Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Trình bày bản sắc văn hoá của các dân tộc ít người ở việt nam (chọn 3 dân tộc có bản sắc văn hoá đặc sắc, khác biệt) những bản sắc đó tạo ra thuận lợi và khó khăn gì trong quá trình xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.67 MB, 17 trang )

1

Tên học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã học phận: 2121POLI200305
Thời gian: Sáng thứ 4 (tiết 1-6)

DANH SÁCH THANH VIÊN NHÓM 6
Họ và tên

Mã số sinh viên

Nguyễn Đức Tân

47.01.401.182

Lê Thuỷ Nguyên

47.01.701.140

Phan Thị Thảo Nhi

47.01.106.098

Nguyễn Kim Như

47.01.901.016

Nguyễn Minh Như

47.01.616.149


Nguyễn Tấn Phúc

47.01.101.028

Nguyễn Trường Phúc

47.01.753.118

Thàm Quang Hưng

47.01.751.217

Lê Thị Cẩm Quyên

47.01.063.061

Trần Thanh Tâm

47.01.106.118


2

Chủ đề: Trình bày bản sắc văn hố của các dân tộc ít người ở Việt Nam (chọn 3 dân
tộc có bản sắc văn hố đặc sắc, khác biệt). Những bản sắc đó tạo ra thuận lợi và
khó khăn gì trong q trình xây dựng khối đại đồn kết dân tộc ở nước ta. Nêu ví
dụ cụ thể.
I. Bản sắc văn hoá dân tộc
1. Dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội

loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân
tộc.
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngơn ngữ chung và có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và
truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành
trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngơn ngữ và
văn hóa.
2. Bản sắc văn hóa dân tộc


3

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là thuật ngữ chỉ sắc thái, vẻ đẹp và tính chất đặc biệt, cái
riêng để phân biệt với những nước trên thế giới, bản sắc văn hóa dân tộc là cái gốc của nền văn
hóa, những đặc trưng khơng thể trộn lẫn trong cội nguồn văn hóa dân tộc Việt Nam.
3. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hành động, việc làm của mỗi người hướng tới mục tiêu
bảo vệ, gìn giữ những nét đặc trưng, tài sản vô giá, linh hồn của dân tộc hun đúc qua hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước, biết bao mồ hôi xương máu máu của dân tộc Việt Nam.
4. Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc thể hiện ở những mặt nào?
Bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc thường được thể hiện ở:

+ Ngôn ngữ
+ Phong tục tập quán
+ Trang phục.
+ Lễ hội
+ Phương thức sản xuất
II. Bản sắc văn hoá của các dân tộc ít người ở Việt Nam

1. Dân tộc Mảng
Dân tộc Mảng sinh sống ở thượng nguồn sông Đà thu ôc tỉnh Lai Châu – Điện Biên, Vân Nam
(Trung Quốc). Người Mảng sinh sống chủ yếu ven hai con sông lớn là sông Đà và Nậm Na, địa danh
Gium Bai được người Mảng coi là nơi phát tích của dân tộc mình. Hiện nay đồng bào sống xen kẽ
cùng một số dân tộc Mơng, Thái, Hà Nhì, Dao, Khơ Mú. Đây là một trong những dân tộc còn lưu
giữ được nhiều nét văn hóa độc đáo.

- Ngơn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nhiều người Mảng biết tiếng Thái. Người Mảng chưa có chữ viết riêng.
- Cơng việc: Cơng việc chính của người Mảng là làm nương rẫy, công cụ sản
xuất thô sơ. Một số nơi làm ruộng bậc thang, nghề thủ công đan lát.
- Phong tục tập quán: Thờ vị thần cao nhất là trời. Hôn nhân tự do, lúc đưa
dâu có tục đánh nhau giả giữa họ nhà trai và nhà gái để giành cơ dâu. Cư trú theo
dịng họ, riêng biệt, ở nhà sàn. Có trưởng bản cai quản cùng hội đồng già làng.


