Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số giải pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.37 KB, 60 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Người xưa từng khẳng định: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Ngun
khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí suy thì thế nước yếu rồi xuống
thấp. Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng
nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên (Thân Nhân
Trung). Tiếp nối truyền thống ấy, ngày nay, Đảng và Nhà nước ta ln xác định:
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là mục tiêu quan trọng mà
ngành giáo dục hướng tới.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là cơng việc được tồn ngành giáo dục quan tâm từ
lâu. Ngay trong những năm tháng gian khổ nhất của đất nước khi chưa thống nhất,
miền Bắc vẫn tổ chức những kì thi học sinh giỏi. Kể cả khi giặc Mĩ điên cuồng leo
thang bắn phá miền Bắc thì bao thế hệ thầy giáo, học sinh mang mũ rơm đi học
đường dài vẫn học, vẫn dạy, vẫn thi và đạt giải học sinh giỏi trong nước và quốc
tế. Gần đây, Đảng ta có hẳn nghị quyết về giáo dục và đào tạo, bàn về công tác bồi
dưỡng nhân tài. Vì vậy, có thể nói cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác
mũi nhọn và trọng tâm của ngành giáo dục. Nó có tác dụng tích cực trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, kích thích tinh thần say mê học tập của học
sinh, nâng cao chất lượng và khẳng định uy tín của nhà trường, góp phần vào việc
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Ngữ văn là một trong ba mơn có tính chất cơng cụ, bắt buộc trong kì thi Quốc
gia nhưng vị trí của nó ngày càng khiêm tốn, học sinh trong nhà trường phổ thông
ngày càng mất đi niềm yêu thích văn chương. Học sinh ít theo học, giáo viên bớt
mặn mà. Thực tế ấy khiến khơng ít giáo viên ngán ngẩm cho chuyên ngành đào tạo
của mình. Tuy nhiên, hàng năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Phúc đều tổ chức kì
thi chọn học sinh giỏi các cấp, trong đó có thi học sinh giỏi THPT nhằm lựa chọn
tơn vinh những học sinh có thành tích cao trong những mơn học, tiếp tục tham gia kì
thi học sinh giỏi quốc gia. Đồng thời, qua kết quả cuộc thi Sở lấy đó làm một kênh
thơng tin để đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi trường học trong phạm vi toàn
1



download by :


tỉnh. Vì vậy, trường THPT Tam Đảo vẫn ln coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường.
Dạy Văn cho học sinh là một cơng việc khó, bởi dạy Văn khơng chỉ dạy
đúng, đủ kiến thức cơ bản, đúng trọng tâm mà còn phải dạy hay. Dạy Văn cho học
sinh giỏi cịn khó hơn nhiều. Dạy Văn tức là dạy cái hay, cái đẹp cho học sinh, dạy
cho học sinh không chỉ nghĩa lí của tác phẩm mà cịn là con người để mỗi học sinh
rung cảm, đồng cảm với từng nhân vật, từng số phận, từng cuộc đời thì thật là một
cơng việc gian lao. Người thầy giáo muốn có một giờ dạy thành công phải lao tâm,
khổ tứ từ việc sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, cảm thụ tác phẩm một cách nhuần
nhuyễn để khi giảng tác phẩm cho học sinh thầy phải thật thấu đáo, am tường,
chuẩn mực… Song điều đó khơng có nghĩa là thầy giáo hiểu hộ học trò, cảm hộ
học trò, tạo cho học trò thói quen ăn sẵn mà mỗi giờ học phải khơi dậy, gợi dậy,
làm sống dậy trong lòng học trò sự hứng thú, lơi cuốn kì diệu của văn chương…
Mỗi bài dạy là một chinh phục vất vả, đầy mồ hôi và cả nước mắt song cũng thật
hạnh phúc. Có người u thích bóng đá coi việc dạy Văn như làm huấn luyện viên
bóng đá mà mỗi tiết dạy là đứng trước một trận đấu, người giáo viên phải tìm ra
đấu pháp như thế nào cho hợp lí để mỗi giờ dạy phải hấp dẫn, lôi cuốn, chinh phục
được người học.
Dạy Văn đã khó, dạy bồi dưỡng học sinh giỏi lại càng khó hơn. Đó là một
q trình khó khăn, gian khổ và hết sức công phu. Từ việc trang bị kiến thức có hệ
thống đến việc dạy học sinh biết cách cảm thụ, rồi từ những cảm xúc, cảm nghĩ ấy
chuyển thành câu thành chữ dưới ngòi bút cho đúng, cho trúng, cho rành mạch và
xúc động là cả một quá trình truân chuyên.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tơi có chung nỗi niềm với
bao giáo viên văn khác, nhưng với lịng u nghề, tơi vẫn cố gắng học hỏi, phấn
đấu với mong muốn phần nào thay đổi suy nghĩ của xã hội về một môn học đã

từng được coi là cực kì quan trọng trong giáo dục nhân cách con người. May mắn
cho tôi, trong những năm qua liên tục được nhà trường giao cho dạy ôn thi
THPTQG và luyện đội tuyển môn Văn theo khối lớp được phân cơng giảng dạy.
Đó vừa là trách nhiệm, vừa là thử thách lại vừa là cơ hội cho tôi được khám phá
2

download by :


sâu kiến thức bộ môn. Mặc dù tôi đã tham khảo nhiều sách báo, tìm kiếm trên
mạng Internet những kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi quí báu của đồng
nghiệp ở trong và ngồi tỉnh nhưng nhìn chung chưa thấy có nhiều chun đề trình
bày đầy đủ, kĩ lưỡng và có hệ thống về vấn đề này.
Với sự phấn đấu, học hỏi, rút kinh nghiệm qua những tiết dạy, lắng nghe
những lời chỉ bảo q báu của các thầy, cơ có nhiều năm cơng tác đứng lớp; cùng
với việc cọ sát trong thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở tại nhà trường qua
một số năm học, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Ngữ Văn ở trường THPT, mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Tên sáng kiến:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Trần Thị Thúy Hồng
- Địa chỉ: Trường THPT Tam Đảo
- Số điện thoại: 0987818464
- Email:
4. Chủ đầu tư sáng kiến: Trần Thị Thúy Hồng
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Theo tôi, sáng kiến có thể áp dụng trong việc bồi dưỡng đội tuyển học sinh

giỏi môn Văn ở khối THPT. Trong đề tài này, tôi hướng tới việc nghiên cứu trong
diện hẹp từ yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong việc dạy đội tuyển và học
đội tuyển môn Văn ở trường THPT đến q trình thăm dị, phát hiện và cách thức
dạy học, bồi dưỡng nhân tố.
Thực hiện đề tài này, tôi mong muốn được chia sẻ, học tập, trao đổi kinh
nghiệm với các đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo
viên và hiệu quả học tập của học sinh nói chung, góp phần nâng cao chất lượng của
đội tuyển học sinh giỏi Văn của nhà trường nói riêng.
3

download by :


