Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.6 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 đi qua, với những biến động về giá cả các mặt hàng chiến lược,
những tranh chấp, xung đột về chính trị, tôn giáo cùng với sự bộc phát về
thiên tai, dịch bệnh...đã tác động không nhỏ đến sự bình ổn và phát triển
của nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh chung đó, nền kinh tế việt nam tiếp tục có một năm phát
triển đáng ghi nhận thể hiện qua mức tăng GDP 8,2%, qua tình hình chính
trị xã hội ổn định, thu hút đầu tư nước ngoài tăng cao và đời sống của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện, đặc biệt là việt nam đã gia nhập vào
WTO, vai trò và vị thế của việt nam ngày càng được nâng cao trên chính
trường quốc tế và khu vực
Hoà với thành công chung của đất nước, các ngân hàng thương mại đã rất
nỗ lực trong việc đầu tư ứng dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng
dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm để nhằm nâng cao sức cạnh tranh, từng
bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. có thể khẳng định năm 2006 là
một năm thành công của ngân hàng thương mại cổ phần vpbank. được
thành lập ngày 04/09/1993, qua hơn 13 năm phát triển, đã ghi nhận những
bước phát triển vững chắc của ngân hàng, và gặt hái được nhiều thành
công
Trong những thành công của VPBank,nổi bật là việc tài trợ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.Đây chính là một trong những hoạt động kinh doanh chính
và nó đã góp phần mang lại sự thành công cũng như tên tuổi của
VPBank.Trong quá trình thực tập tại đây,em đã nhận thấy rằng đây là một đề
tài hấp dẫn và em đã quyết định làm chuyên đề tốt nghiệp về đề tài ”Mở rộng
hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank”.Mặc
dù hết sức cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên tập
1
chuyên đề này không thể tránh khỏi sai sót.Em rất mong sụ đóng góp của thầy
để tạp chuyên đề này được trở nên tốt hơn trong lần sau.
2
CHƯƠNG 1


HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN).
1.1.1. Khái niệm DNVVN.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được
của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể
khác. Việc phân chia DNVVN dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp. Theo
tiêu thức này doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp lớn, DNVVN. Có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm DNVVN nhưng khái niệm chung nhất về
DNVVN có nội dung như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách
pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá
trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt
vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn cứ
vào quy mô đó là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu
nhỏ.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số
lượng lao động từ 10 người đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50
người đến 300 lao động.
Mỗi nước đều có tiêu chí riêng để xác định DNVVN ở nước mình.
Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được đưa ra ở điều 3, Nghị định
90/2001/NĐ – CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sảng xuất, kinh doanh độc lập, đã
3
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động hằng năm không quá 300 người.”
Theo điều 4 các DNVVN bao gồm:

- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Như vậy có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Một số tiêu thức như
vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ biến
trên thế giới cũng giống như ở Việt Nam. Trong đó, hai tiêu thức được sử
dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tuy nhiên,
mỗi một nước, mỗi một nền kinh tế lại lựa chọn các tiêu chuẩn khác nhau,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước: Thông thường các nước
có trình độ phát triển càng cao thì quy định về chỉ tiêu quy mô vốn cũng như
lao động cao hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Ví dụ như ở
Nhật Bản doanh nghiệp có số vốn dưới 1 triệu USD và lao động dưới 300
người được coi là DNVVN, nhưng ở các nước chậm phát triển như Việt Nam
hay là Lào, Campuchia thì đó lại là doanh nghiệp lớn.
Các giới hạn tiêu chuẩn này thay đổi theo thời gian sao cho phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn. Khi nền kinh tế tăng
trưởng, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp mở rộng thì giới hạn tiêu
chuẩn sẽ được điều chỉnh lại. Hoặc khi nền kinh tế suy thoái, các doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả, một số doanh nghiệp phá sản hoặc bị sáp
nhập, giải thể, số lượng các doanh nghiệp giảm. Lúc đó tiêu chuẩn để phân
4
loại DNVVN cũng sẽ thay đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các
doanh nghiệp.
Theo ngành nghề khác nhau: do mỗi ngành nghề có tính chất, đặc trưng
riêng nên việc phân biệt quy mô vốn cũng như lao động sử dụng riêng cho
từng ngành nghề cũng khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, các doanh

