Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty cp long phương đông.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.44 KB, 61 trang )

Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
LỜI MỞ ĐẦU
Trước đây trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mọi hoạt động của
doanh nghiệp đều phải tuân theo kế hoạch của nhà nước giao. Ba vấn đề cơ bản của sản
xuất kinh doanh là sản xuất cái gì?, sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? đều do
nhà nước chỉ định sẵn chứ doanh nghiệp không có quyền chủ động xây dựng. Do vậy
các doanh nghiệp thường không coi trọng hiệu quả kinh tế và hạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.
Khi có chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước thì mọi doanh nghiệp phải tự chủ về mặt tài chính, tự xây dựng phương án kinh
doanh, tự tìm đầu vào và đầu ra, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mình. Dưới tác động của quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường, các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải sử dụng các nguồn lực của mình một
cách có hiệu quả nhất, coi hiệu quả kinh doanh là mục tiêu hàng đầu, thực sự chú trọng
hạch toán kinh tế, đảm bảo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lợi nhuận.
Duy trì con đường đổi mới cơ chế kinh tế hơn 10 năm qua, diện mạo nền kinh tế
nước ta đã có nhiều thay đổi. Những thành tựu và kết quả đạt được trong lĩnh vực kinh
tế đã ngày càng khẳng định đường lối chỉ đạo chuyển hướng của Đảng sang nền kinh tế
thị trường là đúng đắn và sáng suốt. Thị trường trong nước được mở mang, các ách tắc
trong sản xuất và lưu thông được giải quyết, các cơ hội học hỏi bên ngoài, học tập kinh
nghiệm lẫn nhau ngày càng nhiều, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển, sản
xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Đảng và Nhà nước xác định xây dựng sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá hướng về xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mở rộng thị trường, tiếp thu công nghệ mới của các
nước tiên tiến, tận dụng được lợi thế kinh doanh mang lại hiệu quả kinh doanh lớn hơn
nhiều so với thập niên trước.
Hiệu quả kinh doanh là kết quả của quá trình lao động của con người, là kết quả
tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp có thể
tồn tại và phát triển, là nguồn mang lại thu nhập cho người lao động đồng thời là nguồn
tích luỹ cơ bản để thực hiện tái sản xuất xã hội. Có thể nói hiệu quả kinh doanh là việc


tạo ra nhiều lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với toàn xã hội, doanh
nghiệp và với từng cá nhân người lao động.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
1
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Xuất phát từ những ý nghĩa đó mà cần phải tạo ra lợi nhuận và tìm mọi cách để
tăng lợi nhuận. Việc phấn đấu tăng lợi nhuận không chỉ là vấn đề quan tâm của doanh
nghiệp mà còn là của toàn xã hội cũng như cá nhân mỗi người lao động. Đó là một đòi
hỏi tất yếu và bức thiết hiện nay.
Do vậy, hiện nay hơn bao giờ hết các doanh nghiệp phải giải quyết bằng được
vấn đề làm thế nào để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và có lợi nhuận.
Trước hết là để tồn tại và sau đó là để phát triển quy mô kinh doanh, chiến thắng đối
thủ cạnh tranh, nâng cao uy tín, thế lực của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của hiệu quả kinh doanh đối với sự thành công
của doanh nghiệp, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh ở Công ty CP Long Phương Đông" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận được chia làm 3 phần
chính sau :
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng kinh doanh ở Công ty CP Long Phương Đông.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty
CP Long Phương Đông.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
2
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh
doanh, nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu
về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Qua khái niệm về hoạt động sản xuất kinh
doanh ta mới chỉ thấy được đó chỉ là một phạm trù kinh tế cơ bản còn hiệu quả sản
xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập trung phát triển theo chiều
sâu, nó phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phối các nguồn lực đó
trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là một thước đo quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chổ dựa cơ bản để
đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Hiệu quả có thể được đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau để xem xét. Nếu là
theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Còn nếu ở từng khía cạnh riêng thì hiệu quả kinh tế là sự
thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh quá trình sử dụng các
yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm
trù kinh tế có tính chất định lượng về tình hình phát triển của các hoạt động sản xuất
kinh doanh, nó phản ánh sự phát triển kinh tế theo chiều sâu của các chủ thể kinh tế,
đồng thời nó phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
và của nền kinh tế quốc dân trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh
tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh rất gay gắt trong
việc sử dụng các nguồn lực để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Các doanh
nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh thì
phải đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu muốn vậy cần tận dụng khai thác và tiết kiệm tối
đa các nguồn lực.Thực chất của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp là tương ứng với việc nâng cao năng xuất lao động xã hội và tiết kiệm
lao động xã hội. Điều đó sẽ đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
3

Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Nếu doanh nghiệp nào có hiệu quả kinh doanh thấp sẽ bị loại khỏi thị trường, còn
doanh nghiệp nào có hiệu quả kinh tế cao sẽ tồn tại và phát triển.
Tóm lại, hiệu quả sản xuất kinh doanh là việc phản ánh mặt chất lượng các hoạt
động sản xuất kinh doanh, trình độ tận dụng các nguồn lực trong kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.1.2 Vai trò của việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.2.1 Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là công cụ quản trị doanh
nghiệp
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào con người cũng cần phải
kết hợp yếu tố con người và yếu tố vật chất nhằm thực hiện công việc phù hợp với ý đồ
trong chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở nguồn lực sẵn
có. Để thực hiện điều đó bộ phận quản trị doanh nghiệp sử dụng rất nhiều công cụ
trong đó có công cụ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xem xét và tính toán
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt
được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị tìm ra các nhân tố để đưa ra
những các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí
kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
Bản chất của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực đầu vào, do đó xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, phạm trù
hiệu hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so
sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đạt được mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận. Với vai trò là phương tiện đánh giá và phân tích kinh tế, hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ được sử dụng ở mức độ tổng hợp, đánh giá
chung trình độ sử dụng đầu vào ở toàn bộ doanh nghiệp mà còn đánh giá được trình độ
sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như đánh giá được
từng bộ phận của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Như ta đã biết bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất

lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của
vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm các nguồn lực và sử dụng các nguồn lực
có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều đó đã đặt ra
yêu cầu là phải khai thác, tận dụng một cách triệt để các nguồn lực. Để đạt được mục
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
4
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
tiêu kinh doanh các doanh nghiệp phải hết sức chú trọng và phát huy tối đa năng lực
của các yếu tố sản xuất, tiết kiệm mọi chi phí.
Tuy nhiên để hiểu rỏ hơn bản chất của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
cần phân biệt được hai khái niệm về hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh.
Kết quả là một phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh
doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu
của doanh nghiệp và có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật như (tạ, tấn, kg, m2, ) và
đơn vị giá trị (đồng, nghìn đồng, triệu đồng, tỷ đồng, ) hay cũng có thể phản ánh mặt
chất lượng của sản xuất kinh doanh như uy tín của công ty, chất lượng của sản phẩm.
Kết quả còn phản ánh quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một
doanh nghiệp đạt được kết quả lớn thì chắc chắn quy mô của doanh nghiệp cũng phải
lớn. Do đó việc xác định kết quả sản xuất kinh doanh là tương đối khó khăn.
Trong khi đó, hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ tận dụng các nguồn lực
sản xuất hay phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh
không phải là số tuyệt đối mà là một số tương đối, là tỷ số giữa kết quả và hao phí
nguồn lực để có kết quả đó. Việc xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng rất phức
tạp bởi kết quả kinh doanh và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều
rất khó xác định một cách chính xác.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh
nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh của mình. Khi tiến hành bất kỳ một
hoạt động sản xuất kinh doanh nào, các doanh nghiệp đều phải huy động sử dụng tối đa
các nguồn lực sẳn có nhằm đạt được mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận và hiệu quả kinh

doanh là một trong những công cụ, phương pháp để doanh nghiệp đạt được mục tiêu
đó.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là góp phần nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị
trường đều gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau trong cùng ngành cũng như là
ngoài ngành. Do vậy chỉ có nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mới có thể tiết kiệm
được chi phí, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, mới có thể
nâng cao được sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy, cần phải tìm
mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
5
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
tất yếu khách quan để mỗi doanh nghiệp có thể trụ vững, tồn tại trong một cơ chế thị
trường cạnh tranh khốc liệt.
1.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.2.1 Về mặt kinh tế
1.2.1.1 Các hệ số khả năng thanh toán

Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tỷ lệ thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản ngắn hạn
và các khoản nợ ngắn hạn.
Tài sản lưu động
Tỉ lệ thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp khi các khoản
nợ đến hạn. Nó chỉ ra phạm vi, qui mô mà các yêu cầu của chủ nợ được trang trải bằng
những tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời hạn
trả nợ. Nguyên tắc cơ bản cho rằng tỷ số này là 2:1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính là bình thường. Tuy nhiên tỷ số

này còn tùy thuộc vào loại hình kinh doanh và chu kỳ hoạt động của từng đơn vị. Một
tỷ số thanh toán hiện thời quá thấp sẽ trở thành nguyên nhân lo âu bởi vì các vấn đề rắc
rối về dòng tiền mặt chắc chắn sẽ xuất hiện. Một tỷ số thanh toán hiện thời quá cao có
thể nói rằng doanh nghiệp không quản lý được các tài sản lưu động của mình.

Tỷ lệ thanh toán nhanh
Tỷ số này thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tiền mặt và các khoản tương đương
tiền với các khoản nợ ngắn hạn. Được coi là tương đương tiền là những tài sản quay
vòng nhanh, có thể chuyển đổi thành tiền mặt như: đầu tư ngắn hạn và các khoản phải
thu.
Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Tỷ lệ thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn khắt khe hơn về khả năng thanh toán
các khoản nợ ngắn hạn so với tỷ số thanh toán hiện thời. Nguyên tắc cơ bản đưa ra tỷ
số thanh toán nhanh là 1:1.

Hệ số thanh toán lãi vay
Lãi nợ vay hàng năm là một khoản chi phí cố định và chúng ta muốn biết công
ty sẳn sàng trả tiền lãi đến mức nào. Cụ thể hơn chúng ta muốn biết rằng liệu vốn đi
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
6
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
vay có thể sử dụng tốt đến mức có thể đem lại những khoản lợi nhuận bao nhiêu và có
đủ để bù đắp lại các khoản chi phí về tiền lãi hay không.
Tỷ số này được dùng để đo lường mức độ mà lợi nhuận phát sinh do việc sử
dụng vốn để đảm bảo khả năng trả lãi vay như thế nào.
Nếu doanh nghiệp quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến kiện tụng và có
thể đưa đến việc phá sản doanh nghiệp.

Lợi tức trước thuế + Lãi nợ vay
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lãi nợ vay
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng đảm bảo chi trả lãi nợ vay đối với các
khoản nợ dài hạn và mức độ an toàn có thể có của người cung cấp tín dụng. Thông
thường hệ số này lớn hơn 2 được xem là đảm bảo cho các khoản nợ dài hạn. Tuy nhiên,
vấn đề này còn phụ thuộc vào khả năng tạo ra lợi nhuận lâu dài cho doanh nghiệp.
1.2.1.2 Các hệ số kết cấu tài chính

Tỷ lệ tự tài trợ: thể hiện mối quan hệ so sánh giữa nguồn vốn chủ sở hữu với
tổng vốn đơn vị đang sử dụng
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ tự tài trợ =
Tổng số nguồn vốn
Tỷ lệ này cho thấy khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Khi tỷ lệ tự
tài trợ càng cao (thì tỷ lệ nợ càng thấp), cho thấy mức độ tự chủ về tài chính của doanh
nghiệp càng cao, ít bị ràng buộc bởi các chủ nợ, hầu hết mọi tài sản của đơn vị được
đầu tư bằng vốn chủ sở hữu.

Tỷ lệ nợ: so sánh giữa nợ phải trả với nguồn vốn đơn vị đang sử dụng.
Nợ phải trả
Tỷ lệ nợ =
Tổng số nguồn vốn
Tỷ lệ nợ cho biết trong 1đ vốn tài trợ tài sản của doanh nghiệp thì có mấy đồng
nợ phải trả. Tỷ lệ này cũng phản ánh mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này cao cho biết nợ phải trả đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn,
phản ánh khả năn đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp thấp. Tỷ lệ nợ cao sẽ
khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi thuyết phục các nhà đầu tư tín dụng cho vay.
Ngược lại, tỷ lệ nợ thấp cho biết nợ phải trả chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số
nguồn vốn, phản ánh mức độc lập về tài chính của doanh nghiệp cao.

SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
7
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
1.2.1.3 Tỷ số hoạt động hay hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh

Vòng luân chuyển các khoản phải thu
Vòng luân chuyển các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải
thu thành tiền mặt của doanh nghiệp, được xác định bằng mối quan hệ tỷ lệ giữa doanh
thu thuần và các khoản phải thu.
Doanh thu thuần
Số vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh
toán các khoản phải thu v.v. Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ, lúc
đó các khoản phải thu quay được một vòng.