4

+ Cưới hỏi:
● Lúc đưa dâu có tục đánh nhau giả giữa họ nhà trai và nhà gái để giành
cô dâu, thể hiên sự lưu luyến của nhà gái với cô dâu trước khi về nhà chồng.
● Người Mảng chọn cưới vào thời điểm mùa màng đã được thu hoạch
xong.
● Ngày cưới được tổ chức ở nhà gái trước, nhà trai mang lễ vật sang nhà
gái theo sự thỏa thuận chung của hai nhà. Đám cưới sẽ tổ chức từ 2 - 4 ngày.
● Người Mảng quan niệm lễ vật họ mang đến là đổi lấy con dâu, nếu đến

và ăn những thức ăn đó sẽ ảnh hưởng đến đơi vợ chồng sau này.
+ Nghi lễ vào nhà mới: Lễ vào nhà mới là một hoạt động đặc trưng phản
ánh đậm nét đời sống văn hố, tín ngưỡng của người Mảng.
● Dân tộc Mảng quan niệm trong đời người quan trọng nhất là dựng

nhà, lập gia đình và sinh con, phát triển gia đình. Dựng nhà là mối quan tâm hàng
đầu của mọi người trong dân tộc.
● Khi nhà làm xong, vào buổi sáng tốt của một ngày đã chọn, gia đình
làm các thủ tục, nghi lễ vào nhà mới.


5

+ Xăm cằm: là một trong những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mảng.
Hình xăm trên cằm mỗi người không chỉ thể hiện sự trưởng thành của người đó,
mà cịn thể hiện quan niệm tâm linh của dân tộc Mảng.
● Ngày xưa khi nam, nữ người Mảng đến tuổi 12 đều thực hiện nghi thức
xăm cằm. Ngày được chọn để tổ chức lễ xăm cằm phải là ngày đẹp trong tháng 10
âm lịch hàng năm.
● Chọn được ngày tốt, người xăm cằm và gia đình mang lễ vật đến nhà
thầy cúng nhờ làm lễ, khi mọi người đến nhà thì thầy cúng xuống tận đầu cầu
thang đón tiếp niềm nở.
● Lên nhà, đại diện gia đình rót nước, rượu trình bày lý do đến nhà thầy
cúng, người xăm cằm cúi lạy thầy cúng ba lạy, nhờ thầy đứng ra làm lễ giúp.


6

+ Trang phục: Vùng đất cư trú của người Mảng thuận lợi cho cây bông phát
triển, song do điều kiện kinh tế bấp bênh, khơng có truyền thống trồng bơng dệt
vải. Họ thường mua vải của người Thái Trắng, người Hà Nhì hoặc vải cơng nghiệp
về cắt khâu y phục theo phong cách riêng của mình.
Trang phục của phụ nữ Mảng ở Mường Tè Lai Châu gồm có: dây quấn tóc, áo, váy, yếm, xà
cạp…
Dây quấn tóc (păng chư út) là một dải dây dài, gồm nhiều sợi chỉ bông màu trắng tết lại. Độ

dài ngắn của dây tuỳ ý người sử dụng, thường từ 150 – 200cm. Hai đầu dây kết tua, tua là những
chuỗi cườm nhỏ bằng nhựa màu xanh, đỏ, đen, trắng, vàng; đuôi tua là những sợi vải màu đỏ.


7

- Lễ hội: Một số lễ hội tiêu biểu của người Mảng có thể kể đến là lễ cơm mới,
lễ cúng hồn lúa, ...
+ Lễ cơm mới: Cũng giống như một số dân tộc khác trong vùng Tây Bắc, vào
mỗi mùa thu hoạch lúa, người Mảng thường tổ chức lễ cúng cơm mới.
● Lễ cúng cơm mới có thể làm khi mới thu hoạch hoặc đã thu hoạch
xong lúa trên nương.
● Việc cúng cơm mới của những nương lúa thu hoạch vụ đầu có ý nghĩa
quan trọng, nó liên quan đến sản xuất, thu hoạch của những vụ tiếp theo.
● Lễ do phụ nữ đứng ra chủ trì, người nhà và anh em họ hàng của người
phụ nữ cùng tham gia, riêng người chồng lại không được tham gia.