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Sáng kiến kinh nghiệm được tôi nghiên cứu, dạy thử nghiệm đội tuyển học
sinh giỏi khối 12 trong năm học 2016-2017. Sau đó, tiếp tục rút kinh nghiệm, dạy
thử nghiệm đội tuyển học sinh giỏi khối 10 trong năm học 2017-2018; đội tuyển
học sinh giỏi khối 11 trong năm học 2018-2019 và thu được kết quả khả quan.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Đánh giá thực trạng của đề tài khi áp dụng và thử nghiệm
7.1.1. Đánh giá thực trạng của đề tài trước khi áp dụng sáng kiến
7.1.1.1. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
- Văn học là một loại hình nghệ thuật phản ánh đời sống bằng hình tượng
thơng qua một chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật. Bằng ngơn ngữ, tác phẩm
văn học có khả năng tái hiện cụ thể, sinh động, gợi cảm hiện thực khách quan, giúp
nhận thức cuộc sống, đưa đến những suy tưởng sâu lắng, trong tâm hồn, tình cảm
để cuộc sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.
- Nhìn chung, học sinh THPT đã có khả năng độc lập, tích cực trong học
Văn nhưng năng lực và hứng thú cá nhân chưa bền vững. Những phẩm chất tư duy
như ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng… đã phát triển nhưng rất cần các phương pháp hỗ

trợ, kích thích của giáo viên mới trở nên bền vững và ổn định. Do vậy, trong quá
trình bồi dưỡng học sinh cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực, có khả năng
khả thi giúp học sinh có hứng thú học tập bộ mơn. Từ đó, nâng cao năng lực cảm
thụ văn, biết cách trình bày những suy nghĩ, cảm nhận về một vấn đề văn học một
cách khoa học.
- Thực tế, ở trường THPT Tam Đảo việc bồi dưỡng học sinh có năng khiếu
mơn Văn cũng nằm trong tình trạng chung, phổ biến: Học sinh tiếp nhận và cảm
thụ kiến thức văn học qua khâu trung gian là giáo viên. Do trình độ học sinh cịn
hạn chế, sách tham khảo còn thiếu; chất lượng chưa cao, giáo viên phần nhiều cịn
non trẻ. Vì vậy, chất lượng học sinh qua các kì thi học sinh giỏi mơn Văn chưa đạt
được yêu cầu mong muốn.
7.1.1.2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài
4

download by :


- Bản thân tôi giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Tam Đảo từ năm
2000, đến năm 2001 bắt đầu được giao bồi dưỡng đội tuyển học sinh liên tục cho
đến nay. Tơi đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả bồi dưỡng chưa cao.
7.1.2. Nguyên nhân
7.1.2.1. Chủ quan
- Giáo viên chưa có kinh nghiệm trong bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi.
- Học sinh chưa có tinh thần học tập, chưa có sự đam mê và sự quan tâm đối
với môn Ngữ Văn (Do xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, điều kiện và cơ hội việc
làm rất khó với những ngành có mơn văn).
7.1.2.2. Khách quan
- Chất lượng đầu vào (Lớp 10) rất thấp dẫn tới chất lượng đội tuyển khơng
đồng đều. Quan niệm của xã hội nói chung về môn Văn ảnh hưởng tới việc lựa
chọn và thành lập đội tuyển. Nhiều học sinh giỏi toàn diện vẫn có ý thức coi nhẹ

mơn Văn, khơng được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn Ngoại ngữ mới
chịu vào đội tuyển Văn. Nhiều em có năng khiếu bộ mơn nhưng lại gặp sự phản
đối từ gia đình.
- Các phương pháp học tập của HS chưa tốt, học khơng có kế hoạch, khơng
có phương pháp, chưa biết phương pháp tự học theo hướng tích cực, thụ động
trong quá trình học, quen nghe, ghi chép những gì giáo viên nói, ít có nhu cầu tự
bộc lộ sự hiểu biết, cảm nhận văn học qua ngơn ngữ nói, viết của mình, học sinh
cịn khá nhiều hạn chế về năng lực học tập trong môn học ngữ văn. Cụ thể, các em
cịn thụ động trong q trình học tập. Chỉ khi nào giáo viên yêu cầu phát biểu thì
các em mới dám nói.
- Tài liêu, sách báo tham khảo ở thư viện cịn hạn chế, chưa có đủ để giáo
viên và học sinh tham khảo, nghiên cứu.
- Thời gian bồi dưỡng ngắn (nhất là Lớp 12), áp lực trong việc phải có nhiều
giải và giải cao.

5

download by :


7.2. Những giải pháp đã áp dụng
7.2.1. Phát hiện và tuyển chọn những học sinh có năng khiếu bộ mơn
- Đây là bước quan trọng trước khi bắt đầu ôn luyện bồi dưỡng. Bởi vì, có
lựa chọn kĩ lưỡng, đúng khả năng, phát hiện tố chất văn chương của các em thì mới
hiệu quả trong cơng tác bồi dưỡng. Trong khi theo xu thế thời đại, các em ngại học
văn, người dạy đội tuyển còn phải vừa dạy vừa “dỗ” rất vất vả. Nhưng giáo viên
hãy coi đó là thử thách, vượt qua được sẽ đến thành công.
- Trước khi thành lập đội tuyển tôi rất quan tâm tới đối tượng học sinh, tìm
hiểu tố chất, năng lực lĩnh hội kiến thức cũng như tâm lý, nhu cầu, động cơ học tập
của các em để đo mức độ hứng thú và say mê học tập. Trên cơ sở đó, kịp thời nắm

bắt diễn biến tư tưởng và ý thức học tập của các em; khích lệ, động viên kịp thời;
tránh để các em căng thẳng, mệt mỏi. Kinh nghiệm cho thấy: tiến hành hoạt động
dạy học trên đối tượng học sinh khơng có tố chất đã khó nhưng càng khó hơn nếu
các em khơng có tinh thần say mê học tập bộ môn. Với các đối tượng như vậy,
thường rất khó, khó đến mức khơng thể khơi dậy ý chí, quyết tâm và hứng thú
trong học tập cho các em.
- Yếu tố học trị xuất sắc được hiểu là có tố chất học tập và nghiên cứu mơn
học, có tinh thần say mê, ham học hỏi, có khả năng biến q trình được thầy cơ
đào tạo thành q trình tự đào tạo, và đặc biệt phải có khả năng và phương pháp tự
học. Cốt lõi trong vấn đề này là đãi cát tìm vàng. Nếu khơng cố gắng, tâm huyết
với cơng việc thì khó có thể phát hiện được học sinh có tố chất xuất sắc, khơng
phát hiện được học sinh có tố chất xuất sắc thì việc bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ rất
gian nan.
- Để có được những học sinh giỏi văn trong đội tuyển của nhà trường, ngay
từ đầu lớp 10, tôi chú ý đến những em có điềm thi vào đầu cấp từ 8 điểm trở lên.
Sau đó theo dõi q trình học tập của các em qua các điểm kiểm tra thường xuyên,
kiểm tra định kì, qua kết quả thi tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi của nhà trường.
- Tiếp đó, tơi chủ động sắp xếp thời gian gặp gỡ các em được chọn, tìm hiểu
quan điểm cũng như cách học, cách tiếp nhận bộ mơn Văn trong q trình học tập,
tìm hiểu hướng đi tương lai của các em, nhất là việc chọn khối thi vào các trường
6

download by :