Kỳ thu tiền bình quân
Phản ánh thời gian của một vòng luân chuyển các khoản phải thu, nghĩa là để
thu được các khoản phải thu cần một khoảng thời gian là bao lâu.
Các khoản phải thu x 360
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu thuần
Nếu kỳ thu tiền bình quân thấp thì vốn của doanh nghiệp ít bị đọng trong khâu
thanh toán. Tuy nhiên các khoản phải thu trong nhiều trường hợp cao hay thấp chưa thể
có một kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại các chính sách của doanh nghiệp áp
dụng như: doanh nghiệp tăng doanh thu bán chịu để mở rộng thị trường.

Vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn

kho của mình hiệu quả như thế nào.
Doanh thu thuần
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho

Vòng quay toàn bộ tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn hiện có của
doanh nghiệp, nghĩa là trong một năm tài sản của doanh nghiệp quay bao nhiêu lần.
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ tài sản =
Tổng tài sản
1.2.1.4 Các tỷ số doanh lợi
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
8
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1

Doanh lợi tiêu thụ hay Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của một đồng doanh thu, nó được tính
bằng quan hệ so sánh giữa lợi nhuận sau thuế với doanh thu.
Lợi tức sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Doanh thu thuần
Sự thay đổi trong mức sinh lời phản ánh những thay đổi về hiệu quả, đường lối
sản phẩm hoặc loại khách hàng mà doanh nghiệp phục vụ.

Doanh lợi tài sản hay Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này cho biết tổng tài sản của doanh nghiệp sau một kỳ kinh doanh đem
lại hiệu quả như thế nào.
Lợi tức sau thuế

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản =
Tổng tài sản

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của vốn tự có, hay chính xác hơn là đo lường
mức sinh lời đầu tư của vốn chủ sở hữu, được xác định bằng quan hệ so sánh giữa lợi
nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu.
Lợi tức sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Những nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ tiêu này bởi vì họ quan tâm đến khả
năng thu nhận được từ lợi nhuận so với vốn họ bỏ ra để đầu tư.
1.2.2 Về mặt xã hội
Do yêu cầu của sự phát triển bền vững trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh
nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh phải đạt hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển
còn phải đạt được hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả
kinh tế - xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau:
Tăng thu ngân sách
Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có
nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh
thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt Nhà nước sẽ sử dụng
những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh vực phi sản
xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
9
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động
Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo
tình trạng kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều

công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đòi
hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Nâng cao đời sống người lao động
Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp
làm ăn phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên
phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua chỉ tiêu
như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng
trưởng phúc lợi xã hội
Tái phân phối lợi tức xã hội
Sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ
trong một nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch
về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả
kinh tế xã hội còn thể hiện qua các chỉ tiêu: Bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây
ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
1.3.1 Môi trường vĩ mô

Môi trường chính trị - pháp luật
Hình thức, thể chế đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước quyết định các
chính sách, đường lối kinh tế chung, từ đó quyết định các lĩnh vực, loại hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường chính trị ổn định sẽ có tác dụng
thu hút các hình thức đầu tư nước ngoài liên doanh, liên kết tạo thêm được nguồn vốn
lớn cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngược lại nếu
môi trường chính trị rối ren, thiếu ổn định thì không những hoạt động hợp tác sản xuất
kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài hầu như là không có mà ngay hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở trong nước cũng gặp nhiều bất ổn.
"Môi trường pháp lý bao gồm luật, văn bản dưới luật, quy trình , quy phạm kỹ
thuật sản xuất Tất cả các quy phạm kỹ thuật sản xuất kinh doanh đều tác động trực
tiếp đến hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp". Đó là

SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
10
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
các quy định của nhà nước về những thủ tục, vấn đề có liên quan đến phạm vi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi tham gia
vào môi trường kinh doanh cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và chấp hành đúng theo
những quy định đó.
Môi trường pháp lý tạo môi trường hoạt động, một môi trường pháp lý lành
mạnh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng chú
trọng đến các thành viên khác trong xã hội, quan tâm đến các mục tiêu khác ngoài mục
tiêu lợi nhuận. Ngoài ra các chính sách liên quan đến các hình thức thuế, cách tính, thu
thuế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Môi trường pháp lý tạo sự bình đẳng của mọi loại hình kinh doanh, mọi doanh
nghiệp có quyền và nghĩa vụ như nhau trong phạm vi hoạt động của mình. Trong nền
kinh tế thị trường mở cửa hội nhập không thể tránh khỏi hiện tượng những doanh
nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh sẽ thâu tóm những doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước
đứng ra bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp “yếu thế ” có thể duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình và điều chỉnh các lĩnh vực sản xuất cho phù hợp với cơ chế,
đường lối kinh tế chung cho toàn xã hội.
Tính công bằng và nghiêm minh của luật pháp ở bất kỳ mức độ nào đều có ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu môi trường
kinh doanh mà mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật thì hiệu quả tổng thể sẽ lớn hơn,
ngược lại, nhiều doanh nghiệp sẽ tiến hành những hoạt động kinh doanh bất chính, sản
xuất hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, vi phạm các quy định về bảo vệ môi
trường làm hại tới xã hội.

Môi trường văn hoá- xã hội

Môi trường văn hoá- xã hội bao gồm các nhân tố điều kiện xã hội, phong tục tập
quán, trình độ, lối sống của người dân Đây là những yếu tố rất gần gũi và có ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chỉ có thể duy trì và thu được lợi nhuận khi sản phẩm làm ra phù hợp
với nhu cầu, thị hiếu khách hàng, phù hợp với lối sống của người dân nơi tiến hành
hoạt động sản xuất. Mà những yếu tố này do các nhân tố thuộc môi trường văn hoá- xã
hội quy định.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
11
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1

Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là một nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng trưởng kinh tế quốc dân, chính sách kinh tế
của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng, chất lượng của sự tăng trưởng hàng năm của nền
kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại luôn là các nhân tố tác động
trực tiếp đến các quyết định cung cầu và từ đó tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Là tiền đề để Nhà nước xây
dựng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, các chính sách ưu đãi với
các doanh nghiệp, chính sách ưu đãi các hoạt động đầu tư ảnh hưởng rất cụ thể đến
kế hoạch sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Ngoài ra, tình hình kinh doanh hay sự xuất hiện thêm của các đối thủ cạnh tranh
cũng buộc doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lược kinh doanh của mình. Một môi
trường cạnh tranh lành mạnh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp cùng phát triển, cùng hướng
tới mục tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Tạo điều kiện để các cơ quan quản
lý kinh tế nhà nước làm tốt công tác dự báo điều tiết đúng đắn các hoạt động và có các
chính sách mang lại hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp.