● Trong mâm cúng cơm mới, người Mảng cố gắng săn bắn hoặc đánh bắt
để có thêm một món cá hoặc thịt thú rừng.
+ Lễ cúng hồn lúa: Trước khi gặt, chủ nhà chọn ngày tốt để làm lễ cúng hồn
lúa.


8

● Vào ngày đã chọn, chủ nhà mang theo lễ vật (gồm một nắm xôi nếp,
đuôi cá suối nướng hoặc một miếng thịt gà, hay một quả trứng gà luộc) lên nương
lúa để làm lễ cúng.
● Người Mảng quan niệm: Nếu gặt hết thì hồn lúa sẽ theo về nhà và sẽ
thất lạc, năm sau mùa màng sẽ thất bát nên phải để lại mấy khóm lúa cạnh nương

bên lối đi về nhà, ...
2. Dân tộc Tà - ôi
Dân tộc Tà - ơi gồm có 3 nhóm địa phương cịn gọi là kan tua, Pa Cô,Ba Hi hay Pa Hi, là một
dân tộc cư trú ở miền trung Việt Nam và nam Lào.

- Nơi ở: Làng người Tà Ôi theo kiểu làng trịn, làng phịng thủ, làng hình
móng ngựa… cơng trình cơng cộng đều xây dựng giữa làng, nhà dân vây quanh
nhưng đảm bảo ngun tắc các cây địn nóc nhà khơng có hướng đâm vào nhau.
Nhà ở của người Tà ôi là loại nhà sàn tổng hợp, riêng người Pa hi ở nhà đất (có nhà
ở riêng và nhà chứa lương thực riêng), nhưng cả nhà sàn và nhà đất đều có mái
trịn ở hai đầu hồi nhà và đều có “khau cút”(làm bằng gỗ có hai hình đầu chim cu
chéo nhau, tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hồ của dân tộc
trên phần mái hồi tiếp giáp với đầu nóc) - đây là đặc điểm để phân biệt ngơi nhà
của người Tà Ơi với các dân tộc khác cùng ngữ hệ ở vùng này.


9

- Ngơn ngữ: Thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), Ít nhiều
gần gũi với tiếng Cơ Tu và Bru - Vân Kiều. Giữa các nhóm có một số khác biệt nhỏ
về từ vựng.
- Phong tục tập quán:
+ Cưới hỏi: Trai gái lớn lên sau khi đã cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên thì
được tìm hiểu nhau và lấy vợ, lấy chồng. Nhà gái cho con đi làm dâu và được
nhận của cải dẫn cưới gồm cồng, chiêng, ché, nồi đồng, trâu, lợn...Cùng với đám
cưới, cô dâu chú rể phải làm lễ "đạp bếp" tại nhà bố mẹ cô gái để đánh dấu từ đó
cơ ta sẽ thực sự là người nhà chồng, và ít năm sau phải tổ chức lễ tạ ơn "thần
linh" đã cho hai người sống yên ổn với nhau.
+ Người Tà ơi cịn có tục đi sim: Nét đặc sắc trong tục đi sim của người Pa
Kơ đó là, những đôi trai gái dù cùng ăn, ở, sống bên nhau, cùng đắp tấm zèng ấm

áp qua đêm trong nhà Xu – căn chịi cách biệt bên ngồi, trong khung cảnh lãng
mạn một thời gian dài nhưng họ vẫn giữ gìn tình u trong sáng, khơng sa vào
chuyện “chăn gối”. Bởi người Pa Kơ quan niệm đó là điều thiêng liêng, khi yêu
nhau phạm chuyện đó thật xấu hổ. Già làng biết chuyện thì cha mẹ, gia đình, họ

tộc sẽ bị phạt nặng. Theo già làng dân tộc Pa Kô, Pộôc xu (đi sim) có mục đích để
các đơi tìm hiểu nhau, các chàng trai cô gái Pa Kô đến tuổi trăng tròn sau một
ngày lên nương làm rẫy, đêm đêm vào mùa trăng sáng đẹp trời, họ lại nô nức rủ
nhau đi sim.