đại học sau này. Từ đó, chỉ thu nhận những em học sinh có niềm đam mê, thích thú
với bộ môn Văn, kiên quyết không đưa vào đội tuyển những em học sinh có cái
nhìn lệch lạc về mơn Văn hoặc chán học môn Văn, cho dù đôi khi cái chán của học
sinh bắt nguồn từ giáo viên dạy trên lớp. Không chọn những học sinh thi khối A, B
mà chỉ chọn những học sinh có nguyện vọng thi vào khối C, D. Đặc biệt, chỉ

những em tự nguyện tham gia mới được đưa vào danh sách đội tuyển chính thức
của trường, không chú ý số lượng, chỉ chú trọng chất lượng. Từ đó, trao đổi với
các em được chọn về việc thành lập đội tuyển học sinh giỏi Văn để các em biết
thuận lợi và khó khăn trong quá trình tham gia đội tuyển.
- Bằng việc làm này, hằng năm tôi đã lựa chọn được một số học sinh có tố
chất, u thích mơn Văn…để chuẩn bị cho việc thành lập đội tuyển chính thức.
7.2.2 . Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển
- Cùng với việc thành lập đội tuyển, tôi lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và
dự kiến người dạy hỗ trợ với mình để trình tổ trưởng chuyên môn và Ban giám
hiệu xét duyệt. Phẩm chất, uy tín, năng lực của người giáo viên có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Thầy cơ là yếu tố hàng đầu
đóng vai trò quyết định trong việc bồi dưỡng năng lực học tập, truyền sự hứng thú,
niềm say mê môn học cho các em. Để dạy được học sinh có phương pháp và khả
năng tự học thì bản thân thầy cơ cũng phải tự đào tạo, cố gắng hoàn thiện về phẩm
chất và năng lực chuyên môn, tâm huyết với công việc, yêu thương học trò, giúp
đỡ đồng nghiệp. Để đạt hiệu quả như mong muốn, người thầy phải không ngừng
rèn luyện để trở thành thầy giỏi ở góc độ tâm huyết và năng lực, ở sự am hiểu về
đối tượng học trò và kiến thức chuyên sâu, ở phương pháp truyền đạt khoa học,
sáng tạo và logic. Các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại phải được sử
dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn, phải nhằm vào việc phát huy khả năng tự học, tự
nghiên cứu của học trò, tích cực trong lĩnh hội kiến thức. Nếu coi đây chỉ là vấn đề
lí thuyết sẽ khơng thành cơng. Giáo viên phải rất cố gắng và nghiêm túc với chính
mình trong q trình bồi dưỡng học sinh giỏi, trong đó có khâu chuẩn bị, thiết kế
bài giảng.
7

download by :


- Để thực hiện được quá trình nêu trên rất cần các giáo viên tham gia dạy đội

tuyển phải có khả năng soạn, dạy chuyên đề sâu. Đội ngũ này cần có sự đồng bộ
nhất định về chun mơn khi tiến hành bồi dưỡng, tôi phân công cụ thể, rõ ràng
chuyên đề để khả năng và thế mạnh của từng giáo viên đều được phát huy.
- Trong kế hoạch, tôi dự kiến tên các chuyên đề cần ôn luyện, số tiết cho
từng chuyên đề, thời gian thực hiện, giáo viên thực hiện, thời gian kiểm tra chất
lượng…Điều này tạo sự chủ động trong công tác bồi dưỡng, không gặp phải tình
trạng dạy chồng chéo hay nhồi nhét học sinh vào giai đoạn cuối mà bỏ thời gian
chết trong giai đoạn đầu như các năm trước đó.
7.2.3. Dạy học – Bồi dưỡng
7.2.3.1. Cung cấp kiến thức cơ bản qua một số chuyên đề quan trọng gắn với
chương trình thi
- Đối với bồi dưỡng học sinh giỏi, việc dạy bồi dưỡng theo các chuyên đề là
điều cần thiết và nên làm nhiều nhất để cung cấp kiến thức cho học sinh đồng thời
giúp các em rèn luyện kĩ năng làm bài tốt hơn.
- Qua theo dõi cách ra đề của Sở trong những năm gần đây, tôi nhận thấy
cấu trúc đề thường là 02 câu, gồm hai phần là nghị luận xã hội và nghị luận văn
học, trong đó nghị luận văn học chiếm 2/3 số điểm của đề bài. Vì vậy, trong những
năm qua tôi đã biên soạn và dạy cho học sinh một số chuyên đề chính cho ba khối
lớp như sau: ( Tùy theo khối lớp được phân công giảng dạy để chọn chuyên đề bồi
dưỡng)
1. Kĩ năng làm văn nghị luận xã hội
2. Kĩ năng làm văn nghị luận văn học
3. Lí luận văn học
4. Văn học dân gian Việt Nam
5. Văn học trung đại Việt Nam
6. Thơ mới 1930-1945
7. Văn xuôi lãng mạn 1930-1945
8. Văn xuôi hiện thực 1930-1945
9. Thơ cách mạng trước 1945
8


download by :


10. Thơ ca kháng chiến chống Pháp
11. Thơ ca kháng chiến chống Mĩ
12. Văn xuôi cách mạng 1945-1975
13. Thơ văn sau 1975
14. Kịch
- Với các chuyên đề trên, trong từng tiết dạy tôi lại chia nhỏ từng vấn đề cụ
thể để học sinh dễ nắm bắt. Biết rằng phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn
học vơ cùng phong phú, khó có thể nói hết được, mỗi giáo viên bồi dưỡng và
người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khn khổ
của sáng kiến này, tôi xin trao đổi một vài kinh nghiệm trong một số chuyên đề:
* Chuyên đề kĩ năng làm văn nghị luận xã hội
Khi dạy chuyên đề kĩ năng làm văn nghị luận xã hội tôi chia nhỏ làm hai
dạng đề chính là nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng
đời sống. Ngoài ra, hướng dẫn học sinh tập luyện thêm dạng đề nghị luận một vấn
đề xã hội trong tác phẩm văn học hoặc trong các câu chuyện ngụ ngôn. Với mỗi
dạng, tôi lần lượt cho học sinh ôn lại khái niệm, dàn ý chung gắn với bố cục của bài
làm, giới thiệu một số dạng đề, yêu cầu học sinh xác định yêu cầu của đề, lập dàn ý
rồi sau đó giáo viên củng cố lại. Cuối cùng giao bài tập cho học sinh về nhà làm.
Ví dụ khi dạy về kĩ năng làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống,
trước tiên tôi cho học sinh ôn lại để nắm vững khái niệm về hiện tượng đời sống.
Dạng này có cả hiện tượng tích cực và hiện tượng tiêu cực, có thể chú ý một số vấn
đề lớn như:
- Ơ nhiễm mơi trường
- An tồn giao thơng
- Bạo lực học đường, bạo lực gia đình.
- Tiêu cực trong thi cử

- Chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật
- Bệnh vơ cảm
- Tấm gương người tốt việc tốt
- Hiến máu nhân đạo
9

download by :


- Tiếp sức mùa thi
….
Sau đó tơi nhắc lại dàn ý chung của kiểu bài này, cụ thể gồm các bước
+ Mơ tả thực trạng (có thể giải thích nếu cần)
+ Bàn luận về nguyên nhân, hậu quả, giải pháp (Phân tích, ca ngợi những
mặt đúng, phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch)
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động.
- Giới thiệu một số dạng đề thường gặp cho học sinh tập viết, ôn luyện.
Đề 1
Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng sau:
“Mới đây, dư luận lại xôn xao về một cơ thiếu nữ có “khn mặt ưa nhìn”
đã phô ra trên Facebook cả một loạt ảnh ngồi ghếch chân trên bia mộ liệt sĩ...”
(Theo Nỗi sợ hãi không muốn “học làm người” - Mục Góc nhìn của nhà thơ
Trần Đăng Khoa - Tuổi trẻ và đời sống, số 152 ngày 14/1/2013).
* Phân tích đề
- Yêu cầu về nội dung: Bàn về hiện tượng một thiếu nữ...cho cả thế giới
“chiêm ngưỡng”. Đây là hiện tượng thể hiện hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi
ngược lại truyền thống đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Đời sống xã hội.
* Lập dàn ý

a. Mở bài
Giới thiệu hiện tượng cần bàn luận.
b. Thân bài
- Giải thích hiện tượng
Hiện tượng cơ gái xinh đẹp ngồi ghếch chân lên bia mộ liệt sĩ thể hiện hành
vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại truyền thống đạo lí “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc ta.
- Bàn luận hiện tượng
10

download by :


+ Thực trạng: Hiện nay tình trạng một bộ phận thanh, thiếu niên có suy nghĩ
và hành động lệch lạc, có hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại truyền
thống đạo lí… khơng ít (dẫn chứng cụ thể từ đời sống, lấy thông tin trên các
phương tiện truyền thông).
- Nguyên nhân:
+ Khách quan: thiếu vắng mối quan tâm, sự giáo dục của gia đình và nhà
trường. Những ảnh hưởng của phim ảnh, intrernet, sự tràn lan của lối sống cá nhân
thích làm nổi, thích gây sốc để nhiều người biết đến…
+ Chủ quan: Nhiều thanh thiếu niên tuy được sinh ra và lớn lên ở môi trường
giáo dục tốt nhưng lại có suy nghĩ và hành động lệch lạc, bởi họ khơng có ý thức hồn
thiện mình cũng như tự bồi đắp tâm hồn mình bằng những cách cư xử có văn hóa.
- Hậu quả của hiện tượng:
+ Gây xơn xao, bất bình trong dư luận, làm tổn thương, xúc phạm đến những
giá trị đạo đức, đi ngược lại truyền thống đạo lí tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”...,
tác động không tốt đến giới trẻ.
+ Bản thân người trong cuộc phải gánh chịu những lên án, bất bình của dư
luận xã hội...

- Giải pháp khắc phục:
+ Nâng cao nhận thức ở giới trẻ: nhà trường và đoàn thanh niên cần thường
xuyên tổ chức các diễn đàn để tuyên truyền, giáo dục thanh niên về lối sống đẹp và
giữ gìn truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”.
+ Những hình ảnh phản cảm trên cần được dư luận phê phán quyết liệt, gia
đình và nhà trường phải nghiêm khắc, nhắc nhở.
- Rút ra bài học nhận thức và hành động.
c. Kết bài
Bày tỏ ý kiến riêng về hiện tượng xã hội vừa nghị luận.
- Thấy rõ sự cần thiết phải tích cực trau dồi nhân cách, bồi đắp những giá trị
đạo đức, văn hóa, đặc biệt là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
- Kiên quyết lên án và ngăn chặn những biểu hiện của lối sống vơ cảm, thiếu
văn hóa để xã hội lành mạnh, tiến bộ hơn.
11

download by :


Đề 2
Trong bài nghị luận về vấn đề “Học phương pháp học”, một học sinh lớp 12
đã viết: “Em sẽ cố gắng thay đổi cách học bài, dù có pùn ngủ mún chit cũng phải
giải quyết hết bài tập...”. Một học sinh khác gửi email cho cô giáo: “Cô ơi, dạo
này em có nhìu chiện rắc rối xảy ra wa’ nên giờ em hết tự tin giải quyết như hồi
trước rồi! đời hs có thật là lắm vui buồn ko cơ? hồi trước cơ có giống tụi em bi h
ko? em thấy xh càng phát triển thì sự hỉu bik của con người cũng tăng lên. Tuổi
còn nhỏ nhưng đã hỉu q nhìu điều vượt ngồi lứa tuổi. h thì các bạn em và ngay
cả em cũng đang gặp rắc rối với chính suy nghĩ của mình...”.
Từ ví dụ trên ,anh/ chị có suy nghĩ gì về cách sử dụng tiếng lóng hay cịn gọi
là “ngơn ngữ chát”, “ngơn ngữ mạng” của giới trẻ hiện nay?
* Phân tích đề

- Yêu cầu về nội dung: Bàn về thói quen sử dụng tiếng lóng trên mạng, cịn
gọi là “ngơn ngữ chat”, “ngơn ngữ SMS”, “ngôn ngữ @”,…
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
- u cầu về phạm vi tư liệu: Đời sống xã hội.
* Lập dàn ý
a. Mở bài
Giới thiệu hiện tượng cần bàn luận.
b. Thân bài
- Giải thích hiện tượng
+ Tiếng lóng trên mạng, ngôn ngữ chat, ngôn ngữ SMS, ngôn ngữ @.... là
tên gọi chung của hình thức chữ viết khơng theo chuẩn tiếng Việt mà giới trẻ đang
sử dụng trên mạng thơng qua máy vi tính hoặc điện thoại di động.
+ Đây là hình thức ngơn ngữ được giới trẻ sáng tạo ra một cách tùy tiện.
- Phân tích, chứng minh hiện tượng:
+ Thực trạng :
 Lúc đầu xuất hiện trên mạng trên điện thoại, chat trên máy tính, nay lan dần
sang các lĩnh vực khác như nói, viết các loại văn bản khác nhau trong sinh
hoạt và học tập.
12

download by :