Môi trường khoa học - kỹ thuật công nghệ

Kinh doanh là tìm cách thỏa mãn nhu cầu của thị trường, nhưng nhu cầu của thị
trường lại thay đổi liên tục cho nên các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng
tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới để đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của
khách hàng. Ngày nay không có một doanh nghiệp sản xuất nào muốn tồn tại và phát
triển lại không dựa vào việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học - kỹ thuật
và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ càng tinh vi thì càng cho phép các nhà
doanh nghiệp sản xuất được nhiều loại hàng hóa phù hợp hơn với những nhu cầu của
con người hiện đại. Công nghệ thường xuyên biến đổi, công nghệ tiên tiến liên tục ra
đời, chúng tạo ra các cơ hội cũng như nguy cơ rất lớn cho các doanh nghiệp. Nhìn
chung những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ thể hiện tập trung ở những
phương diện sau:
- Lượng phát minh sáng chế và cải tiến khoa học kỹ thuật tăng lên nhanh chóng
- Bùng nổ về cuộc cách mạng về thông tin và truyền thông;
- Rút ngắn thời gian ứng dụng của các phát minh sáng chế;
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
12
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
- Xuất hiện nhiều loại máy móc và nguyên liệu vật liệu mới với những tính năng
và công dụng hoàn toàn chưa từng có trước đây;
- Xuất hiện nhiều loại máy móc và công nghệ mới có năng suất chất lượng cũng
như tính năng và công dụng hiệu quả hơn;
- Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn, tốc độ chuyển giao công nghệ
ngày càng nhanh và nạnh hơn;
- Vòng đời sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng ngắn hơn;
- Trình độ tự động hóa, vi tính hóa, hóa học hóa và sinh học hóa trong tất cả các
khâu sản xuất, phân phối lưu thông và quản lý ngày càng cao hơn;
- Các loại hàng hóa mới thông minh ngày càng xuất hiện nhiều hơn; - Các
phương tiện truyền thông và vận tải ngày càng hiện đại và rẻ tiền hơn dẫn tới không
gian sản xuất và kinh doanh ngày càng rộng lớn hơn.

Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ là vô cùng phong phú và
đa dạng, chúng ta có thể kể ra rất nhiều ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ nữa, nhưng điều quan trọng cần phải nhận thức được là các nhà quản trị
thuộc mọi tổ chức nói chung và trong từng doanh nghiệp nói riêng đều cần phải tính tới
ảnh hường của các yếu tố này trong các mặt hoạt động của mình. Sẽ là một sai lầm lớn,
nếu trong kinh doanh mà các nhà quản trị không hoạch định được một chiến lược đúng
đắn về kỹ thuật và công nghệ trong từng thời kỳ để sản xuất ra các loại sản phẩm tương
ứng với thị trường. Thực tế đang chứng tỏ rằng, nhà doanh nghiệp nào nắm bắt nhanh
nhạy và áp dụng kịp thời những thành tựu tiến bộ như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì
người đó sẽ thành công.

Môi trường tự nhiên
Thiên nhiên là thế giới xung quanh cuộc sống của chúng ta, là khí hậu, thủy văn,
địa hình, rừng núi, sông ngòi, hệ động thực vật, tài nguyên khoáng sản thiên nhiên
v.v Dưới con mắt của các nhà quản trị đó là những lực lượng và các yếu tố có sự ảnh
hưởng rất sâu sắc tới cuộc sống của mọi con người trên trái đất này. Chẳng hạn nếp
sống, sinh hoạt và nhu cầu về hàng hóa của người dân vùng ôn đới chịu những ảnh
hưởng sâu sắc từ điều kiện khí hậu lạnh giá của họ và đến lượt mình các nhà quản trị
phải biết những đặc thù về những thứ hàng hóa dành cho người dân xứ lạnh để hoạch
định chính sách kinh doanh cho phù hợp. Ở nước ta hàng năm có từ 10 -13 cơn bão
nhiệt đới tràn qua và ai cũng biết rằng bão, lụt thường có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
13
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
sống sinh hoạt và làm ăn của tất cả mọi người. Cha ông ta thường coi lũ lụt là giặc thủy
bởi sức tàn phá ghê gớm của nó. Chính vì vậy các nhà quản trị không thể không tính
tới ảnh hưởng của bão, lũ, lụt trong các hoạt động kinh doanh của mình.
Thiên nhiên không phải là lực lượng chỉ gây ra tai họa cho con người, thiên
nhiên là cái nôi của cuộc sống. Đối với nhiều ngành công nghiệp thì tài nguyên thiên

nhiên như các loại khoáng sản, nước ngầm, lâm sản, hải sản v.v là nguồn nguyên liệu
cần thiết cho công việc sản xuất , kinh doanh của nó.
Bảo vệ, phát triển và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang là
một yêu cầu cấp bách, bức xúc tất yếu khách quan trong hoạt động của tất cả mỗi nhà
quản trị. Áp lực bảo vệ môi trường sạch và xanh, phong trào chống lãng phí trong việc
sử dụng tài nguyên thiên nhiên sẽ là những yếu tố càng ngày càng trở nên quan trọng
và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn đến những quyết định của hệ thống quản trị trong
mỗi tổ chức.
1.3.2 Môi trường vi mô

Đối thủ cạnh tranh
Trong nhóm đối thủ cạnh tranh có thể kể đến ba nhóm: (1) Đối thủ cạnh tranh
trực tiếp, (2) Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, và (3) Sản phẩm thay thế.

Đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Mọi tổ chức, ngay cả các công ty độc quyền đều có rất nhiều đối thủ cạnh tranh.
Chẳng hạn CocaCola phải cạnh tranh với Pepsi và một số công ty nước giải khát khác.
Không một nhà quản trị nào có thể coi thường môi trường cạnh tranh. Khi họ bỏ qua sự
cạnh tranh, họ phải trả một giá rất đắt.
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với các
công ty. Các đối thủ cạnh tranh với nhau quyết định tính chất và mức độ tranh đua,
hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành phụ thuộc vào đối thủ cạnh tranh. Mức độ
cạnh tranh phụ thuộc vào sự tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp tham
gia canh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định và mức độ đa
dạng hoá sản phẩm. Sự tồn tại của các yếu tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu và
hoặc nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt được và bảo vệ thị phần của mình,
chúng làm cho sự cạnh tranh thêm gay gắt. Các doanh nghiệp cần thừa nhận quá trình
cạnh tranh không ổn định. Thí dụ, trong các ngành sản xuất phát triển chín muồi
thường sự cạnh tranh mang tính chất dữ dội khi mức tăng trưởng và lợi nhuận bị suy
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa

14
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
giảm (mạch tích hợp IC, máy tính cầm tay ) Ngoài ra các đối thủ cạnh tranh mới và
các giải pháp công nghệ mới cũng thường làm thay đổi mức độ và tính chất cạnh tranh.
Các doanh nghiệp cần phân tích từng đối thủ cạnh tranh về mục tiêu tương lai,
nhận định của họ đối với bản thân và với chúng ta, chiến lược họ đang thực hiện, tiềm
năng của họ để nắm và hiểu được các biện pháp phản ứng và hành động mà họ có thể
có.

Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong
muốn giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết. Cần lưu ý là việc mua lại các cơ
sở khác trong ngành với ý định xây dựng thị trường thường là biểu hiện của sự xuất
hiện đối thủ mới xâm nhập.
Mặc dù không phải bao giờ doanh nghiệp cũng gặp phải đối thủ cạnh tranh tiềm
ẩn, song nguy cơ đối thủ mới hội nhập vào ngành vừa chịu ảnh hưởng đồng thời cũng
có ảnh hưởng đến chiến lược của doanh nghiệp. Bên cạnh những vấn đề đó, việc bảo
vệ vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn cản
sự xâm nhập từ bên ngoài, những hàng rào này là: lợi thế do sự sản xuất trên qui mô
lớn, đa dạng hoá sản phẩm, sự đòi hỏi của nguồn tài chính lớn, chi phí chuyển đổi mặt
hàng cao, khả năng hạn chế trong việc xâm nhập các kênh tiêu thụ vững vàng và ưu thế
về giá thành mà đối thủ cạnh tranh không tạo ra được (độc quyền công nghệ, nguồn
nguyên liệu thuận lợi hơn). Một hàng rào khác ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ
tiềm ẩn là sự chống trả mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã đứng vững. Hãng Xerox và
General Electric từng nhận thấy rằng lợi thế của sản xuất, nghiên cứu, marketing và
dịch vụ trên qui mô lớn là hàng rào ngăn cản sự xâm nhập vào ngành công nghiệp sản
xuất máy tính cở lớn.
Không am hiểu đối thủ cạnh tranh sẽ là một nguy cơ thực sự cho mọi hoạt động

về quản trị kinh doanh ở các tổ chức. Nghiên cứu kỹ lưỡng và vạch ra các đối sách phù
hợp luôn là một đòi hỏi khách quan cho các hoạt động quản trị ở mọi doanh nghiệp
trước đây cũng như hiện nay và mãi về sau này.

Sản phẩm thay thế
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
15
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Sức ép do có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do
mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý đến các sản phẩm thay thế tiềm ẩn,
doanh nghiệp có thể bị tụt lại với các thị trường nhỏ bé.
Phần lớn sản phẩm thay thế là kết quả của sự phát triển công nghệ. Muốn đạt
được thành công, các doanh nghiệp cần chú ý và dành nguồn lực để phát triển và vận
dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.

Nhà cung ứng
Khi nói đến các nhà cung ứng, chúng ta nghĩ ngay đến các Công ty Xí nghiệp
cung cấp vật liệu và máy móc. Đối với Công ty Walt Disney World ở Florida, điều này
bao gồm các công ty bán nước si rô cô đặc, máy vi tính, thực phẩm, hoa và các vật liệu
bằng giấy. Nhưng danh từ nhà cung ứng (suppliers) cũng chỉ người cung cấp tài chính
và lao động. Các cổ đông, ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng và các định chế
tương tự được cần đến để bảo đảm có được nguồn cung ứng về vốn. Công ty Exxon có
quyền khoan mỏ dầu và có thể kiếm được hàng tỷ đô la Mỹ về lợi nhuận, nhưng lợi
nhuận này chỉ là tiềm năng nếu công ty không có được vốn để khoan các mỏ dầu này.
Các công đoàn, các hội nghề nghiệp và thị trường lao động là nguồn cung ứng lao
động.
Các nhà cung ứng có ưu thế có thể tăng thêm lợi nhuận bằng cách nâng giá,
giảm chất lượng hoặc giảm mức độ dịch vụ đi kèm. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các
nhà cung ứng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm là

số người cung ứng ít, không có mặt hàng thay thế và không có các nhà cung ứng nào
chào bán các sản phẩm có tính khác biệt.
Trong những giai đoạn nhất định phần lớn các doanh nghiệp đều phải vay vốn
tạm thời từ các tổ chức tài chính. Nguồn vốn này có thể nhận được bằng cách vay ngắn
hạn hoặc dài hạn hoặc phát hành cổ phiếu. Khi doanh nghiệp tiến hành phân tích về các
tổ chức tài chính thì trước hết cần chú ý xác định vị thế của mình so với các thành viên
khác trong cộng đồng. Cần đặt ra các câu hỏi:
- Cổ phiếu của doanh nghiệp có được đánh giá đúng không?
- Các chủ nợ tiềm ẩn có chấp nhận danh sách trả nợ của doanh nghiệp không?
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
16
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
- Các điều kiện cho vay hiện tại của chủ nợ có phù hợp với các mục tiêu lợi
nhuận của doanh nghiệp không?
- Người cho vay có thể kéo dài thời hạn cho vay khi cần thiết không?
Nguồn lao động cũng là một phần chính yếu trong môi trường vi mô của doanh
nghiệp. Khả năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là đảm bảo điều kiện
tiên quyết cho sự thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố cần đánh giá là trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn của họ, mức độ hấp dẫn tương đối của doanh nghiệp với tư
cách là người sử dụng lao động và mức tiền công phổ biến.
Các nhà quản trị phải tìm cách bảo đảm có được các nguồn cung ứng nhập
lượng đều đặn và với giá thấp. Bởi các nhập lượng này tượng trưng cho các bất trắc -
tức là sự không có sẵn hoặc sự đình hoãn của chúng có thể làm giảm hiệu quả của tổ
chức - quản trị bị buộc phải cố gắng hết sức để có được nguồn cung ứng ổn định.