10

- Thờ cúng: Người Tà Ôi tin mọi vật đều có siêu linh, từ trời, đất, núi, rừng,
suối nước, cây cối cho đến lúa gạo, con người, con vật đều có "thần" hoặc hồn. Mỗi
dịng họ có một bàn thờ ở nhà trưởng họ, mọi gia đình đều có thể tới đó làm lễ
cúng khi ốm yếu, rủi ro, cần khẩn một điều gì đó.
- Trang Phục: Nữ mặc váy ống loại ngắn và áo, hoặc váy loại dài che ln cả từ
ngực trở xuống (ở nhóm Tà Ơi phía biên giới thuộc A Lưới), có nơi dùng thắt lưng
sợi dệt, năm quấn khố mặc áo, thường hay ở trần. Xưa kia, có những nơi phải dùng
đồ mặc chế tác từ vỏ cây. Hình thức đeo trang sức cổ truyền là các loại vòng tay,
vòng chân, vòng cổ, khuyên tai, bằng đồng, bạc hay hạt cườm, mã não... Phụ nữ
đeo cả loại vịng dây đồng quấn thành hình ống ơm quanh đoạn ống chân và cẳng
tay. Tục cà răng, xăm trên da và đeo trang sức làm căng rộng lỗ xâu ở dái tai chỉ cịn
số ít ở các cụ già.
- Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng, liên quan đến sức khoẻ, tài sản, việc ngăn chặn
dịch bệnh, việc làm rẫy... Những lễ lớn đều có đâm trâu tế thần và trở thành ngày
hội trong làng. Gắn với chu kỳ canh tác có những lễ thức quan trọng nhằm cúng
cầu thần lúa, mong bội thu, no đủ. Tết cổ truyền vào thời kỳ nghỉ ngơi sau khi tuốt
lúa, trước mùa rẫy mới.

- Phương thức sản xuất: Nguồn sống chủ yếu của đồng bào Tà Ôi từ làm
nương rẫy, riêng người Pa hi làm ruộng, có thu nhập hoa lợi trên vườn. Ngồi ra,
đồng bào Tà Ơi có truyền thống chăn ni gia súc trâu, bị, lợn, dê…
3. Dân tộc Mơng hay H’Mơng (người Mèo)
Dân tộc Mơng có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu
vùng Đông Nam Á là Lào, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar. Ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở Trung du
và miền núi Bắc Bộ và một số tỉnh Bắc Trung Bộ. Tên gọi dân tộc được ơng Cư Hịa Vần nêu ra là
"Mơng" hoặc "Hmơngz”.

- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của người Mông là tiếng H’Mông.


11

- Nghề nghiệp: Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc
sắc của người H’mông.
- Trang Phục: Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt.
Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ gồm có: váy, áo xẻ ngực, tạp dề trước và sau,
xà cạp quấn chân. Áo phụ nữ mông có cổ là một miếng vải treo trên bả vai được
thêu sặc sỡ. Váy may và trang trí cơng phu, là váy mở xếp nếp xoè rộng.
Ngày nay, trang phục phụ nữ H’mơng có những thay đổi: phụ nữ H’mơng Sa Pa mặc quần ống
ngắn và hẹp, áo khốc ngồi kép xẻ ngực cổ cứng thiêu hoa văn. Phụ nữ H’mông Trắng Sơn La mặc
quần ống dài, mặc áo cánh trắng bên trong, mặc áo cổ truyền bên ngoài. Phụ nữ H’mông Hoa mặc
áo hở nách

- Phong tục tập quán:
+ Hôn nhân:
● Hôn nhân của dân tộc Mông cũng giống các dân tộc khác trong nước
về cơ bản là một vợ một chồng.
● Hôn nhân của người Mông được tiến hành theo ba bước: Dạm ngõ; Lễ

hỏi; Lễ cưới.


