Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Thực chất và ý nghĩa triết lý Trung Dung của Nho giáo sơ kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.9 KB, 20 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, trải qua biết bao thăng trầm
của lịch sử, lúc thịnh lúc suy, lúc bị bài xích lúc được trọng dụng, Nho
giáo thực sự đã trở thành một trong những triết thuyết có sức sống lâu
bền trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Sự hồi sinh của Nho giáo ngày
hôm nay là một minh chứng rõ ràng nhất. Dĩ nhiên đó khơng phải là
tồn bộ Nho giáo mà là sức sống của những triết lý có ý nghĩa thực sự.
Dù thời đại có đổi thay nhưng những chân giá trị thì vẫn trường tồn. Vì
lẽ đó mà có những điều Đức Khổng – Mạnh nói cách đây hơn 2500
năm, hôm nay chúng ta càng suy ngẫm và thực hành bao nhiêu càng
bội phục cổ nhân bấy nhiêu.
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm cùng với sự xâm lăng của chế độ
Phong kiến Trung Hoa, Nho giáo đã có một lịch sử ảnh hưởng sâu nặng
trong truyền thống tư tưởng, văn hóa của người Việt. Với lối tư duy có
chọn lọc, người Việt từ xưa đã biết tiếp nhận những giá trị tích cực của
nho giáo, thấm chí là biến chuyển và phát triển những tư tưởng ấy cho
phù hợp với mình. Vì lẽ đó, Nho việt đã có những điểm khác so với Nho
giáo Trung hoa. Tất nhiên phần lớn là tương đồng. Chính sự ảnh hưởng
đó đặt ra những vấn đề trong nghiên cứu tư tưởng dân tộc. Nhận thức
đúng về những giá trị của Nho giáo là vấn đề thiết yếu.
Nho giáo sơ kỳ được các nhà nghiên cứu xác định Nho giáo thời
tiền Tần, đây là thời kỳ Nho giáo gắn liền với tên tuổi của Khổng Tử và
các môn đệ của ông, Mạnh Tử và Tuân Tử, đây là thời kỳ mà Nho giáo
cũng phải tranh minh với các học phái khác để khẳng định mình. Chính
trong hồn cảnh như thế, những vấn đề của cơ bản của Nho giáo đã
được các nhà tư tưởng thời kỳ này bàn đến một cách sâu sắc. Phải đến


2


thời nhà Hán, với Đổng Trọng Thư Nho giáo mới bước lên địa vị tư tưởng
thống trị, gắn liền với tư cách là hệ tư tưởng của chế độ Phong Kiến. Q
trình phát triển của Nho giáo cịn phải kể đến giai đoạn Tống Nho và Thời
kỳ Minh Thanh. Mỗi thời kỳ có những nét riêng, do sự cải biến phát triển
của các tư tưởng gia cho phù hợp với thời thế mà Nho giáo sau này có
những điểm đã đi xa so với cái gốc ban đầu. Vì vậy,nghiên cứu tư tưởng
Nho giáo đầy đủ nhất, chân thực nhất thì phải tìm đến Nho giáo sơ kỳ
như một lẽ tất yếu.
Trung Dung là tên một trong “Tứ thư”, tác phẩm kinh điển của Nho
giáo, Trung dung còn là một triết lý cao, sâu của Nho giáo, nó khơng
dùng lại ở mức độ một lý luận mà còn là vấn đề ứng dụng thực tiễn. Đó
cũng chính là sức sống của những giá trị của Nho giáo. Trung dung
mang chở trong nó những vấn đề cơ bản của Nho giáo, từ đạo đức
nhân quần đến chính trị triết lý, từ nhân đạo đến thánh đạo và thiên
đạo. Vì vậy, Nghiên cứu Nho giáo không thể không bàn đến triết lý
Trung dung.
Khó có thể kể hết những cơng trình nghiên cứu về Nho giáo, ảnh
hưởng của Nho giáo hiện nay. Vấn đề Trung dung cũng đã được nhiều
tác giả bàn đến trong các cơng trình của mình với tư cách là một vấn đề
của Nho giáo. Hiếm có một cơng trình phân tích một cách hệ thống học
thuyết này và ý nghĩa của nó.
Với tất cả những lý do trên tơi quyết định chọn vấn đề: “Thực chất
và ý nghĩa triết lý Trung Dung của Nho giáo sơ kỳ” làm đề tài cho Luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu Nho giáo không phải là một vấn đề mới, ở Việt Nam
cũng như nước ngoài đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị về
Nho giáo. Là nội dung quan trọng của triết thuyết này, vấn đề Trung