Khách hàng
Là người tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, khách hàng là một yếu
tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Không có khách hàng các doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn trong tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của mình. Như vậy khách hàng và nhu cầu

của họ nhìn chung có những ảnh hưởng hết sức quan trọng đến các hoạt động về hoạch
định chiến lược và sách lược kinh doanh của mọi công ty. Tìm hiểu kỹ lưỡng và đáp
ứng đầy đủ nhu cầu cùng sở thích thị hiếu của khách hàng là mục tiêu sống còn cho
mỗi doanh nghiệp nói chung và hệ thống quản trị của nó nói riêng.
Sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản có giá trị lớn lao của doanh nghiệp. Sự
tín nhiệm đó đạt được do biết thoả mãn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với
các đối thủ cạnh tranh.
Một vấn đề mấu chốt khác liên quan đến khách hàng là khả năng trả giá của họ.
Người mua có ưu thế có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá
xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải cung cấp nhiều dịch vụ hơn. Người
mua có thế mạnh nhiều khi họ có các điều kiện sau:
- Lượng mua chiếm tỉ lệ lớn trong khối lượng hàng hoá bán ra của doanh
nghiệp.
- Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém.
- Người mua đưa ra tín hiệu đe doạ đáng tin cậy là sẽ hội nhập về phía sau với
các bạn hàng cung ứng như các hảng sản xuất xe ô tô thường làm.
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
17
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
- Sản phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của người
mua.
Nếu sự tương tác của các điều kiện nói trên làm cho doanh nghiệp không đạt
được mục tiêu của mình thì doanh nghiệp phải cố thay đổi vị thế của mình trong việc
thương lượng giá bằng cách thay đổi một hoặc nhiều điều kiện nói trên hoặc phải tìm
khách hàng có ít ưu thế hơn.
Các doanh nghiệp cũng cần lập bảng phân loại khách hàng hiện tại và tương lai.
Các thông tin có được từ bảng phân loại này là cơ sở định hướng quan trọng cho việc
hoạch định chiến lược, nhất là các chiến lược liên quan trực tiếp đến marketing. Các
yếu tố chính cần xem xét là những vấn đề địa dư, tâm lý khách hàng v…

1.3.3 Môi trường nội bộ

Nhân tố vốn
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có
vốn. Doanh nghiệp có khả năng tài chính không những chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp
duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định mà còn giúp cho doanh nghiệp đầu tư
đổi mới trang thiết bị, tiếp thu công nghệ sản xuất-kinh doanh hiện đại hơn nhằm làm
giảm chi phí, nâng cao những mặt có lợi, khả năng tài chính. Mặt khác, còn nâng cao
uy tín cho doanh nghiệp, nâng cao tính chủ động khai thác và sử dụng tối ưu đầu vào.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định
tới quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn
phải được hình thành trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh và nó sẽ được
tiếp tục bổ sung sau mỗi chu kỳ sản xuất. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi vì
đồng nghĩâ với mất vốn là nguy cơ phá sản. Tại bất kỳ một doanh nghiệp, có ba vấn đề
quan trọng đầu tiên cần phải giải quyết là:
 Thứ nhất, xác định được mục tiêu cho đầu tư dài hạn
 Thứ hai, tìm được nguồn tài trợ cho đầu tư đó
 Thứ ba, đưa ra các quyết định tài chính cho hợp lý
Đất nước ta đang trong quá trinh phát triển theo mô hình kinh tế thị trường. Do
vậy, quản lý tài chính phải phù hợp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nước ta đã và
sẽ chủ động hội nhập vào khu vực ASEAN nên mức độ mở cửa thị trường hàng hoá,
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
18
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
dịch vụ, tài chính , đàu tư tiến tới đạt ngang bằng với các nước trong khối ASEAN,
từng bước tạo điều kiện về kinh tế, pháp lý để hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và
thế giới. Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất kinh
doanh và đồng thời cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng phát triển
kinh tế của một đất nước. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, doanh

nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, doanh
nghiệp làm ăn có lãi thì vốn mới được bảo toàn và phát triển đảm bảo cho doanh
nghiệp có khả năng tái sản xuất mở rộng, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Như vậy, vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ đảm bảo duy trì hoạt động của doanh nghiệp
mà còn là tiềm lực, là điều kiện quyết định đối với sự phát triển của doanh nghiệp.

Nhân tố con người
Con người điều hành và thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp, kết hợp các
yếu tố sản xuất tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội, để doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là vấn đề lao động.
Công tác tuyển dụng được tiến hành nhằm đảm bảo trình độ và tay nghề của người lao
động. Có như vậy thì kế hoạch sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh mới thực hiện được. Có thể nói chất lượng lao động là điều kiện cần
để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và công tác tổ chức lao động hợp lý là điều
kiện đủ để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Lực lượng lao động là nhân tố quan trọng liên quan trực tiếp đến năng suất lao
động, trình độ sử dụng các nguồn lực khác như vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu
nên tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay, hàm
lượng khoa học kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn đòi hỏi người lao động
phải có một trình độ nhất định để đáp ứng được các yêu cầu đó, điều này nói lên phần
nào quan trọng của nhân tố lao động.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh lực lượng lao động của doanh nghiệp có
thể vừa sáng tạo vừa đưa chúng vào và sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chăm lo việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu
của doanh nghiệp hiện nay, và thực tế cho thấy những doanh nghiệp mạnh trên thị
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
19
Luận văn tốt nghiệp Lớp:

08HQT1
trường thế giới là những doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn
cao, có tác phong làm việc khoa học và kỷ luật nghiêm minh.

Nhân tố quản trị doanh nghiệp và cơ cấu tổ chức
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chỉ đạo bởi bộ máy quản
trị của doanh nghiệp. Tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp từ quyết định mặt hàng
kinh doanh, kế hoạch sản xuất, quá trình sản xuất,huy động nhân sự, kế hoạch, chiến
lược tiêu thụ sản phẩm, các kế hoạch mở rộng thị trường, các công việc kiểm tra, đành
giá và điều chỉnh các quá trình trên, các biện pháp cạnh tranh, các nghĩa vụ với nhà
nước. Vậy sự thành công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh của toàn bộ doanh
nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều hành của bộ máy quản trị .
Bộ máy quản trị hợp lý, xây dựng một kế hoạch sản xuất kinh doanh khoa học
phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể
giữa các thành viên trong bộ máy quản trị, năng động nhanh nhạy nắm bắt thị trường,
tiếp cận thị trường bằng những chiến lược hợp lý, kịp thời nắm bắt thời cơ, yếu tố quan
trọng là bộ máy quản trị bao gồm những con người tâm huyết với hoạt động của công
ty sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả
cao.
Doanh nghiệp là một tổng thể, hoạt động như một xã hội thu nhỏ trong đó có
đầy đủ các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hoá và cũng có cơ cấu tổ chức nhất định. Cơ cấu
tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức là sự sắp xếp các phòng ban, các chức vụ trong doanh nghiệp, sự
sắp xếp này nếu hợp lý, khoa học, các thế mạnh của từng bộ phận và của từng cá nhân
được phát huy tối đa thì hiệu quả công việc là lớn nhất, khi đó không khí làm việc hiệu
quả bao trùm cả doanh nghiệp. Không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có cơ
cấu tổ chức hợp lý và phát huy hiệu quả ngay, việc này cần đến một bộ máy quản trị có
trình độ và khả năng kinh doanh, thành công trong cơ cấu tổ chức là thành công bước
đầu trong kế hoạch kinh doanh.
Ngược lại nếu cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bất hợp lý, có sự chồng chéo về

chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng, các bộ phận hoạt động kém hiệu quả, không khí
làm việc căng thẳng cạnh tranh không lành mạnh, tinh thần trách nhiệm và ý thức xây
dựng tổ chức bị hạn chế thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không cao.

Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng khoa học kỹ thuật
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
20
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Doanh nghiệp phải biết luôn tự làm mới mình bằng cách tự vận động và đổi
mới, du nhập những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời đại liên quan đến lĩnh vực sản xuất
của doanh nghiệp mình. Vấn đề này đóng một vai trò hết sức quan trọng với hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh vì nó ảnh hưởng lớn đến vấn đề năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm. Sản phẩm dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật lớn mới có chỗ đứng
trong thị trường và được mọi người tin dùng so với những sản phẩm dịch vụ cùng loại
khác.
Kiến thức khoa học kỹ thuật phải áp dụng đúng thời điểm, đúng quy trình để tận
dụng hết những lợi thế vốn có của nó nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hay tăng
năng suất lao động đưa sản phẩm dịch vụ chiếm ưu thế trwn thị trường nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KINH DOANH TẠI
CÔNG TY CP LONG PHƯƠNG ĐÔNG
2.1 Tổng quan về Công ty CP Long Phương Đông
2.1.1 Giới thiệu chung về công ty
Tọa lạc trên khu đất 120m mặt tiền đường Tô Hiến Thành, P. 15, Q. 10 – trục
đường kinh doanh vật liệu xây dựng và trang trí nội thất nổi tiếng của Thành phố Hồ
Chí Minh – là vị trí đặt showroom trưng bày sản phẩm và trung tâm kinh doanh của
Công ty CP Công Nghiệp và Thiết Bị Chiếu Sáng DUHAL. Trải qua nhiều giai đoạn
thăng trầm, ngày 24 tháng 07 năm 2006 trung tâm đã phát triển lên một tầm cao mới
bằng việc ra đời của Công ty CP Long Phương Đông, hoạt động độc lập với Công ty

CP Công Nghiệp và Thiết Bị Chiếu Sáng DUHAL, tồn tại và phát triển đến tận hôm
nay.
Bằng sự phấn đấu và nổ lực không ngừng nghỉ của tập thể cán bộ - nhân viên
công ty, đến nay Công ty CP Long Phương Đông đang là một trong những nhà phân
phối hàng đầu các mặt hàng thiết bị chiếu sáng mang thương hiệu DUHAL, PHILIPS,
OSRAM,…cung ứng sản phẩm cho các dự án xây dựng trong và ngoài Thành phố Hồ
Chí Minh.
2.1.2 Chức năng, lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
21
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Sản xuất, mua bán mặt hàng điện – điện tử - điện lạnh, thiết bị ngành điện, thiết
bị chiếu sáng, sản phẩm gỗ, hàng trang trí nội thất, hàng kim khí điện máy, vật liệu xây
dựng, sắt thép, sản phẩm bằng cao su. Mua bán vật tư ngành nông nghiệp. Đại lý hàng
hải,… Lĩnh vực hoạt động chính: kinh doanh mặt hàng thiết bị chiếu sáng.
2.1.3 Cơ cấu tổ chức
2.1.3.1 Sơ đồ tổ chức
2.1.3.2 Cơ cấu tổ chức
Tổng số hiện có: 27 người
Hội đồng quản trị: 2 người
Ban giám đốc: 1 người
Bộ phận dự án: 1 Trưởng phòng, 1 Thư ký, 4 Tổ trưởng, 10 nhân viên
Bộ phận kế toán: 1 kế toán trưởng, 1 nhân viên
Bộ phận showroom: 1 trưởng bộ phận, 1 nhân viên
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
22
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
GIÁM ĐỐC
TP. DỰ ÁN BP. KẾ TOÁN

TỔ
3
TỔ
2
TỔ
1
GIAO
HÀNG
TẠP
VỤ
BP.
KHO
TỔ
4
SHOWROOM
BẢO VỆ
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Bảo vệ: 2 người
Giao hàng: 1 người
Kho: 1 người
Tạp vụ: 1 người
Chi nhánh: 4 người
2.1.3.3 Cách thức quản lý, hoạt động
Công ty hoạt động, quản lý theo nguyên tắc thống nhất “Một người chỉ huy”.
Giám đốc là người tổ chức, điều hành và chịu trách nhiệm toàn diện về mọi hoạt động
của công ty.
Ngoài ra, Giám đốc còn thực hiện chức năng ủy quyền cho Trưởng phòng Dự án
trong trường hợp Giám đốc vắng mặt bằng văn bản ủy quyền. Đồng thời, Trưởng
phòng Dự án còn có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc.

Các bộ phận trực thuộc công ty được phân công rõ ràng về chức trách và các
Trưởng bộ phận có trách nhiệm chỉ huy, sử dụng các nguồn lực có sẳn của bộ phận
mình hoàn thành nhiệm vụ được giao, phối hợp với các bộ phận khác cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược công ty đề ra và phải chịu trách nhiệm trước
Giám đốc công ty về hoạt động của bộ phận mình quản lý.
2.1.3.4 Sản phẩm kinh doanh và thị trường tiêu thụ
Mặt hàng kinh doanh chính của công ty là thiết bị chiếu sáng và phụ kiện chiếu
sáng cung cấp cho dự án xây dựng dân dụng và công nghiệp. Ngoài thương hiệu chính
là DUHAL, công ty còn là nhà phân phối các thương hiệu nổi tiếng khác trong ngành
chiếu sáng như PHILIPS, OSRAM,…
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là các dự án xây dựng ở TP. Hồ Chí
Minh và các tỉnh lân cận. Chủ yếu là các dự án xây dựng có quy mô lớn như: Cao ốc
văn phòng, cao ốc phức hợp, căn hộ cao cấp, chung cư, nhà xưởng, bệnh viện,…Khách
hàng chủ yếu là các nhà thầu xây dựng, các công ty kỹ thuật điện, công ty thương mại,
chủ đầu tư dự án.
2.2 Thực trạng kinh doanh của công ty
2.2.1 Về mặt kinh tế
2.2.1.1 Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty
2.2.1.1.1 Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 2.1: Bảng so sánh một số chỉ tiêu báo cáo kết quả kinh doanh năm 2008-2009
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
23
Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
Chỉ tiêu 2008 2009 So sánh
Chênh lệch %
Doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ
19 554 078 989 17 071 535 020 - 2 482 543 969 - 12.69
Giá vốn hàng bán 14 933 888 171 13 301 613 038 - 1 632 275 133 - 10.93