12

● Song hôn nhân của người Mông lại lệ thuộc vào nhiều lễ nghi, nhiều
tập tục từ xưa để lại. Trong tập tục ấy có nhiều nét đẹp, tuy nhiên ít nhiều cũng có

hạn chế.
● Một tục lệ cưới hỏi của người Mơng có thể kế đến là tục "háy pù", tức
là trong trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn,
trai gái hị hẹn nhau tại một địa điểm, từ địa điểm đó chàng trai dắt tay cô gái về
làm vợ.
● Vợ chồng người Mơng rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận,
cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè, …
+ Tục kéo vợ: Tục kéo vợ hình thành từ rất sớm, được gìn giữ và thực hành,
trở thành một phong tục độc đáo chỉ có ở dân tộc Mông.


13

Hơn nữa, nhiều gia đình đã ép gả con gái cho nhà giàu với mong muốn con
mình được hưởng giàu sang phú quý, nhiều đôi trai gái tuy yêu nhau nhưng khơng
lấy được nhau, tình u bị tan vỡ. Các đôi trai gái người Mông yêu nhau hẹn nhau
ngày về sống chung một nhà nhưng do tự trọng cô gái người Mông không thể tự
vào nhà chồng trong khi chưa dạm hỏi. Vì thế, người Mơng mới nghĩ đến việc kéo
vợ, một trong những điểm khởi đầu cho câu chuyện hơn nhân.
Đó là thường vào ngày hội xn, chợ phiên, các chàng trai, cô gái người Mông đến tuổi
trưởng thành cùng nhau xuống dự hội, đi chợ phiên. Khi đi, họ mặc những bộ trang phục mới
nhất, đẹp nhất để làm dun. Mục đích đi hội khơng chỉ để vui, giao lưu mà các chàng trai, cô gái

Mông mong muốn tìm được người mà mình yêu, mình mong đợi.
Ngày nay, có nhiều thơng tin đăng tải trên mạng xã hội đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến việc
bảo tồn nét đẹp và dẫn đến những cách hiểu chưa đúng về tục kéo vợ cổ truyền của đồng bào
Mông. Nên ở mỗi chúng ta phải nên biết chọn lọc thông tin và đặc biệt là phải hiểu đúng tập tục
này tục “Kéo vợ”.

- Tập quán ăn và ở:
Lương thực chính của người Mông là ngô, người Mông chế biến thành hai loại
một là mèn mén (dùng thay cơm), hai là bánh ngô (làm trong những ngày lễ tết, hội
hè).
Thức ăn hàng ngày của người Mơng gồm rau cải, đậu, bí đỏ. Ngày mùa, ngày
tết, ngày lễ có thêm thịt gà, dê, lợn hoặc thịt bò.


14

Ngồi ra người Mơng cịn có một món ăn trong các phiên chợ, ngày hội, đó là
món thắng cố, là món thịt thái to, cả xương, lịng gia súc gồm: thịt dê hoặc thịt bò
hầm nhừ trong chảo, dùng ăn nóng.
Nhà ở của người Mơng khá khang trang: Nhà gỗ lợp tranh, lá, phên vách hoặc
nhà trình tường lợp ngói âm - dương.
- Lễ hội:
+ Tết cổ truyền: Tết cổ truyền của người Mông tổ chức vào tháng 12 dương
lịch. Trong 3 ngày tết, họ không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường
thổi khèn gọi bạn.
+ Lễ hội Gầu Tào: Khi một gia đình người Mơng khơng có con, ít con hoặc
sinh con một bề hay có người ốm đau hoặc làm ăn không tốt …, họ sẽ lên đồi Gầu
Tào khấn xin thần linh ban cho con cái, cầu xin sức khỏe hay làm ăn thuận lợi. Khi
lời cầu khấn trở thành hiện thực, họ làm lễ Gầu Tào để tạ ơn thần linh.
* Theo tiếng Mơng, Gầu Tào có nghĩa là “địa điểm chơi”.