3
dung cũng được các tác giả bàn đến trong các cơng trình của mình. Có
thể kể đến một số cơng trình sau:
Trong “Khổng học đăng”, Nxb Văn học, tác giả đã Phan Bội Châu
bàn đến nhiều vấn đề của Nho giáo, trong tác phẩm này tác giả cũng
trích dịch những nội dung quan trọng trong triết học Khổng giáo, đối
với Trung dung tác gã cho rằng: “bản sách này ở trong Khổng học là
một bản sách rất cao, bàn đạo lý rất thâm thúy góp cả thiên đạo và nhân
sự, đủ cả lý luận và sự thực”[3, tr.279].
Đồn Trung Cịn với tác phẩm “Tứ thơ Đại Học – Trung Dung”,
Nxb Thuận Hóa, Huế, đây là một dịch phẩm đầy đủ của tác giả về hai
tác phẩm Đại Học và Trung Dung, với cơng trình này tác giã thiên về
dịch giải hơn là phân tích về mặt nội dung triết lý.
Tác giả Trần Trọng Kim trong cơng trình “Nho giáo”, Nxb Văn hóa
- Thơng tin, trong phần trình bày về Sách Trung Dung, từ những phân
tích cơ bản về nội dung của sách, tác giả đã đi đến nhận định Trung
dung là một triết lý rất cao của Nho giáo và đó là Đạo của Khổng Tử.
Trong “Lịch sử triết học Phương Đông”, Nxb Từ điển Bách khoa, tác
giả Nguyễn Đăng Thục đã dành một chương trình bày triết lý của hai tác
phẩm Đại Học và Trung Dung. Tác giã đã tiếp cận trung dung từ gốc độ
phương pháp, xem phương pháp đại cương của trung dung nằm ở trong câu
mở đầu của sách: “thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị
giáo
Tác giả Quang Đạm trong cuốn “Nho giáo xưa và nay”, Nxb Văn
Hóa. Hà Nội, đã dành một chương bàn về vấn đề từ thuyết Đồng quy
đến thuyết Trung dung của Nho giáo, qua đó có những nhận định đánh
giá về lý tưởng của nhà Nho qua lăng kính của Chủ nghĩa Mác.
Với một cơng trình nghiên cứu đồ sộ nhất về Nho giáo từ trước tới
nay, Tác giả Nguyễn Tôn Nhan với cuốn “Nho giáo Trung Quốc”, Nxb



4
Văn hóa thơng tin, đã nghiên cứu cơng phu và các giai đoạn hình thành
và phát triển của Nho giáo, tuy nhiên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
Nho giáo Trung Quốc từ thời Hán trở về sau, thời kỳ Nho giáo được
đưa lên địa vị thống trị.
Hồ Thích với tác phẩm “Trung Quốc triết học sử”, Nxb Khai Trí
(Bản dịch của Huỳnh Minh Đức), trong Thiên X Nho gia trước Tuân
Tử, Chương 1 đã bàn đến Đại Học và Trung Dung ở ba phương diện:
Phương pháp luận, cá nhân được chú trọng, nghiên cứu tâm lý.
Mã Đạo Tông với tác phẩm “Thuật Trung dung”(Trịnh Trung Hiểu
- Ngô Văn Tuyển - Như Lễ), Nxb Thanh niên, đã nghiên cứu sự ứng
dụng Trung dung trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa như một “thuật”
trong xử thế, ngoại giao cho đến tình yêu nam nữ. Từ đó đi đến khẳng
định ý nghĩa của thuật Trung dung, như là một triết lý giá trị của Nho
giáo nói riêng và người Trung Hoa nói chung.
Tác giả Yu Dan trong tác phẩm “Khổng Tử tinh hoa”, Nxb Trẻ (Bản
dịch của Hoàng Phú Phương và Mai Sơn) đã trình bày triết lý Trung
dung trong “Luận Ngữ” như một nguyên tác của thế đạo nhằm đạt đến
một đời sống hài hịa hạnh phúc.
Những cơng trình trên là nguồn tài liệu bổ ích cho tác giã khi đi vào
nghiên cứu vấn đề triết lý Trung Dung trong triết học Nho giáo. Ngồi
ra cịn nhiều tác phẩm khác, các bài nghiên cứu được đăng tải trên báo,
tạp chí bàn về các vấn đề của Nho giáo. Tuy nhiên chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp về triết lý Trung Dung của Nho
giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài: là làm rõ thực chất và ý nghĩa của triết lý
Trung dung của Nho giáo sơ kỳ.
Nhiệm vụ của đề tài:



5
- Phân tích thực chất nội dung của triết lý Trung Dung của Nho
giáo sơ kỳ.
- Phân tích, đánh giá ý nghĩa của triết lý Trung dung của Nho giáo
sơ kỳ đối với hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn.
4. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là triết lý Trung dung của Nho
giáo sơ kỳ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài là các nguyên lý triết học duy vật biện chứng.
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là các nguyên tắc của phép
biện chứng. Để vận dụng các nguyên tắc này vào việc giải quyết các
nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp chung
như so sánh đối chiếu, phân tích và tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát
hóa.
6. Đóng góp của Luận văn
Với luận văn này, tác giả cố gắng trình bày một cách cơ bản, có
tính hệ thống về triết lý Trung dung của Nho giáo sơ kỳ, từ đó đánh giá
ý nghĩa của triết lý về mặt nhận thức và thực tiễn này.
Nếu thực hiện được mục đích này, luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy môn triết học Phương đông,
mà đặc biệt là phần triết học Nho giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
Luận văn này cũng có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho nhũng ai
quan tâm nghiên cứu và ứng dụng những giá trị của Nho giáo.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luân văn
có 2 chương (5 tiết).
NỘI DUNG