Chi phí bán hàng 961 813 744 563 307 582 - 398 506 162 - 41.43
Chi phí quản lý doanh nghiệp 1 563 155 075 1 570 627 939 + 7 472 864 + 0.47
(Số liệu trích từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2008 và năm 2009 – Phòng kế toán)
Qua bảng so sánh một số chỉ tiêu của năm 2008 và năm 2009 ta thấy, ngoại trừ
chỉ tiêu chi phí quản lý doanh nghiệp tăng nhẹ thì các chỉ tiêu còn lại của năm 2009
đều giảm so với năm 2008. Cụ thể như sau:
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Năm 2009 chỉ tiêu này giảm
(-)12.69% so với năm 2008, tương ứng với giảm 2 482 543 969đ. Nguyên nhân của
việc giảm sút này là do năm 2009 tình hình kinh tế cả nước nói chung đang gặp khó
khăn do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, thị trường xây dựng
nói riêng chưa phục hồi cộng thêm khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp xây
dựng và chủ đầu tư dự án đã làm nhu cầu tiêu thụ mặt hàng chiếu sáng giảm sút đã ảnh
hưởng lớn doanh số bán hàng của công ty.
- Giá vốn hàng bán: Chỉ tiêu này của năm 2009 giảm (-)10.93% tương ứng với
số tiền là 1 632 275 133đ so với năm 2008. Do tình hình tiêu thụ gặp khó khăn, lượng
hàng bán ra giảm sút nên lượng hàng nhập vào cũng giảm theo. Do vậy giá trị giá vốn
hàng bán năm 2009 giảm so với năm 2008.
- Chi phí bán hàng của năm 2009 giảm (-)41.43% tương ứng với số tiền 398 506
162đ so với năm 2008. Do tình hình tiêu thụ gặp khó khăn nên chi phí bán hàng mà
chủ yếu là các khoản như chi phí vận chuyển, huê hồng cho người mua, chi phí quảng
cáo, chi phí mua nguyên liệu phục vụ cho công tác bán hàng, chi phí mua ngoài cũng
bị cắt giảm.
- Ngược lại, chi phí quản lý doanh nghiệp của năm 2009 lại tăng hơn một chút
so với năm 2008. Cụ thể năm 2009 chi phí quản lý doanh nghiệp tăng (+)0.47% so với
năm 2008 tương ứng với số tiền 7 472 864đ. Mức tăng khá nhỏ nhưng trong tình hình
hiện tại là không tốt cho công ty. Năm 2009 do tình hình lạm phát nên đơn giá của các
mặt hàng, dịch vụ đều cao hơn năm 2008 đã ảnh hưởng đến chi phí quản lý. Chi phí
quản lý chủ yếu là lương cán bộ - nhân viên quản lý, chi phí mua ngoài, chi phí điện
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
24

Luận văn tốt nghiệp Lớp:
08HQT1
nước,… Các khoản này chịu ảnh hưởng của lạm phát nên tăng lên hoặc công ty phải trả
nhiều hơn để phù hợp với tình hình chung.
Bảng 2.2: Bảng so sánh một số chỉ tiêu báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009-2010
Chỉ tiêu 2009 2010
So sánh
Chênh lệch %
Doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ
17 071 535 020 29 028 105 480 + 11 956 570 460 + 70.04
Giá vốn hàng bán 13 301 613 038 23 074 804 662 + 9 773 191 624 + 73.47
Chi phí bán hàng 563 307 582 1 767 427 569 + 1 204 119 987 + 213.76
Chi phí quản lý doanh nghiệp 1 570 627 939 2 171 041 215 + 600 413 276 + 38.22
(Số liệu trích từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009 và năm 2010 – Phòng kế toán)
Đánh giá tổng quát thì các chỉ tiêu (trong bảng so sánh) của năm 2010 đều tăng
hơn năm 2009.
- Doanh thu bán hàng của năm 2010 tăng (+)70.04% so với năm 2009 tương
ứng với số tiền 11 956 570 460đ. Tốc độ tăng trưởng cao biểu hiện tình hình kinh
doanh của năm 2010 tốt hơn năm 2009. Năm 2010 ngành xây dựng phát triển mạnh trở
lại, dự án xây dựng nhiều hơn nên nhu cầu tiêu thụ mặt hàng chiếu sáng tăng lên. Do
vậy công ty cung cấp được nhiều đơn hàng hơn nên doanh thu bán hàng tăng cao. Mặt
khác, giá hàng bán năm 2010 cũng cao hơn năm 2009 cũng góp phần làm doanh thu
bán hàng cao.
- Giá bán cao mà cụ thể là đơn giá của hàng mua vào cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến chỉ tiêu giá vốn hàng bán. Giá vốn hàng bán năm 2010 cao hơn năm 2009 là
73.47%, tương ứng với số tiền 9 773 191 624đ. Mặt hàng bán chủ lực của công ty là
DUHAL và PHILIPS. Năm 2010, DUHAL tăng giá 2 lần và PHILIPS tăng 3 lần. Mặt
khác, năm 2010 tình hình tiêu thụ tốt, lượng hàng bán ra nhiều nên công ty phải nhập
hàng vào nhiều hơn năm 2009. Do vậy giá vốn hàng bán năm 2010 cao hơn năm 2009.

Giá vốn hàng bán cao ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận công ty.
- Doanh thu bán hàng tăng nên chi phí cũng tăng theo. Chi phí bán hàng của
năm 2010 tăng (+)213.76% so với năm 2009, tương ứng số tiền là 1 204 119 987đ.
Tình hình tiêu thụ tốt nên công ty phải đẩy mạnh công tác bán hàng để thu được doanh
số cao nhất. Do vậy các chi phí phục vụ cho công tác bán hàng cũng tăng theo. Công ty
SVTH: Trần Hoàng Chương GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu Hòa
25

×