ngoài khơi. Đoàn đi nghinh sẽ đi đến bờ biển đã được chọn sẵn, Chánh tế đứng sát
mép nước, tay cầm nhang, miệng khấn thần Nam Hải về dự lễ. Khấn xong, ông lội
xuống nước dùng tay vẩy nước lên cao. Sau đó đội siêu bắt đầu nhảy và đổ bả trạo
bắt đầu hát. Khi lễ đã hoàn thành, 4 người khiêng hương án vào lăng nhập điện.
Thực tế cho thấy những năm gần đây lễ nghinh Ơng tại bờ xuất hiện phổ biến hơn
nghinh ngồi khơi. Bởi lẽ nghinh tại bờ ít tốn kém vật chất, thời gian nhưng vẫn giữ
được sự tôn nghiêm vốn có
của lễ thức.
Múa siêu
nghinh Ơng tại bờ lễ hội
Cầu Ngư lạch Long Thủy
( Ảnh internet)
Hát bả trạo giữ vai trò
quan trọng trong nghi thức
lễ Cầu Ngư. Hát bả trạo là
loại hát đưa linh, vì thế ta
0



ngồi được sử dụng trong tục thờ cúng cá Ơng thì ta cũng có thể bắt gặp ở đám tang
người.
Theo quy định xưa, người tham gia đội chèo bả trạo là người bơi lặn giỏi, đâm
được tôm hùm, bắt được bạch tuột. Về sau yêu cầu tăng thêm, người tham gia phải
giỏi nghề võ, có tâm hồn cao thượng, trong sáng, có tướng mạo cao ráo, cân đối, có
năng khiếu hát múa và quan trọng là nhà khơng có tang.
Diễn viên Tuấn Minh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hò bả trạo thôn Mỹ Quang Bắc
(xã An Chấn, huyện Tuy An), biểu diễn hị bả trạo tại lễ đón bằng cơng nhận Di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội Cầu Ngư Phú Yên, cho biết: “Bả là cầm nắm,
trạo là mái chèo. Trong hát bả trạo, lời hát và động tác múa diễn tả lại quá trình đi
biển, từ lúc thuyền ra khơi đánh cá cho đến lúc thuyền trở về bình n. Trong hành
trình đó có lúc sóng êm biển lặng, gió mát trăng thanh, bng câu thả lưới…; có lúc
phải vất vả chống chọi lại với gió to, sóng cả, giơng tố hiểm nguy. Đội hình chèo
thuyền gồm tổng mũi ở phía trước, tổng lái ở phía sau, tổng thương ở giữa và các
tay chèo. Đây là loại hình diễn xướng tổng hợp nhiều làn điệu dân ca như: hị, vè,
lý, hát tuồng, nói lối… Nội dung hát của bả trạo gần như một vở diễn nên lời hát rất
phong phú và sinh động”. (Diệu Anh, Lễ hội Cầu Ngư Phú Yên: Di sản văn hóa phi
vật thể quốc gia đặc sắc, )
Truyền thuyết về cội nguồn của điệu múa bả trạo được ngư dân kể rằng: Ngày
xưa trong lễ cúng cá Ông, ngư dân mong muốn có một điệu múa để tái hiện lại hoạt
động đánh bắt cá, song nghĩ mãi chẳng ra. Thì một hơm nọ, có một lão ngư giỏi
nghề bơi và đánh bắt cá nằm mộng thấy chiếc thuyền của mình bị gió bão thổi lên
tận ngọn cây dừa. Giữa lúc đó, ông nghe thấy tiếng ồ ồ giống như tiếng nước réo.
Ơng thức giấc tỉnh dậy thì lúc đó có người đến báo với ông rằng trên ngọn cây cao
trước sân đình có 12 thanh niên nằm trên đó xếp theo hình chiếc thuyền. Điều đó đã
gợi cho ngư dân cách thức và hình dáng điệu múa. Mơ hình đó được ngư dân các
vạn chài tiếp thu và sử dụng, lưu truyền cho đến ngày nay.
Phần hát bả trạo kết thúc, Chánh tế, Bồi tế, đội bả trạo lạy tạ thần. Sau phần hát

bả trạo là phần tế thần.
4.1.4 Lễ tế thần
Lễ này diễn ra vào lúc nửa đêm. Với nhiều nghi thức long trọng kéo dài đến
hàng giờ đồng hồ.
Lễ vật dâng cúng tế thần gồm có hương đăng, hoa quả, trà rượu và thường có 3
con heo. Một con dùng để tế Ơng, 2 con cịn lại dùng để tế thần. Heo tế Ông phải là
heo đực màu trắng. Khi cúng để nguyên con, đặt nằm úp trên một cái mâm, khơng
được luộc chín nên gọi là “ heo chong”. Heo tế thần khác không nhất thiết phải là
heo đực hoặc cùng màu. Khi cúng được nấu chín nên gọi là “ heo phanh”.
21


Thành viên tế lễ thần bao gồm Chánh tế, Bồi tế, Đông hiến, Tây hiến, Thông
xướng, Tư văn và 4 học trị lễ. Quy trình tế gồm 2 giai phần: Đầu tiên là cử soát lễ
vật ( xem xét các vật phẩm tế lễ); Tiếp theo là tế mao huyết ( lấy một ít huyết heo và
một ít lơng heo bỏ vào một cái ly, trên miệng đậy kín bằng một tờ giấy vàng mã, rồi
đem ra gốc cay bên lăng chơn) sau đó phần tế lễ bắt đầu diễn ra theo tiến trình sau:

 Chấp giả các tư kỳ sự ( Ban tế lễ chuẩn bị)
- Khởi chiêng cổ ( chiêng đánh 3 hồi, trống đánh 3 hồi, sau đó đánh theo 3
tiếng).
- Khởi nhạc sanh ( ban nhạc cổ khởi nhạc).
- Nghệ quán tẩy sở ( rửa tay, rửa mặt).
- Quán tẩy, thế cân ( sửa áo, mão).
- Chánh tế tựu vị.
- Bồi tế tựu vị.
- Đông hiến, Tây hiến tựu vị.