Chương 1


6
THỰC CHẤT TRIẾT LÝ
TRUNG DUNG CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ
1.1. Những tiền đề của triết lý trung dung
1.1.2.Tiền đề kinh tế xã hội.
Được xem là cái nôi của văn minh phương Đơng nói riêng và nhân
loại nói chung, Trung Hoa cổ đại đã có những bước tiến rực rỡ trên
nhều phương diện. Thời nhà Chu, quyền lực vẫn nằm trong tay những
thị tộc, tư liêu sản xuất và nô lẽ thuộc sở hữu của thị tộc, đó là xã hội
theo một trật tự lễ khơng đến thứ dân, hình khơng lên đại phu. Nhà Chu
thực hiện chế độ tỉnh điền và phân phong, có thể thấy rằng xã hội thời
kỳ đầu nhà Chu là một xã hội trật tự thứ bậc rõ ràng, hình như là mực
thước ổn định của xã hội.
Tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất như thế là việc
hình thành quan hệ sản xuất phong kiến. Việc mua bán ruộng đất trở nên
phổ biến, nhiều ruộng đất của nhà vua trở thành ruộng tư của quý tộc.
Quý tộc sử dụng sức lao động của nô lệ để khai khẩn đất hoang và biến
thành ruộng đất tư của mình. Sự xuất hiện ngày càng nhiều của ruộng tư
đã làm lung lay chế độ tỉnh điền. Quan hệ giai cấp xã hội cũng có những
biến đổi theo sự biến chuyển của kinh tế. Cơ sở kinh tế trở thành tiêu chí
phân biệt sang hèn. Như vậy, với sự xuất hiện của tư điền và lớp địa chủ
mới đã mâu thuẫn với giới quý tộc cũ đang suy yếu về mặt kinh tế. Điều
này đặt ra vấn đề cần giải quyết cho sự phát triển của nơng nghiệp đó là
mâu thuẫn giữa tư điền và cơng điền.
Công thương nghiệp cũng phát triển rực rỡ xuất hiện những nghành
nghề mới, Tầng lớp thương bn nói lên ngày cang nhiều và giàu có



7
ngang bằng với giới quý tộc, sự lớn mạnh về kinh tế đương nhiên tác
động đến nhu cầu về chính trị. Bon phú thương rất có thế lực mua quan
bán tước được và bắt đầu tham gia vào chính trị, muốn phá bỏ biên giới
giữa các nước và chư hầu, để cho sự giao thông và thương mại khỏi bị
trở ngại. Đó là yêu cầu tất yếu của sự phát triển thương nghiệp lúc bấy
giờ.
Cùng với việc sa sút về mặt kinh tế là sự suy yếu về chính trị. Do
vậy, trong suốt thời kỳ Đông Chu, ở Trung Quốc đã diễn ra cuộc nội
chiến kéo dài triền miên. Thời đại loạn lạc, chiến tranh liên miên ấy đã
đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm, người dân bị đẩy vào
trong ly loạn… Yêu cầu về sự chấm dứt chiến tranh là một tất yếu của
thời đại.
Chính cái loạn của xã hội đó đã trở thành mãnh đất màu mỡ cho
cho các nhà tư tưởng. Những vấn đề triết học và xã hội đặt ra đòi hỏi
các nhà tư tưởng lý giải và tìm ra con đường để bình thiên hạ. Khổng
Tử với triết thuyết của mình cũng là một con đường trong cái khát vọng
chung đó. Khổng Tử cho rằng sỡ dĩ thiên hạ đại loạn vì thiên hạ vơ đạo,
lễ hư nhạc hỏng, khơng có chuẩn mực đạo đức nào để giải quyết hài
hòa các mối quan hệ xã hội thời đó. Khổng Tử đề xuất đạo Trung dung
cũng từ lẽ ấy.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng lý luận
Triết lý trung dung không phải là sản phẩm chủ quan của Khổng Tử
hay các nhà nho sơ kỳ, mà trung dung đã có từ thời Nghiêu Thuấn.