 Lớp trẻ mắc phải nhiều nhất. Nguy hiểm hơn, căn bệnh này là căn bệnh mới
trong học đường và lây lan rất mạnh. Nhiều thầy cô, nhiều phụ huynh, nhiều
Sở giáo dục đã lên tiếng về việc này trên các phương tiện thông tin..
 Hiện tượng này lan dần theo thời gian. Đến nay, trở thành một thói quen
trong một bộ phận không nhỏ của lớp trẻ hiện nay.
- Nguyên nhân của hiện tượng trên
+ Do tiết kiệm thời gian khi “chat” mạng

+ Do tuổi trẻ nhạy bén với cái mới và muốn có một thế giới riêng, hoặc
muốn tự khẳng định mình hoặc nũng nịu với bạn bè và người thân cho vui.
+ Do tuổi trẻ vô tư, vơ tình khơng thấy hết tác hại của hiện tượng trên…
+ Do giới trẻ không được nhắc nhở kịp thời.
- Hậu quả của hiện tượng trên:
+ Tạo nên một thói quen nói và viết chệch chuẩn, làm mất đi sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, hủy hoại giá trị truyền thống.
+ Ảnh hưởng đến tư duy, ảnh hưởng đến tâm lí của lớp trẻ. Đó là thói xấu
nói năng, tư duy một cách tùy tiện, cẩu thả…
- Cách khắc phục hiện tượng trên
+ Giải thích thuyết phục lớp trẻ thấy được rằng sự vơ tình của mình có thể
gây nên một tác hại khó lường.
+ Giáo dục giới trẻ biết chọn lọc hiện tượng này và sử dụng đúng lúc đúng
chỗ không được sử dụng tràn lan trong sinh hoạt và học tập.
- Rút ra bài học nhận thức và hành động.
c. Kết bài
- Khơng đồng tình với những hành vi trên.
- Cẩn thận trọng khi tiếp xúc với những hiện tượng mới phát sinh trong cuộc
sống hiện đại. Nhất là khi những hiện tượng này mâu thuẫn với những giá trị
truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời.
- Vì vậy, yêu cầu phải có cách ứng xử phù hợp với tính chất của từng hiện
tượng để tiếp thu những cái mới mẻ, nhưng cũng không hủy hoại những giá trị
truyền thống.
13

download by :


- Ở dạng đề nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học:
Đây là dạng đề rất mới. Dạng đề này vừa rèn luyện đồng thời năng lực đọc

hiểu văn bản văn học vừa rèn luyện năng lực làm văn nghị luận xã hội. Đặc điểm
của dạng đề này là dựa vào những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc nào đó đặt ra
trong tác phẩm văn học rồi phát biểu, bàn luận về ý nghĩa của vấn đề đó. Vấn đề có
ý nghĩa xã hội có thể lấy ở hai nguồn, đó là trong tác phẩm văn học đã được học
trong chương trình hoặc từ một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà
chúng ta chưa được học. Nhiều học sinh đã nhầm dạng đề này là đề nghị luận văn
học vì đề thực tế có liên quan đến tác phẩm văn học, xuất phát từ tác phẩm văn
học. Tuy nhiên tác phẩm văn học trong dạng đề này chỉ là cái cớ, khởi đầu cịn
mục đích chính ở đây là yêu cầu người viết bàn bạc, nghị luận về một vấn đề tư
tưởng đạo lí nhân sinh, nghĩa là nhân vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học mà bàn
luận, kiến giải. Trong trường hợp này tác phẩm văn học chỉ được khai thác về giá
trị nội dung, tư tưởng để rồi rút ra ý nghĩa xã hội có tính khái qt của tác
phẩm.Tác phẩm nào cũng có ý nghĩa xã hội nhất định, điều quan trọng là vấn đề xã
hội đó phải có tính thời sự, tính giáo dục sâu sắc, phải phù hợp với tâm lí tuổi trẻ
học đường. Khi hướng dẫn học sinh làm kiểu bài này, tôi lưu ý học sinh chú ý kĩ
các bước làm bài trong phần thân bài để tránh sự nhầm lẫn
+ Phần một: Phân tích văn bản văn học (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu
chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện)
+ Phần hai (trọng tâm): Phát biểu những suy nghĩa của bản thân về vấn đề xã
hội có ý nghĩa trong tác phẩm đó.
Lưu ý: Khi từ “phần phụ” chuyển sang “phần trọng tâm” cần phải có những câu văn
“chuyển ý” thật ấn tượng và phù hợp để bài làm được logic, mạch lạc, chặt chẽ.
MỘT SỐ ĐỀ MINH HỌA
Đề 1
Những vết đinh
Một cậu bé rất thơng minh nhưng ngặt một nỗi cậu rất nóng tính và hay cáu
gắt với mọi người. Một hơm cha cậu gọi cậu đến và đưa cho cậu một gói đinh và
bảo rằng: “Mỗi khi con sắp nổi nóng lên hay sắp cáu gắt với mọi người thì con hãy
14


download by :


lấy một cây đinh mà đóng lên bức tường rào gỗ kia”. Nghe lời bố, cậu bé mỗi khi
sắp cãi nhau với một ai đó thì cậu lấy một chiếc đinh đóng vào hàng rào. Ngày đầu
tiên, cậu bé đã đóng tất cả 27 chiếc đinh. Nhưng vài tuần sau cậu bé đã tập kiềm
chế cơn giận của mình và số lượng đinh mà cậu đóng lên hàng rào ngày càng ít đi.
Cậu đã nhận ra rằng kiềm chế cơn giận của mình cịn dễ hơn là phải đóng những
chiếc đinh lên hàng rào. Rồi đến một hôm, cậu cũng đã không nổi giận một lần nào
trong suốt một ngày. Cậu bé vui mừng đến thưa với bố, người bố chỉ mỉm cười và
nói: “Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một
lần, con hãy nhổ một cây đinh ra khỏi hàng rào”. Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng
đến một hơm cậu bé hãnh diện tìm cha mình và báo rằng khơng cịn một cây đinh
nào trên hàng rào nữa. Khi đó, ơng nhỏ nhẹ nói với cậu: “Con đã làm rất tốt, nhưng
con hãy nhìn những lỗ đinh cịn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã khơng cịn như
xưa nữa. Nếu con làm điều gì trong giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như
những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành trong lịng người khác.
Cho dù sau đó con có xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó cũng mãi cịn.
Con hãy ln nhớ: vết thương tinh thần cịn đau đớn hơn vết thương thể xác.
Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và
giúp con mọi chuyện. Họ nghe con than thở khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và
ln sẵn sàng mở trái tim mình ra cho con. Hãy nhớ lấy lời cha”.
Suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của câu chuyện trên.
* Phân tích đề
- Yêu cầu về nội dung: Qua câu chuyện Những vết đinh, rút ra bài học có ý
nghĩa: Hãy ln biết kiềm chế bản thân bởi hành động hay lời nói trong lúc nóng
giận rất dễ sẽ làm tổn thương người khác.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
- Yêu cầu về phạm vi tư liệu: Đời sống xã hội.
* Lập dàn ý

a. Mở bài
Giới thiệu hiện tượng cần bàn luận.
b. Thân bài
15

download by :