 Nghệ hương án tiền
- Giai quỳ.

- Phần hương.
- Thượng hương.
- Phủ phục hưng.
- Nghinh thần các cung bái ( Chánh tế, Bồi tế Lạy 4 lạy).
- Bình thân phục vị.

 Hành sơ hiến lễ ( dâng rượu lần đầu)
- Nghệ tiểu tôn sở, tư tôn giả cử mịch.
- Chước tửu ( rót rượu).
- Nghệ tửu tương sơ, tửu tương giả cử mịch.
- Giai quỳ.
- Tấn tước.
- Hiến tước.
- Phủ phục hưng.
- Bình thân phục vị.

22


- Chuyển chúc. Lúc này, Tư văn lấy tờ văn tế thần đưa cho Chánh tế cầm và bái
3 bái trước điện thờ, sau đó trao lại cho Tư văn để chuẩn bị đọc chúc văn. ( Lê Thế
Vịnh, 2015: 91-93)
Nội dung của chúc văn gồm các phần: Cảm chiêu cáo vu tế thần, viết cung di
tôn thần, cung di tôn thần, phục di cấn cáo.
Sau khi Tư văn đọc xong chúc văn thì đưa lại cho chánh tế, ơng đặt nó lên bàn
thờ. Tiếp đó, Thơng xướng xướng:
- Phủ phục hưng ( Chánh tế, Bồi tế lạy 2 lạy rồi đứng dậy)
- Bình thân phục vị.

 Hành á hiến lễ ( dâng rượu lần thứ hai)

- Nghệ tửu tôn sở tư tôn giả cử mịch chước tửu ( lần 2)
- Nghệ tôn thần vị tiền.
- Giai quỳ.
- Tấn tước.
- Hiến tước.
- Phủ phục hưng.
- Bình thân phục vị.

 Hành chung hiến lễ ( dâng rượu lần thứ ba)
- Nghệ tửu tôn sở tư tôn giả cử mịch chước tửu ( lần 3)
- Giai quỳ.
- Tấn tước.
- Hiến tước.
- Phục hưng.
- Bình thân phục vị.

 Nghệ ẩm phước dị
- Giai quỳ .
- Âm phước ( Chánh tế bưng tô thịt cúng thần bái).
- Phủ phục hưng bái ( lạy 2 lạy).
- Điểm trà.
- Phần chúc ( đốt tờ văn tế thần).

 Lễ từ cúc cung bái ( 4 lạy).
23


- Bình thân phục vị.
- Chánh tế tị vị.
- Bồi tế tị vị.

- Đông Tây các phân hiến tựu vị. (Lê Thế Vịnh, 2015: 97-98)
Nghi thức dâng rượu ( Ảnh internet)

Trong lúc tế lễ thì đội siêu , đạo bả
trạo đứng đầu hai bên và múa đến khi
hết lễ. Xong việc, ban tế lễ và 4 học trò
lễ lạy tạ thần. Lễ hoàn thành.
4.1.5 Thứ lễ
Phần tiếp theo là hát thứ lễ, tức là
hát cúng lăng, cúng Thần do đoàn hát
bộ đảm trách. Các vở tuồng thứ lễ phải
là tuồng Ông (Ông đây chỉ nhân vật
lịch sử Quan Vân Trường sống vào thời
Tam Quốc cuối nhà Hán bên Trung
Hoa, dân gian thường gọi là Quan Công hay Quan Thánh Đế qn). Hình ảnh vị
tướng tài ba Quan Cơng mặt đỏ, râu dài, tay cầm thanh long đao, cưỡi ngựa Xích
Thố trong các lớp tuồng cổ như “Tam Anh Chiến” hay “Phục Huê Dung” đại diện
cho những giá trị cao cả của nhân sinh: can đảm, dũng mãnh, tiết tháo, nhân nghĩa,
chính trực. Trong tâm thức dân gian, khi hát cúng Ơng (Nam Hải) thì phải hát tuồng
Ơng (Quan Cơng). Như vậy, việc nhân hố và thần hóa cá Voi đồng nhất với việc
hòa nhập vào một nhân thần hiển thánh có sức mạnh vơ biên và đức độ mn mặt.
Hát thứ lễ chỉ trong 3 đến 4 giờ nhưng là khâu rất quan trọng, “nhất thứ lễ nhì
tơn vương”. Đồn hát phải đến cúng xin Đức Ngài. Nếu trong quá trình biểu diễn có
sơ suất thì bị Ban Tổ chức khiển trách, nếu nặng sẽ bị phạt. Nghệ sĩ đóng vai Quan
Công phải ăn chay niệm Phật, đêm ngủ trong lăng. Khi xem hát, lúc Quan Công xuất
hiện tất cả mọi người phải đứng dậy để tỏ lịng tơn kính. Hát thứ lễ càng nghiêm túc
bao nhiêu thì người ta càng tin rằng sẽ gặp được nhiều điều may mắn, tốt lành trong
chuyến đi biển sắp tới bấy nhiêu.
4.1.6 Lễ tôn vương
Tôn vương là phần cuối cùng của lễ tế. Nội dung tôn vương là một hoạt cảnh ca

múa dân gian với các điệu múa Tứ linh, múa Chúc rượu, múa Xổ liễn. Người dự
thường chỉ là các chức sắc, khách mời, thành viên Ban Tổ chức. Dân làng, trẻ em,
những người đang có tang khơng được vào xem.
24


×