8
Chính vì vậy tìm hiểu triết lý trung dung của nho giáo sơ kỳ không thể
không khảo cứu tư tưởng trung dung trước Khổng Tử và tư tưởng của

những nhà tư tưởng cùng thời.
Kinh Thư, một sách ghi chép thời thượng cổ và là kinh điển của
Nho gia, có đoạn thuật lại lời vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ đã
nhấn mạnh việc cầm chắc đạo trung.
Một cội nguồn tư tưởng của Trung Hoa nói chung và Nho giáo nói
riêng là Kinh Dịch, Từ hai nét vẽ một vạch đứt, một vạch liền, chồng
lên nhau, đổi chỗ cho nhau tạo thành bát quái, từ bát quái chồng lên
nhau tạo thành 64 quẻ, chỉ với 64 quẻ đó người Trung Hoa xưa luận về
tất cả các hiện tượng từ vũ trụ đến nhân sinh…Trong đó có cả quan
niệm về trung dung.
Theo quy luật Âm Dương tương sinh tương khắc, cái gì thái quá thì
sẽ phản phục nên chú trọng yếu tố hài hịa, qn bình, đó chính là trung.
Trong Kinh Dịch, chữ trung được đặc biệt chú trọng. Điều này thể hiện
rất rõ trong các quẻ của Kinh Dịch. Cái gì lúc đã đến thịnh rồi sẽ suy.
Phát triển tư tưởng Âm Dương trong Kinh dịch, Âm Dương gia cho
rằng Âm Dương là nguyên lý lớn của trời đất, là hai nguyên động lực
chủ yếu, sự hòa hợp của Âm và Dương là cơ sở tồn tại của sự vật. Âm
dương không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà thuộc tính
của mọi hiên tượng mọi sự vật, trong toàn thể vũ trụ cũng như trong
từng tế bào, từng chi tiết.
Chủ trương vị ngã của Dương Chu và con đường Kiêm Ái của Mặc
Tử là hai thái cực đối lập. Một bên chủ trương mất một sợi lông mà có


9
lợi cho thiên hạ cũng chẳng làm, vì mình quên thiên hạ, một bên dù
mịn trán lỏng gối mà có lợi cho thiên hạ nhất định làm. Có lẽ sự đối lập
này đã đặt ra cho Nho giáo một cái nhìn trung lập về con đường trị loạn
xã hội của mình.
Một học phái có ảnh hưởng lớn đối với cục diện chính trị xã hội

thời Xuân Thu chiến quốc là Pháp gia, với đại diện tiêu biểu là Hàn Phi.
Hàn Phi chủ trương dùng Pháp lệnh để trị loạn xã hội. Điều này đặt ra
một vấn đề lớn trong triết học chính trị Trung Hoa cổ đại, con đường
đức trị hay pháp trị.
Lão Tử đã nhận thấy vạn vật luôn có hai mặt đối lập, nhưng cái đối
lập đó lại nương tựa vào nhau mà tồn tại, nên có và khơng cùng tồn tại
và chuyển hóa lẫn nhau,khó và dễ cùng thành, họa là chỗ náu của phúc,
phúc là nơi ẩn mình của họa. Đó chính là sự thống nhất của hai mặt đối
lập trong tư tưởng của Lão Tử. Do vậy, quy luật quân bình yêu cầu các
mặt đối lập tồn tại trong trạng thái cân bằng thống nhất, khơng thái q,
khơng thiên lệch, nó là cơ sở duy trì sự tồn tại của vạn vật. Luật quân
bình và phản phục của Đạo phần nào tương hợp với thuyết trung dung.
1.1.3 Vị trí của triết lý Trung dung trong Nho giáo sơ kỳ
Trung dung vượt qua giới hạn một quan niệm về phương pháp luận
đạo đức, nó trở thành triết lý trọng tâm của Nho giáo, cả trong Hình nhi
thượng lẫn Hình nhi hạ, nói cách khác từ thiên đạo đến nhân đạo. Trung
dung trong nho giáo sơ kỳ khơng chỉ phương pháp để nhận thức thế giới
mà cịn trở thành tiêu chuẩn để xử thế, đánh giá giá trị đạo đức của con
người. Ở Mạnh Tử tư tưởng đó cịn thấm sâu vào tâm lý con người, trở
thành công phu nội tỉnh trở về với cái tâm chuyên nhất nơi mình. Đây là


10
con đường lý tưởng mà Đức thánh Khổng muốn nhân loại thực hành để
đạt đến sự hoàn mỹ nhất, đạt đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ.
1.2. Nội dung triết lý Trung dung của Nho giáo sơ kỳ
1.2.1 Nội dung tư tưởng
Trình Tử đời Tống định nghĩa Trung dung như sau: “không thiên
lệch gọi là trung, không thay đổi gọi là dung, trung là đường chính
trong thiên hạ, dung là lẽ nhất định trong thiên hạ”[20, tr.687]