- Phần một: Phân tích ngắn gọn nội dung câu chuyện để rút ra ý nghĩa của
vấn đề:
+ Khi nổi nóng cậu bé đóng một cây đinh lên hàng rào => Cậu bé đã biết tự
kiềm chế những nhược điểm của mình.
+ Khi khơng cịn nóng giận nữa, tự nhổ những chiếc đinh ra khỏi hàng rào
nghĩa là cậu bé sửa chữa được những khuyết điểm của bản thân.
+ Tuy nhiên những lỗ đinh thì mãi vẫn cịn in dấu trên hàng dào khơng bao
giờ xố được, chính là những vết thương tinh thần khó lành trong lịng người khác
do lỗi nóng giận của ta gây lên.
=> Bài học rút ra từ câu chuyện: Hãy luôn biết kiềm chế bản thân bởi hành
động hay lời nói trong lúc nóng giận rất dễ sẽ làm tổn thương người khác.
- Phần hai: Phát biểu những suy nghĩa của bản thân về vấn đề xã hội có ý
nghĩa trong tác phẩm đó.
Câu chuyện tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vơ cùng sâu sắc, bởi:
+ Trong cuộc sống hàng ngày, trong những lúc giận dữ, ta thường khơng
kiểm sốt được bản thân do đó dẫn đến có những hành động và lời nói thái quá xúc
phạm đến thể và tinh thần người khác.
+ Vết thương tinh thần nhiều khi còn đau hơn vết thương về thể xác. Những
người xung ta, bạn bè ta là những gì vơ cùng q giá đừng làm tổn thương họ vì sự
thiếu kiềm chế của bản thân mình. Trong ứng xử giao tiếp với mọi người khi mắc
khuyết điểm hãy biết nhận lỗi và cần phải biết sửa lỗi.
+ Không phải vì thế mà ln phạm phải sai lầm mà phải biết kiềm chế bản thân

để tránh làm tổn thương người khác. Bởi một khi đã làm tổn thương tinh thần người
khác khó có thể hàn gắn được mối quan hệ cũng như bát nước hắt đi khó có thể lấy lại
cho đầy. Cho nên ông cha ta cũng đã khuyên “Một sự nhịn là chín sự lành”.
+ Tuy nhiên kiềm chế bản thân cũng không phải dễ dàng cho nên phải kiên
trì rèn luyện. Trong quan hệ ứng xử với mọi người, mọi lúc, mọi nơi, từ việc lớn
đến việc nhỏ phải luôn biết vượt lên khỏi cái tôi cá nhân, lắng nghe và tơn trọng
người khác. Đây chính là biểu hiện của một lối sống văn minh, lối sống mang ý
nghĩa nhân văn tốt đẹp.
16

download by :


c. Kết bài
Rút ra bài học và liên hệ với bản thân.
Đề 2
Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, tác giả Lưu Quang Vũ đã để
nhân vật Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình là: “Khơng thể bên ngoài một
đằng, bên trong một nẻo được”.
* Phân tích đề
- Yêu cầu về nội dung: Qua vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, rút ra bài
học con người cần phải có sự hài hịa về hình thức bên ngồi và tâm hồn bên trong.
Khơng thể bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo được.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
- Yêu cầu về phạm vi tư liệu: Đời sống xã hội.
* Lập dàn ý
a. Mở bài
- Cuộc sống thật phong phú, đa dạng, phức tạp, chúng ta luôn tự hỏi: Sống
thế nào cho đúng? Làm thế nào để có một cuộc sống đẹp? Hãy sống là chính mình,
trung thực, chân thật, thẳng thắn, không giả dối và giàu lòng nhân ái.

- Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang đã để nhân vật
Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình: “Khơng thể bên ngồi một đằng, bên
trong một nẻo được”.
b. Thân bài
* Giải thích ý nghĩa câu nói:
- Bên trong: Là thế giới nội tâm của con người (gồm nhận thức, tư tưởng,
khát vọng). Đây là phần làm nên ý thức, chất người cao quý trong con người. Nếu
thế giới bên trong đạt được sự tồn vẹn, hồn thiện, con người sẽ có được những
phẩm chất tốt đẹp, quý giá, sống một đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc. Đây là
phần mà người ta khơng nhìn thấy được mà chỉ có thể cảm nhận qua tiếp xúc, tìm
hiểu và gắn bó.
- Bên ngồi: là cái có thể quan sát, nhận biết bằng thị giác (gồm hình thức,
hành vi, lời nói, việc làm).
17

download by :


- Quan hệ giữa bên ngoài và bên trong: Thường là quan hệ thống nhất – cái
bên ngoài là biểu hiện cụ thể của cái bên trong và ngược lại, cái bên ngoài cũng
được cái bên trong quy định, chi phối.
- Bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo: Khơng có sự hài hịa, thống nhất của
bên ngồi và bên trong, tức là lời nói, việc làm khơng thống nhất với suy nghĩ, tình
cảm, nhận thức. Sự khơng thống nhất này khiến con người rơi vào tình trạng sống giả
tạo, trở nên lệch lạc, mất thăng bằng. Dù ở trường hợp nào cũng đều là bi kịch.
- Ý nghĩa câu nói của Trương Ba: Thể hiện một quan niệm sống đúng đắn:
Cần phấn đấu để đạt sự hài hòa, cân bằng giữa nhận thức, hành vi, giữa cái bên
trong với cái bên ngồi. Mỗi người hãy sống là mình, ln làm chủ bản thân cả về
thể xác lẫn tinh thần. Đó là cách sống để con người đạt được sự thanh thản.
* Phân tích, chứng minh ý nghĩa câu nói:

- Thực tế cuộc sống của Trương Ba:
+ Bên trong: Gắn liền với phần hồn Trương Ba - một người làm vườn chăm
chỉ, cần cù, tinh tế đã nâng niu chăm sóc vườn cây, một con người mẫu mực, sống
đạo đức và giàu tình nghĩa với vợ con, với cháu nội, với láng giềng xung quanh. Đó
là những phẩm chất quý giá khiến Trương Ba được mọi người nể trọng, quý mến.
+ Bên ngoài: Gắn liền với xác hàng thịt - một con người thô bạo, tham lam,
coi trọng sự hưởng thụ vật chất.
+ Vì một sự nhầm lẫn nên cả hai con người này đã bị đẩy vào một tình
huống éo le: hồn Trương Ba phải sống nhờ trong xác anh hàng thịt. Vấn đề là ở
chỗ: hồn Trương Ba vẫn có những nhu cầu về tinh thần song lại không thể điều
khiển xác anh hàng thịt - tuy chỉ là xác thịt âm u đui mù song vẫn có tiếng nói
riêng, vẫn địi hỏi được thỏa mãn nhu cầu về vật chất. Cả nhu cầu về vật chất và
nhu cầu về tinh thần đều tự nhiên, chính đáng song trong trường hợp này lại trở
nên mâu thuẫn, không thể tồn tại.
+ Kết quả: Trong sự xung đột, nhu cầu thể xác lại có phần thắng thế và cái
thể xác phàm tục kia lại có thể lên tiếng nhạo báng nhu cầu cao quý của linh hồn.
Đây là một điều phi lí và đau lịng bởi phần xác đã xúc phạm, đã làm tổn thương
đến phần hồn.
18

download by :