- Tín ngưỡng, tôn giáo:
+ Thờ cúng tổ tiên
+ Thờ cúng ma
+ Tín ngưỡng liên quan đến chu kỳ đời người
+ Tín ngưỡng thờ cúng nơng nghiệp
Khi nhà có người chết, chủ nhân báo tin cho hàng xóm, anh em họ mạc, bằng cách bắn 3 phát
súng kíp lên trời.
Đám ma người Mông không buồn bã, thê thảm như một số dân tộc khác, đám ma người
Mơng có hơi hướng hội. Những người đến dự đám ma, khi thầy trống, thầy khèn múa thì tất cả có
thể nhảy múa theo.

- Phương thức sản xuất
Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người
H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương


15

ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu
cầu và thị hiếu của người dân.
III. Thuận lợi và khó khăn gì trong q trình xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
ở nước ta
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam:
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc
lập, tự chủ của dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch
họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi

nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
1. Thuận lợi

- Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm
hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các
cộng đồng người gắn bó, đồn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
- Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, và ở một khía cạnh nhất định, văn
hóa chính là sự chia sẻ những giá trị, biểu tượng, truyền thống, phong tục tập
quán, lịch sử và truyền thuyết… chung của một cộng đồng, dân tộc, quốc gia. Như
vậy, khi chúng ta nói về văn hóa Việt Nam, điều này hàm nghĩa rằng các cộng đồng
đang chia sẻ những điểm chung đó. Điều quan trọng ở đây là, qua việc chia sẻ
những giá trị, biểu tượng, lịch sử và truyền thuyết… chung, các cộng đồng xác lập
tình đồn kết, u thương và chia sẻ. Đây chính là cội nguồn sức mạnh của tinh
thần yêu nước nói riêng, của đất nước nói chung. Truyền thuyết về quả bầu, nơi
các dân tộc anh em được sinh ra để hình thành nên cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, chính là một cách giải thích về nguồn gốc để tạo ra tình đồn kết như vậy.


16

Đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh gian khổ, nhờ tình đồn kết giữa các dân
tộc, chúng ta đều giành chiến thắng trước mọi kẻ thù.
Ví dụ 1: Trong thời kỳ đổi mới đất nước, dân tộc Tà Ôi thuận lợi giao lưu với nhiều dân tộc
anh em khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong đó có nhiều hoạt động văn hố đã diễn
ra tại Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô - Sơn Tây - Hà Nội), nổi bật trong các
hoạt động này là Lễ đặt tên.

Ví dụ 2: Năm 1941, để trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc,
Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã về nước, chọn Cao Bằng và vùng Việt Bắc làm căn cứ cách

mạng. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây được vinh dự đùm bọc, che chở cho Bác Hồ
và các cơ quan lãnh đạo của cách mạng. Việt Bắc trở thành “quê hương cách mạng dựng
nên cộng hịa”.
2. Khó khăn


17

Người dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 70% nhóm đối
tượng cực nghèo (được đo lường theo chuẩn cực nghèo quốc gia). Trong suốt hai thập kỷ tăng
trưởng nhanh của Việt Nam, người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã có mức sống được cải thiện lên
một cách toàn diện, song thành quả được hưởng của nhóm đối tượng này cịn kém xa so với dân
tộc chiếm đa số là người Kinh.
Một vài khó khăn:

- Bị cách biệt về địa lý và hạn chế trong tiếp cận thị trường,
- Bị cô lập về mặt xã hội, yếu tố văn hóa và ngơn ngữ,
- Hạn chế trong tiếp cận đất đai có chất lượng,
- Tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp, và trình độ học vấn thấp.
Ví dụ: Một số dân tộc mà số dân chỉ có vài trăm người như: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Ơ
Ðu, bản sắc văn hóa của các dân tộc này bị mai một nghiêm trọng, nếu không bảo tồn sẽ dẫn đến
mất dân tộc, vì khơng đủ theo 3 tiêu chí xác
định thành phần dân tộc, tự mỗi dân tộc khó
có thể giữ được phong tục, tập quán truyền
thống, ngôn ngữ dân tộc, ý thức tự giác tộc
người, ... theo các tiêu chí của một thành
phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
nước ta.

Hình ảnh dân tộc Si La




×