Như vậy Trung là ở giữa những thái cực, là cái đúng và cũng là
chính đạo. Chữ Dung nghĩa là giản dị,là cái thường. Cho nên, Điều cốt
yếu trong trung dung là lý về Đạo, từ thiên đạo đến nhân đạo, không
chỉ là lẽ của tự nhiên trung dung được ứng dụng trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ đạo đức tu thân đến lý tưởng chính trị xã hội.
Điểm quan trọng nhất của triết lý trung dung là chữ Trung, thiên
tính sẵn có của con người là Trung. Ơ đây, Khổng Tư muốn nhấn mạnh
rằng, cái “thiên mệnh chi vi tính” đó chính là đức trung, nên là gốc lớn
của mọi người vậy. Cái Trung đó khi phát ra trúng tiết gọi là hịa. Trung
và Hịa có mối liên hệ biện chứng với nhau, trung là gốc của hòa, hào là
biểu hiện của trung.
Thành là một phạm trù quan trọng của nho giáo sơ kỳ nói chung và
triết lý Trung dung nói riêng, đấy cũng chính là lý tưởng của bậc quân tử.
Khổng Tử đưa ra hai con đường đạt đạo của thánh nhân và phàm nhân. Từ
thành đến minh, đó là con đường của thánh nhân và cũng chính là đường
lối của trời – Thiên đạo. Từ Minh đến Thành đó là con đường của phàm
nhân để đạt đến thánh nhân – Nhân đạo.
Đỉnh điểm của Thành trong trung dung là đạt đến bậc chí thành, đó
là người mà trong lịng khơng cịn một chút tư dục, vọng niệm nào, mà
chỉ cịn cái bản tính un ngun trời phú cho, cái thiên tính sáng tỏ


11
tròn đầy, do vậy mà thấu rõ và thực hành trọn vẹn cái bản tính của
mình.
1.2.2. Nội dung phương pháp
Về mặt phương pháp, Nho giáo sơ kỳ chưa xây dựng được được về
mặt lý luận một phương pháp chủ đạo trong các tư tưởng triết học của
mình, nhưng những nội dung về mặt phương pháp của triết lý trung
dung đã về cơ bản phác họa bức tranh về mặt phương pháp trong sự

sinh thành và vận hành của triết lý trung dung trong tự nhiên và xã hội.
Xét từ gốc độ sinh thành của trung dung, trung dung là đạo lý của
tự nhiên, Giới tự nhiên đã biểu hiện, cái gì thái quá đến một chừng nhất
định đều đi xuống tàn lụi, cái mang tính một chiều thì tất yếu dẫn đến
phản phát triển. Nên cái đạo trung vốn sẳn là tính tự nhiên của vũ trụ
vạn vật. Điều này có thể thấy khá rõ trong tư tưởng của Âm Dương gia
và Đạo gia. Các bậc Thánh nhân đã nhìn ra được đạo lý đó của tự
nhiên, tất cả mọi sự và vật muốn tồn tại và phát triển thì không được
thái quá, phải đi theo con đường trung đạo. Như vậy tất cả những gì là
thái quá đều đưa lại kết quả không tốt, những thái cực đều chỉ phản ảnh
một mặt bản chất của sự vật hiện tượng, nếu chỉ nghiêng về một mặt tức
là chỉ dừng lại ở một chiều của bản chất. Nên trung dung tức là hướng
đến sự thống nhất biện chứng của các mặt, các chiều kích của sự vật, ở
đó tính ổn định của sự vật khơng bị xóa bỏ. Ở đây khơng phải là sự điều
hòa xung đột của các mặt đối lập mà là sự thống nhất trong tính ổn định
của nó. Ta biết rằng các mặt đối lập tồn tại trong sự thống nhất, mặt này
lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình, nên trung dung là phương pháp
hướng đến sự thống nhất của các mặt. Dĩ nhiên đó khơng phải là sự
thống nhất chết cứng và nó có bản tính vận động.
Then chốt của đạo trung dung là một chữ Trung, Trung là nguyên
tắc, là quy tắc bất biến, vì ai khơng hành sự theo chữ trung người đó sẽ


12
thất bại tuy nhiên sức sống của Trung dung không chỉ dừng lại ở một
tầng ý nghĩa như thế. Nếu chấp vào cái trung đó thì chẳng khác nào một
định luật chết cứng, Giá trị là ở chỗ Nho giáo sơ kỳ đã đưa ra một khái
niệm thời trung. Theo nghĩa của thời trung thì dù nắm giữ cái trung phải
bất biến nhưng việc xác định và nắm láy cái trung đó phải tùy thời.
Gắn liền với Thời là phải quyền biến, trung dung mà khơng quyền