- Trong cuộc sống con người hiện nay:
+ Ở một số người có sự hịa hợp giữa bên trong và bên ngồi. Đó là khi cái
bên trong - đời sống tinh thần - thật sự mạnh mẽ để tạo thành một bản lĩnh sống,
bản lĩnh văn hóa để có thể chi phối, điều khiển lời nói, việc làm để cái bên ngoài
thật sự là sự biểu hiện của cái bên trong. Khi ấy, con người được sống là mình, con
người khẳng định được cái tôi của bản thân, đồng thời cũng tạo cho mình một khả
năng để chinh phục, thu hút người khác, tức là không chỉ sống tốt mà cịn được

mọi người u mến.
+ Có một bộ phận khơng nhỏ những người khơng tạo được sự hài hịa giữa
bên ngồi và bên trong:
 Bên trong tốt đẹp, có nhân tính, có lương tâm, có khả năng nhận thức, hiểu
biết nhưng khơng thắng được hồn cảnh, bị hồn cảnh xơ đẩy đến chỗ có
những hành vi trái với lương tâm, trái với chuẩn mực đạo đức. Đó là trường
hợp con người phải sống kệch lạc, mất thăng bằng.
 Bên trong kém cỏi, tầm thường song ở vào vị trí buộc mình phải tỏ ra có đạo
đức, có hiểu biết, có tình cảm cao thượng. Đó là trường hợp con người phải
sống giả tạo.
* Đánh giá, bàn bạc:
- Mỗi người cần trang bị cho mình nhận thức, hiểu biết để có thể phân biệt
đúng - sai, rèn luyện bản lĩnh để có thể tự kiểm sốt mọi hành vi, để khơng chạy
theo dục vọng tầm thường, không sa đà vào lối sống bng tuồng, dung tục. Bên
cạnh đó, cần quan tâm đến bản thân mình, quan tâm đến những nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng dù là bình thường nhất để được sống một cách thoải mái, tự nhiên.
- Phương châm sống đúng đắn: Cố gắng tìm sự hài hịa giữa nhu cầu về tinh
thần và nhu cầu về vật chất để tạo nên một cuộc sống cân bằng và nghiêm túc với
bản thân mình, tạo cho mình quyền được hạnh phúc.
c. Kết bài
Cuộc sống đầy những khó khăn, phức tạp, đầy những cám dỗ, có khi người
ta mắc phải những sai lầm, vấp ngã. Hãy dũng cảm đối diện với sự thật để vươn
lên. Hãy trung thực, thẳng thắn với bản thân, khơng “nói một đằng làm một nẻo”,
19

download by :


giả dối với mọi người và chính mình. Hãy ln cảnh giác với “kẻ thù của chính
mình”, vượt qua nó để chiến thắng hồn cảnh, sống là mình.

* Chun đề lí luận văn học
Khi dạy chuyên đề lí luận văn học, tơi đặc biệt quan tâm bởi vì đối với bài
văn của học sinh giỏi nếu kiến thức lí luận được vận dụng tốt kết hợp với khả năng
đọc – hiểu, cảm thụ thì bài viết sẽ trở nên chắc chắn, sâu sắc và thuyết phục. Song
trong thực tế, bài làm của học sinh thường bỏ ngỏ phần lí luận văn học do thiếu hụt
hoặc được cung cấp tri thức lí luận văn học rất sơ sài trong số giờ qui định hạn chế
của cấp học nên việc thực hành gặp rất nhiều khó khăn. Vậy khi bồi dưỡng cho học
sinh tri thức này cần làm rõ các đơn vị tri thức nào? Mức độ bồi dưỡng ra sao? Đây
là việc làm khơng dễ. Trong q trình dạy, tơi thường bồi dưỡng cho học sinh
những kiến thức lí luận sau:
- Kiến thức tác phẩm văn học: Ở phần này cần đi sâu và làm rõ
+ Qui luật hình thành của tác phẩm văn học và đặc trưng của văn học.
+ Đặc trưng của ngôn ngữ tác phẩm văn chương (Làm rõ các lớp nghĩa như:
Đề tài, chủ đề, cảm hứng, thế giới quan, nhân sinh quan, sắc điệu thẩm mĩ của tác
phẩm).
- Kiến thức thể loại tác phẩm: Cần làm rõ hai đơn vị kiến thức cơ bản
+ Cơ sở để phân loại thể loại tác phẩm văn học.
+ Đặc trưng của từng thể loại (Đây là kiến thức trọng tâm).
Từ những kiến thức trên giúp học sinh cảm thụ đúng nhất tác phẩm văn học.
- Nhà văn và quá trình sáng tạo: Ở đơn vị kiến thức này cần bồi dưỡng cho
học sinh:
+ Vai trò của nhà văn với cuộc sống.
+ Những phẩm chất cần có của nhà văn (Năng khiếu, vốn văn hóa, vốn sống,
đặc biệt phải có tư tưởng độc đáo).
+ Quá trình sáng tạo (Từ cảm hứng đến ý đồ sáng tạo, sử dụng vốn hiểu biết
để sáng tạo tác phẩm)
20

download by :



Đây là những tri thức tạo cơ sở cho việc khám phá hiện tượng văn học, sáng
tác văn học của mỗi tác giả đúng hướng nhất.
- Các giá trị văn học và tiếp nhận văn học:
+ Các giá trị văn học: Giá trị về nhận thức, giá trị về tư tưởng, tình cảm, giá
trị về thẩm mĩ.
+Tiếp nhận văn học: Chú ý đến đồng sáng tạo của người đọc với tác phẩm,
tác giả.
Ở phần này cần bồi dưỡng cho học sinh cách nhìn nhận khái quát đối với
mỗi tác phẩm văn học đồng thời giúp học sinh tự tin và sáng tạo khi tiếp xúc, thực
hành về tác phẩm văn học.
- Ngồi ra, tơi cịn cung cấp cho học sinh một số vấn đề, khái niệm thường
gặp và liên quan đến các tác phẩm học trong chương trình như: Phong cách nghệ
thuật, không gian và thời gian nghệ thuật, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, chất thơ
trong văn xi, tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng…
Bồi dưỡng những kiến thức lí thuyết về lí luận văn học, chúng ta đã cung
cấp cho học sinh một lối tư duy khoa học. Song việc vận dụng nó như thế nào là
việc làm có tính chất quyết định. Bồi dưỡng kĩ năng vận dụng thực hành kiến thức
lí lận văn học vào viết bài cũng tuân thủ theo nguyên tắc chung khi làm bài nghị
luận. Kĩ năng này bao gồm: Kĩ năng nhận thức đề, kĩ năng xác định các luận điểm,
kĩ năng triển khai ý, kĩ năng hành văn (trong đó Kĩ năng nhận thức đề, kĩ năng xác
định các luận điểm là cơ bản nhất):
 Bồi dưỡng kĩ năng lí luận vào việc nhận thức đề
+ Đề văn, đặc biệt là đề lí luận văn học thường được diễn đạt khúc chiết,
bóng bẩy. Vì thế địi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy trừu tượng khái quát và
tư duy phân tích ở một trình độ nhất định thì mới có thể nhận thức đúng, đủ yêu
cầu của đề.
+ Nếu nhận thức đề không đủ sức khái quát, bài viết sẽ rơi vào tự hạn hẹp
vấn đề; nếu đi quá xa sẽ làm cho bài viết rơi vào chung chung, dông dài, xa đề
thiếu tập trung.