biến thì trở nên chấp nhất, có quyền biến mới thời nào nên làm và thời
nào không nên làm. Điều quan trọng trong trung dung là phải nắm được
cái trung nhưng cái trung đó không phải là một điểm cố định, tùy theo
thời, vị thế mà cái trung cũng thay đổi biến chuyển theo vấn đề của
người quân tử là phải biết “chấp lưỡng dụng trung”. Nên Mạnh tử lưu ý
rằng chấp trung mà khơng quyền biến thì trở thành chấp nhất, đó là cái
trung chết cứng.
1.2.3. Từ triết lý Trung dung đến Đạo Trung dung
Với Nho giáo sơ kỳ trung dung đã từ một triết lý sống trở thành
Đạo, không chỉ là đạo người mà còn trở thành đạo của trời. Từ triết lý
đạo đức, Trung dung thành đạo thường của Khổng giáo, nó rộng khắp ai
cũng có thể theo từ hạng ngu phu, ngu phụ đến bậc thánh ai cũng có thể
thực hành được, nhưng bậc thánh vẫn có chỗ khơng thực hành được.
đấy chính là cái vi diệu của đạo Trung dung.
Kết luận chương 1
Trung dung là một triết lý uyên thâm của Nho giáo sơ kỳ, triết lý ấy
không phải là một phát minh của Khổng, mà đã có từ thời Nghiêu
Thuấn, công lao của Khổng Tử là đã phát triển triết lý ấy thành Đạo của
người quân tử. Với việc nhấn mạnh những phẩm đức từ trung đến Hòa,
đức Thành và tư tưởng Thời trung, Trung dung của Nho giáo so kỳ đã
đặt ra những nội dung có giá trị về mặt tư tưởng và phương pháp


13


14
Chương 2
Ý NGHĨA TRIẾT LÝ
TRUNG DUNG CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ

2.1. Ý nghĩa nhận thức của triết lý Trung dung.
Trong hệ thống triết học nho giáo sơ kỳ, trung dung có một ý nghĩa
quan trọng, nhận thức về triết học Khổng Mạnh mà khơng nắm triết lý
Trung dung thì thật chưa đến được với cái chân của đạo Khổng. Trung
dung với những nội dung của nó, là khái niệm trung tâm để đi vào nhận
thức về nho giáo, đặc biệt là Nho giáo sơ kỳ. Hơn nữ với hiện tướng
thời trung, trung dung còn là sự liên kết về mặt tư tưởng trong lịch sử
phát triển của Nho giáo. Vì thế, khái niệm Trung dung là công cụ hữu
hiệu để nhận thức Nho giáo nói chung và Nho giáo sơ kỳ nói riêng.
Nắm được trung dung là cơ sở để đi vào nhận thức mối quan hệ
giữa Mệnh – Tính – Đạo trong Nho giáo. Tử Tư đã cho chúng ta một cái
nhìn tiến bộ của Nho giáo sơ kỳ trong quan niệm về Mệnh, Tính và
Đạo.
Trong chính trị, khi bàn về con người chính trị Nho giáo chú trọng
đến lịng Nhân. Vua Ai Cơng hỏi về chính trị Khổng Tử cho rằng cần
lấy vua Văn, vua Võ làm mẫu mực, người như thế cịn thì việc chính trị
sẽ được phát huy. Thực chất của Chính danh trong triết học chính trị của
Nho giáo cũng khơng nằm ngồi đạo lý trung dung. u cầu của chính
danh địi hỏi sự phù hợp giữa nội dung và hành thức, nên giữa danh và
thực phải thống nhất với nhau. Không được thiên lệch hay tuyệt đối hóa
phía nào cả. Thực hiện được rốt ráo sự phù hợp đó tức là đi trong đường
lối trung hòa.


15
Hiếu đạo được bàn đến trong trung dung như một phần của nhân
đạo trung dung, Theo đó hiếu đạo vượt xa quan niệm hiếu của người
thường.
Đạo đức cao nhất của người phương Đơng là đạt đến trung dung,
Phật giáo có trung Đạo, thật chất của trung đạo là trung dung trong

đao Phật, con đường ấy, chính đức Phật bằng sự trải nghiệm tu tập của
mình đã ngộ ra.
Phát triển con đường trung đạo của đức Phật, Trung dung trong
Phật giáo còn thể hiện ở một cấp độ cao hơn nữa đó là Trung Quán
luận, do bồ tác Long Thọ sáng tạo, nhằm phủ định tất cả các lý luận bảo
thủ, cố chấp của ngoại đạo tà giáo. Ý nghĩa của Trung quán là phá bỏ
mọi kiếm chấp mê lầm dựa trên ngun lý các pháp là khơng, theo đó
phủ định mọi cực đoan của nhận thức, cả chấp hữu chấp vô.
Trung dung không phải là sản phẩm đặc hữu của người phương
Đông, triết học Hy Lạp cổ đại cũng đã gì nhận sự xuất hiện của triết lý
này, thể hiện khá rõ trong triết học của Aristote về đạo đức. Aristote
cho rằng hạnh phúc đích thực là việc các đức tính tốt được phát huy
đầy đủ nhất, theo ơng đức tính tốt của con người đó chính là năng lực
suy luận, một đặc điểm quan trọng của lý tính phân biệt với động vật.
Nên hạnh phúc phải tìm trong lý tính, mà hoạt động cao nhất của lý
tính đưa lại khối lạc thuần khiết và lâu bền nhất đó là việc nghiên cứu
triết học.
2.2. Ý nghĩa phương pháp của triết lý Trung dung
Tuy rằng, chưa xác lập về mặt tư tưởng một phương pháp chủ đạo,
nhưng qua nội dung phương pháp của trung dung, đạo Khổng đã bước
đầu xác lập những nguyên tắc của tư duy biện chứng, điều này có ý
nghĩa quan trọng đối với triết học của nho giáo nói riêng và triết học
phương đơng nói chung.


16
Trước hết, về mặt phương pháp trong đạo trung dung. Trung dung
là sự thống nhất của những thái cực, đó là sự thống nhất biện chứng,
thống nhất trong quy luật tồn tại của mọi sự và vật.
Về mặt phương pháp, phương diện quan trọng trong triết lý trung

dung của Nho giáo sơ kỳ, nó có nhiều đóng góp quan trọng trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Trung dung là Đạo, đạo xử thế của phương
Đông, không phải ngẫu nhiên mà đức Khổng Tử hết sức xiểng dương
đạo lý này một cách nhiệt tâm như thế. Cống hiến của trung dung ở
điểm này đó chính là phát hiện ra cái Thiên nhân hợp nhất. Đời sống
hài hịa là ở đó con người hòa điệu được với cả đất trời, con người hịa
thì trời đất vạn vật cũng hịa. Bởi lẽ Trời đất vạn vật đã vốn dĩ là hòa
rồi.
Từ việc xác định và nắm được cái trung để hành động, trung dung
đã cho chúng ta một phương pháp linh hoạt trong nhận thức và hành
động để đưa lại hiệu quả cao nhất. Dĩ nhiên cốt yếu của đạo lý trung
dung là giữ đạo chính trung, nhưng cái làm cho trung dung trở nên sáng
suốt lại là biết cong duỗi theo thời, nghĩa là tùy thời mà xác định trung.
Không chỉ ý nghĩa về mặt lịch sử, nội dung phương pháp của trung
dung vẫn cịn rất có giá trị đối với xã hội ngày nay trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn của xã hội. Đi vào nội dung phương pháp của trung
dung để thấy rằng, tất cả mọi biến cố của xã hội từ kinh tế, chính trị và
văn hóa đều có ngun nhân sâu xa của việc khơng nhận ra cái trung để
nhận thức và vận hành cho đúng. Những hậu quả mà nhận loại đang
chịu từ khủng hoảng kinh tế, ơ nhiễm mơi trường, khí hậu thay đổi, xã
hội bất an … đều xuất phát từ nhận thức sai lầm của con người về
những vấn đề trên, dẫn đến những hành động đi ngược lại cái lý của vũ
trụ.


17
2.3. Giá trị hiện nay của triết lý Trung dung và một số kiến
nghị vận dụng.
Từ những phân tích trên về nội dung và ý nghĩa của triết lý trung
dung của Nho giáo sơ kỳ, ta có thể khẳng định trung dung có một hệ giá

trị nhất định trong triết học Nho giáo nói riêng và tư tưởng phương
Đơng nói chung.
Hiện nay, thời đại của văn minh khoa học, của sự phát triển thì
những giá trị của cổ nhân, trong đó có nho giáo sẽ đóng vai trị một vai
trị qua trọng. Những điều mà những hiền triết phương Đông nói cách
đây hai nghìn năm đến hơm nay vẫn cịn nguyên giá trị.
Một thế giới hòa, một đất nước hòa, một con người hòa là điều lý
tưởng. Thực tế đã chứng minh, văn minh vật chất cũng có những giới
hạn của nó, việc quá đề cao và tuyệt đối hóa văn minh cơ giới của
phương Tây đã để lại những bài học sâu sắc khi tâm hồn con người
cũng bị vật chất hóa. Hiện nay xu thế hội nhập, sự tiếp nhận những
nguồn sáng từ Tây phương là điều tất yếu của sự phát triển. Vấn đề đặt
ra cho sự tiếp nhận ấy là phải như thế nào để tránh rơi vào một tình
trạng thái quá hay bất cập. Sự cần thiết của việc nắm vững nguyên tắc
linh hoặt của cha ông trong lịch sử là tất yếu trong xu thế hội nhập hiện
nay, trong đó có cả con đường trung dung của Nho giáo.
Trong xu thế đa cực văn hóa hiện nay, nếu khơng có một triết lý
văn hóa đúng rất dễ đưa lại những hậu quả đáng tiếc, triết lý văn hóa ở
đây sẽ khơng gì khác ngồi một đường lối trung dung trong xây dựng
và phát triển. Trong lịch sử, cha ông ta đã vận dụng thật tài tình triết lý
này.
Mấy điểm cần lưu ý khi vận dụng phương pháp trung dung,
phương pháp trung dung vận dung theo tư duy biện chứng thì được hiểu