21

download by :


+ Khi nhận thức đề, ngoài việc xác định kiểu nghị luận, phạm vi kiến thức,
tôi thường lưu ý học sinh phải xác định rõ vấn đề cần bàn luận. Thậm chí, khi đã
xác định được vấn đề cơ bản vẫn có thể bỏ quan hệ giữa các ý.
Ví dụ khi nhận thức đề sau:
Đề 1: Nhà văn Nga M.Gorki, trong một bức thư gửi cho nhà đạo diễn Xtanixlapxki
năm 1912 có viết:
“Nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng riêng - chủ quan - của
mình, tìm thấy trong ấn tượng đó cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn
tượng ấy có được hình thức riêng”.
Hãy phân tích một số bài thơ để làm sáng tỏ chất nghệ sĩ độc đáo theo quan
niệm của M.Gorki.
Để nhận thức đúng, đủ đề văn này, học sinh cần nắm được các kiến thức nhà
văn và quá trình sáng tạo, nắm vững một số bài thơ của các tác giả lớn, có phong
cách nổi bật trong nước và nước ngoài. Từ hiểu biết cơ bản như vậy. các em sẽ
nhận thức đúng yêu cầu của đề văn, tạo cơ sở hình thành bài viết.


Bồi dưỡng kiến thức lí luận để xác định các luận điểm, mối quan hệ giữa
các luận điểm:

Các luận điểm được xác lập nhờ vào chỉ dẫn hoặc khái quát, hoặc cụ thể từ
đề văn đã cho. Đối với đề có chỉ dẫn tương đối cụ thể thì ứng với mỗi mệnh đề, tơi
hướng dẫn học sinh xác lập một luận điểm, sau đó chỉ ra mối quan hệ giữa
chúng( nếu có). Đối với đề được diễn đạt súc tích, bóng bẩy thì phải dùng tri thức
lí luận và các đơn vị tri thức khác cùng với tư duy trừu tượng để xác định các luận

điểm. Cũng có thể luận điểm được gợi ý từ kiểu bài nghị luận. Chẳng hạn với đề
sau:
Đề 2: Người ta thường nói “Người đọc là người đồng sáng tạo với tác giả”.
Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
- Đây là đề văn được thể hiện bằng một ẩn dụ về tính sáng tạo trong tiếp
nhận của người đọc, người tiếp nhận văn học. Lí luận về tiếp nhận văn học đề cao
tính sáng tạo trong tiếp nhận của người đọc. Sự sáng tạo đó làm tác phẩm được
cảm nhận đúng hơn, sâu sắc hơn, sống động hơn. Trong trường hợp này, việc xác
22

download by :


định luận điểm cho bài viết được gợi ý từ kiểu nghị luận (Kiểu bài bình luận, dạng
phát biểu ý kiến). Luận điểm cần được xác lập gồm: Luận điểm thể hiện cách hiểu
(Giải thích) và các luận điểm nêu suy nghĩ, ý kiến.
- Để cụ thể hóa các luận điểm, có thể xác lập như sau:
Luận điểm 1: Tiếp nhận văn học là gì? Vai trị của người đọc trong quá trình
tiếp nhận văn học.
Luận điểm 2: Tại sao người đọc lại được coi là người đồng sáng tạo với tác
giả?
Luận điểm 3: Người đọc phải làm gì để trở thành người đòng sáng tạo với
tác giả?
Từ các luận điểm cụ thể, sử dụng kiến thức lí luận văn học để triển khai ý
một cách phù hợp.
Khi học sinh đã có những tri thức và kĩ năng cần thiết, tối thiểu về lí luận
văn học, tơi thường để học sinh tiếp xúc và giải quyết một số đề văn cụ thể.


Đặc biệt, cần cho HS nắm vững các kiến thức lí luận về thể loại thơ trên

các phương diện:

*Đặc trưng của thơ và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
+ Quan niệm và phân loại
Thơ là gì? Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau
về thơ, nhưng rất hiếm định nghĩa đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của
thể loại này. Quan niệm dưới đây của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngơn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb ĐHQG, H, 1999).
- Các thể thơ Việt Nam có thể phân loại thành 3 nhóm chính:
+ Các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, hát nói.
+ Các thể thơ Đường luật: ngũ ngơn, thất ngôn (tứ tuyệt, bát cú).
+ Các thể thơ hiện đại: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp. tự do, thơ văn xuôi...
23

download by :


+ Đặc trưng của thơ
- Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ
tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, yếu tố trữ tình giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm. Thơ là tiếng nói
của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ chú
trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Lê
Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố
Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã ứ đầy”. Nhà thơ Pháp
Alfret de Mussé chia sẻ: "Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc
bàn tay đang viết", "nhà thơ khơng viết một chữ nào nếu cả tồn thân khơng rung

động". Nhưng tình cảm trong thơ khơng tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn
M. Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm
trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn
độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là q trình tích tụ những cảm
xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Khơng có cuộc
sống, khơng có thơ”.
- Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người
trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ
tình là cái tơi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà
thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
- Những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tại và
mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối
dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Thơ thường
không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy
sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể
hiện của niềm rung động ấy.
- Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự,
kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thơng
qua hình tượng thơ. Cảm xúc dồn nén, nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ
chật hẹp của ngơn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngơn ngoại”. Do đó, thơ tạo
24

download by :


điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống,
khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả
cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
- Mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng thơ,
câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự

hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên
tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của
văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ
hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được
thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu
tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều
khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải
chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý
thơ bên trong.
- Ngơn ngữ thơ có 3 đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tinh luyện,
tính hình tượng và tính biểu cảm. Thơ phát huy tính nhạc phong phú của tiếng
Việt. Thơ là thơ nhưng thơ cịn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của
âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Nhà thơ phải có phong cách
nghệ thuật độc đáo. Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ tồn
dân, ngơn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Nhà thơ còn được
gọi là "phu chữ".
Từ những đặc trưng của thơ, thi sĩ Sóng Hồng có viết: “Thơ là một hình thái
nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện
sự nồng cháy trong lịng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách
nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những
hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác
thường".
+ Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:
25

download by :



×