18
là sự thống nhất kết hợp các mặt đối lập phù hợp với một trạng thái nhất
định của mâu thuẫn có lợi cho sự phát triển.
Nhưng trung dung vận dụng theo nghĩa chiết trung là một sự thỏa
hiệp vô nguyên tắc, tùy tiện, xu thời của kẻ tiểu nhân, là tâm địa của

những kẻ phản trắc, làm hại lợi ích và sự phát triển của cộng đồng, mà
trên thực tế là đi ngược lại nguyên tắc trung dung.
Những kẻ thực dụng vị lợi cũng có thể vận dụng trung dung nhưng
đó cũng mang tính chất xu thời, thực tế chỉ có tính chất sách lược,
nhưng về lâu về dài lại dẫn đến trái với thực chất của trung dung, vì hệ
quả của nó lại dẫn đến những bất cập, xung đột lợi ích ngày càng quyết
liệt.
Ranh giới giữa trung dung với lối sống quân bình, lưng chừng rất
mong manh, nếu nhận thức không thấu đáo ta dễ dàng cho rằng trung
dung là một lối sống khôn ngoan lưng chừng, cơ hội. Trung dung là
Đạo của nho giáo sơ kỳ, Đạo ấy điều lấy gốc ở điều Nhân, triết học
Khổng Mạnh đều xoay quanh phạm trù này.
Kết luận chương 2
Qua sự phân tích ý nghĩa nhận thức và ý nghĩa về mặt phương pháp
của triết lý trung dung, với sự liên hệ với một số triết phái khác đã thật
sự làm nổi bậc lên giá trị của triết lý trung dung, trung dung trở thành
một đạo sống mẫu mực của nhân sinh quan đơng Phương. Qua đó nêu
bậc giá trị hiện nay của triết lý trung dung và một số kiến nghị vận dụng
triết lý này trong giai đoạn hiện nạy.


19
KẾT LUẬN
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã chứng minh, có những tư tưởng của
cổ nhân dù trải qua nhiều ngàn năm vẫn cịn ngun giá trị cho đến
ngày hơm nay. Bậc “vạn thế sư biểu” Khổng Tử thật sự đã để lại cho tư
tưởng nhân loại một chân giá trị - Đạo trung dung.
Dù không phải là sản phẩm của Khổng Tử mà đã có từ thời Nghiêu
Thuấn, và phảng phất trong tư tưởng của một số trường phái triết học
khác, nhưng có lẽ với Nho giáo sơ kỳ, trung dung đã được phát triển và

trở thành đạo sống, một thái độ sống tích cực của người phương Đơng.
Đó là một thái độ sống hài hịa khơng thái q, khơng bất cập, trong
trạng thái qn bình với vũ trụ vạn vật. Triết lý trung dung của Nho giáo
sơ kỳ đã chỉ ra một khía cạnh tất yếu của một xã hội loạn, một thế giới
loạn đó là việc mất đi đạo trung, mất tính qn bình vốn có khi mọi thứ
vượt q giới hạn trung. Điều đó khơng chỉ đúng với thời đại Khổng Tử
mà còn nguyên giá trị đối với xã hội hiện nay.
Với Trung dung, Nho giáo sơ kỳ nhận thức quan trọng về vũ trụ
nhân sinh, qua đó làm rõ thêm thuyết thiên nhân tương giao của phương
Đơng với những khái niệm như Tính, Giáo, Đạo. Theo đó, tính người
thật ra được phú sẳn bởi thiên mệnh nghĩa là Tính sẵn có, Tính này vốn
vơ phân biệt, bất thị phi. Tính này cũng chính là “đạo tâm”. Con đường
của giáo dục là giáo dục cho nhân tâm trở về với đạo tâm mà thôi.
Trung dung là một q trình biện chứng tự triển khai của Tính để trở
nên tồn thiện ở đức Thành. Qua q trình đó, Nho giáo sơ kỳ đã chỉ ra
những vấn đề nhân sinh từ chính trị, giáo dục, tâm lý và đạo đức dưới
ánh sáng của đạo trung dung.
Hơn bao giờ hết, trong thời đại hiện nay, trong thế giới đa cực về
mọi lĩnh vực, triết lý trung dung của Nho giáo sơ kỳ thật sự có ý nghĩa


20
tích cực. Nó là cứu cánh đích thực với một con đường sáng cho sự phát
triển hài hòa bền vững, con đường trung dung là con đường bền vững
cho sự phát triển.
Ý nghĩa của triết lý trung dung của Nho giáo sơ kỳ, sẽ được nâng
lên khi được xem xét trong sự tương quan với luật quân bình của Lão
Tử, hay con đường Trung đạo của nhà Phật. Vượt ra ngoài giới hạn của
đạo Nho, trung dung trở thành lý tưởng chung của nhiều triết học chân
chính, Triết học nhận ra được đạo lý của tự nhiên. Theo đạo trung dung

thực chất là sự trở về với tự nhiên với tính cách con người là một phần
của tự nhiên, sống trung dung cũng chính là sống với cái lý của tự nhiên
và sống với cái bản Tâm sáng vốn sẵn có nơi mình.



×