nghiệp ở khu vực sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 lao
động, trong khi đó thương mại- dịch vụ có số vốn dưới 300.000USD và dưới
100 lao động thì đều thuộc DNVVN. Ở Việt Nam, đối với doanh nghiệp công
nghiệp, doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ 50
người trở xuống, còn các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ số lao động
dưới 30 người.
Đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia.
Với mục tiêu phát triển ổn định và bền vững kinh tế - xã hội, các nước đều
đưa ra những tiêu thức phân loại DNVVN dùng làm căn cứ thiết lập những
chính sách phát triển và hỗ trợ DNVVN. Điều này hết sức quan trọng, ảnh
hưởng tới tổng thể nền kinh tế vì các DNVVN thường chiếm tỷ lệ lớn.
Như vậy, việc xác định rõ các tiêu thức để phân loại DNVVN có ý nghĩa
rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách
ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ
thống các doanh nghiệp này.
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển
kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính
phủ có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu
quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này.
Chính vì vậy số lượng DNVVN tăng lên đáng kể. Nếu đem tiêu chí DNVVN
là dưới 300 lao động và vốn dưới 10 tỷ đồng thì số doanh nghiệp năm 2005
có tới 96,81% thuộc nhóm vừa và nhỏ, trong đó:
* Quy mô về lao động:
5
- Số doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51,3%.
- Số doanh nghiệp từ 10 đến dưới 200 lao động chiếm 44,07%.
- Số doanh nghiệp từ 200 đến 300 lao động chiếm 1,43%.
* Quy mô về vốn:
- Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%.
- Số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng chiếm 37,03%.

- Số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng chiếm 8,18%.
1.1.2. Những lợi thế và bất lợi thế của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Những lợi thế của DNVVN.
 Số lượng DNVVN chiếm tỷ lệ lớn.
Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các DNVVN khá thấp: quy mô vốn và số
lượng lao động khá thấp nên đa phần các DN trong nền kinh tế thị trường đều
thuộc nhóm DNVVN. Số lượng các DNVVN này thường chiếm từ 70% đến
80%, thậm chí có nước 90%. Hơn nữa, do đặc trưng của các DNVVN là hoạt
động trên tất cả các lĩnh vực ngành nghề nên hầu hết trong nền kinh tế số
lượng các doanh nghiệp này chiếm ưu thế tuyệt đối.
Từ khái niệm DNVVN là “ cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” cho thấy tuyệt
đại đa số các doanh nghiệp của Việt Nam đều là DNVVN. Tính đến
31/12/2005 số DNVVN thực tế đang hoạt động trong cả nước là khoảng
113.000 doanh nghiệp, tăng thêm 23,54% so với 31/12/2004 và gấp 2,7 lần so
với năm 2000. Bình quân năm 2001-2005, số doanh nghiệp thực tế hoạt động
tăng 28%. Hơn nữa, các DNVVN ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu
đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm
nhiều. Với quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và
6
Nhà nước ta mà các DNVVN ngày càng có nhiều cơ hội để phát triển. Vì vậy
mà số lượng các DNVVN tăng lên đáng kể. Hiện cả nước có 200.000
DNVVN và theo dự kiến sẽ thành lập thêm 320.000 DN mới để đưa tổng số
lên khoảng 500.000 DN vào năm 2010.
 Khả năng linh hoạt cao, năng động trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Các DNVVN không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh
hoạt và năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng cao.
DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên dễ

thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường. Điều này được thể hiện qua
khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh
chóng của nhu cầu trên thị trường. Trước những biến động của thị trường,
đứng trước nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, các
DNVVN rất linh động và mạnh dạn đầu tư sản xuất, cải tiến và trang bị công
nghệ với chi phí bổ sung không cao. Hơn nữa, các DNVVN cần ít diện tích
sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất phân tán. Khả năng này phát huy
được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tận dụng được các
nguồn lực phân tán, đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản
xuất.
Môi trường cạnh tranh do có sự tham gia của số lượng đông đảo DNVVN
khiến cho số lượng và chủng loại hàng hoá sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết
quả là tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới
mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới.
Những yếu tố đó tạo ra sự năng động cho chính bản thân các DNVVN. Năng
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển.
 DNVVN chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoạt động trên
tất cả các ngành nghề.
7
Nói đến DNVVN ở Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh
nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình
thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta nên đại bộ phận các
DNVVN theo quy định hiện hành của pháp luật đề thuộc khu vực ngoài quốc
doanh. Bởi đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp này đều mang tính đại
diện cho DNVVN ở Việt Nam. Các DNVVN bao gồm đầy đủ các loại hình
pháp nhân theo quy định hiện hành nhưng chủ yếu bao gồm các loại hình
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Hiện nay DNVVN chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp cả nước. Điều đó
chứng tỏ DNVVN có mặt trong hầu hết mọi thành phần kinh tế với các loại
hình khác nhau. Các DNVVN hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội

nhưng tập trung thủ yếu trong ba lĩnh vực chính là công nghiệp, xây dựng;
thương mại, dịch vụ đời sống và dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách…
1.1.2.2. Những bất lợi thế của DNVVN.
 Vốn và tín dụng.
Vốn là điều kiện đầu tiên để một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình hoạt động
của doanh nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho sản xuất được liên
tục.
DNVVN có tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu
động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có
điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu
tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân các DNVVN hoạt động theo
hướng tự huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, từ các mối quan hệ họ hàng,
thân quen… là chủ yếu. Tuy nhiên, vốn từ nguồn này rất ít, thông thường là
vốn ban đầu để hoạt động sản xuất kinh doanh.
8
Ngoài ra, DNVVN có thể huy động vốn từ nguồn tín dụng ngân hàng. Tuy
nhiên, đây lại là khó khăn nhất đối với các DNVVN hiện nay khi mà các
DNVVN chưa tiếp cận được với nguồn tín dụng ngân hàng, hoặc sự tiếp cận
còn rất mỏng manh. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng
cũng như phải chịu sự giám sát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Hơn
nữa, năng lực nội tại của DNVVN thấp, các chỉ tiêu tài chính không đảm bảo
yêu cầu của ngân hàng, các DNVVN lại không có tài sản có giá trị để đảm
bảo cho khoản vay.
 Nguồn nhân lực
Số lượng các DNVVN lớn nên thu hút một lượng lớn lực lượng lao động
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trình độ cũng như tay
nghề lao động chưa cao. Các DNVVN đầu tư vào tài sản cố dịnh ít do nguồn
vốn ít nên họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là với
những nước có nguồn lao động dồi dào và nhân công rẻ. Đây vừa là thuận lợi

nhưng cũng là bất lợi cho các DNVVN.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế và khu vực, để tồn tại và phát triển đòi hỏi
các doanh nghiệp phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và nghề
nghiệp cao. Nhưng trình độ học vấn của đội ngũ lao động trong các DNVVN
lại rất thấp. Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ
thuộc rất lớn vào người sáng lập ra chúng. Sự có mặt của đội ngũ các nhà
khởi sự doanh nghiệp này cùng với khả năng và trình độ, nhận thức của họ về
tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động to lớn
đến hoạt động của từng DNVVN. Tuy nhiên, phần lớn các chủ DNVVN chưa
được đào tạo bài bản, chủ yếu hoạt động dựa vào kinh ngiệm, thiếu những
kiến thức về thị trường và chưa được hỗ trợ những thông tin cần thiết. Chủ
doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm khoảng 56%,
chỉ có khoảng 40% chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên nhưng họ
9
cũng ít được đào tạo kiến thức chuyên môn về kinh tế và quản trị doanh
nghiệp.
Đối với đội ngũ lao động, trình độ chuyên môn nghề nghiệp còn rất hạn
chế. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các DNVVN không đủ kinh
phí để đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động. Lực lượng lao
động trong các DNVVN chủ yếu trưởng thành từ thực tiễn học hỏi và kinh
nghiệm, chỉ có một số ít được đào tạo qua trường lớp chính quy.
Trong số các cơ sở đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp thì hơn 90%
là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trung bình mỗi doanh nghiệp có 19
lao động. Nhiều doanh nghiệp 100% lao động chưa qua đào tạo nghề ở trường
lớp. Trong đó khoảng 25% số doanh nghiệp tư nhân được phát triển trên cơ sở
các hộ cá thể, 28% chủ doanh nghiệp là những cán bộ nhà nước đã nghỉ theo
chế độ. Do vậy, khả năng quản lý cả về kỹ thuật và kinh doanh còn nhiều hạn
chế.
Trình độ khoa học công nghệ và quản lý.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã

mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự phát triển của DNVVN. Nó giúp doanh
nghiệp có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, chủ động trong việc lựa chọn,
ứng dụng công nghệ mới. Từ đó khắc phục khó khăn do quy mô nhỏ bằng khả
năng sản xuất nhanh hơn, rẻ hơn, nhanh hơn nhờ ứng dụng công nghệ mới.
Tuy nhiên, đây lại là một thách thức đối với DNVVN khi mà nguồn vốn cũng
như trình độ nhân lực hạn chế thì việc thay đổi công nghệ phù hợp là rất ít. Vì
vậy, đổi mới khoa học công nghệ chưa được các chủ doanh nghiệp đánh giá
đúng đắn tầm quan trọng cũng như tính cấp bách. Các DNVVN chỉ có thể đổi
mới công nghệ từng phần, từng công đoạn sản xuất nên dễ dẫn đến việc chắp
vá, thiếu tính đồng bộ và thống nhất.
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới về mặt
khoa học công nghệ, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển
10
giao từ các nước phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị
còn chậm, chưa đồng bộ và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện
nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng các công nghệ lạc hậu, xen lẫn với các
công nghệ trung bình và tiên tiến. Điều này làm hạn chế hiệu quả vận hành
thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu ra và đầu
vào.
Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so
với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ và chủ yếu là nhập khẩu. Hầu hết
các dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu đều đã khấu hao hết
và được tân trang lại hoặc là do các doanh nghiệp nước ngoài thải bỏ. Điều
này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất
lượng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng
suất, hạ giá thành sản phẩm.
 Phân bố phân tán, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Quy mô nhỏ, phân tán là một trong những bất lợi đối với các DNVVN. Số
lượng DNVVN nhiều, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nhưng lại
thiếu sự tập trung. Các doanh nghiệp phân bố phân tán khắp các vùng miền.

Hoạt động của các DNVVN diễn ra nhỏ lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết hỗ trợ
nhau. Do đặc điểm vốn thấp, vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh của chính
doanh nghiệp đã khó nên việc liên doanh, liên kết lại càng khó khăn hơn.
Tóm lại quy mô nhỏ, phân tán đi kèm với thủ công lạc hậu là hạn chế bất
cập lớn nhất của doanh nghiệp nước ta, từ đó chi phối đến nhiều yếu kém
khác như: Sức cạnh tranh thấp, hiệu quả kinh doanh không cao, lao động
thiếu tính ổn định và bền vững lâu dài.
 Sức cạnh tranh và tiếp cận thị trường
Các DNVVN khó tiếp cận được với cả thị trường trong nước và quốc tế.
Sức cạnh tranh của các DNVVN còn ở mức độ thấp. Hiệu quả công tác
11
nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng
chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị
trường do không đi sâu và nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp cũng
có nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nhưng do vốn ít, năng lực
hạn chế, chi phí lại khá tốn kém, trình độ tìm kiếm, khai thác và xử lý thông
tin của chủ doanh nghiệp còn yếu nên chưa hiệu quả.
Các DNVVN với năng lực tài chính hạn chế, công nghệ còn yếu kém nên
hiệu quả hoạt động chưa cao. Cộng thêm với kiểu dáng sản phẩm đơn điệu,
chất lượng sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên vừa
khó tiếp cận với thị trường, vừa thiếu năng lực cạnh tranh.
1.1.3. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước. Ở nhiều
quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển DNVVN luôn là nền tảng
của nên kinh tế, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế.
Chính phủ các nước cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của DNVVN.
1.1.3.1. Góp phần tăng trưởng và ổn đinh kinh tế - xã hội.
Trước hết, các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, thậm chí áp
đảo trong tổng số doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh của các DNVVN cả về
số lượng và chất lượng đã đóng góp quan trọng vào GDP. Ở các quốc gia trên

thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, DNVVN chiếm 90% số lượng doanh
nghiệp, đóng góp từ 25%-33% giá trị GDP hàng năm. Vì vậy, việc phát triển
DNVVN đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là
các nước đang phát triển.
Vì DNVVN có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hoạt động. Các doanh
nghiệp này thường hoạt động rất năng động và linh hoạt trong nền kinh tế nên
kéo theo nền kinh tế năng động theo. Sự góp mặt đáng kể của các doanh
12
nghiệp này khiến cho các doanh nghiệp lớn cũng phải điều chỉnh theo, tạo đà
cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
Hoạt động đa năng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, DNVVN đã
và đang cung cấp một khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ đáng kể cho nền kinh
tế. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các
DNVVN có nhiều lợi thế trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng
nhu cầu trong nước và ngoài nước. Các DNVVN cũng đóng góp một phần
vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Ở các nước đang phát triển, một số ngành
nghề có lợi thế xuất khẩu như: nông sản, thủ công mỹ nghệ, chế biến thủy hải
sản, dệt may…thì đều do các DNVVN sản xuất. Từ đó, tạo nguồn thu nhập ổn
định cho dân cư.
1.1.3.2. Phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Về tiềm lực vốn: Các DNVVN có thể thành lập và hoạt động mà không cần
quá nhiều vốn. Điều này đã thu hút được đông đảo người dân tham gia đầu tư,
đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa, lợi thế của các
DNVVN là có thể dễ dàng huy động được vốn từ người thân, bạn bè…và biến
các khoản tiền này thành các khoản đầu tư có hiệu quả.
Về nguồn lao động: Chiếm ưu thế về số lượng, DNVVN đã và đang thu hút
một lượng lớn lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thông
thường nguồn lao động chiếm tỷ lệ từ 60 – 80% trong tổng số lao động trong
nền kinh tế. Các DNVVN chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực thương mại- dịch vụ
nên nhu cầu lao động nhiều. Một đặc điểm là lao động trong khu vực này

thường là lao động đơn giản, không mất nhiều thời gian đào tạo, chỉ cần bồi
dưỡng ngắn ngày là họ có thể tham gia sản xuất được. Đặc biệt, đối với những
nước đang phát triển, nguồn lao động tay nghề và trình độ thấp nhiều. Chính
các DNVVN là nơi vừa tạo công ăn việc làm cho họ, vừa tận dụng nguồn lao
động sẵn có mà chi phí nhân công lại rẻ. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp lớn
hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, việc giảm biên chế là không thể
13
tránh khỏi nhằm giảm bớt chi phí hoạt động. Do vậy, lượng lao động dư thừa
từ các doanh nghiệp lớn lại chính là nguồn cung lao động cho các DNVVN.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế chung, các DNVVN cũng
xuất hiện nhiều hơn. Mà đứng đầu là các chủ doanh nghiệp. Đây là lực lượng
rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Ngày nay,
nhiều gương mặt trẻ tài năng đã tự mình thành lập và vận hành doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả. Chính từ đây mà đội ngũ cán bộ, nhà kinh doanh có
trình độ, kỹ năng đã ra đời. Với khả năng am hiểu thị trường, trình độ quản lý
chyên nghiệp, cùng với sự năng động và linh hoạt, họ đã và đang khẳng định
vai trò to lớn của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
Về tài nguyên thiên nhiên: Các DNVVN khai thác, phát huy các nguồn lực
và tiềm năng tại chỗ của địa phương hiệu quả. Phân bố phân tán giúp cho
DNVVN có thể tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương.
1.1.3.3. Phân phối thu nhập có hiệu quả trong nền kinh tế.
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có nguồn
lao động. Sự phát triển vượt bậc của các DNVVN cả về số lượng và chất
lượng đã góp phần không nhỏ vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
việc làm cho xã hội. Nếu như các doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở tại các
trung tâm kinh tế lớn của đất nước thì các DNVVN lại có mặt ở các địa
phương. Khả năng sản xuất phân tán, sử dụng lao động tại chỗ đã góp phần
làm giảm thất nghiệp, một bài toán xã hội nan giải.
DNVVN tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần
giảm bớt chênh lệch về thu nhập cho các bộ phận dân cư. Từ đó, tạo ra sự

phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng miền khác nhau và cải thiện mối
quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
1.1.3.4. DNVVN có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong nền kinh
tế.
14
DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại tất yếu khách
quan trong nền kinh tế của mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ, gắn bó chặt
chẽ với các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn thường tập trung vào những
đoạn thị trường có quy mô lớn và không thể bao quát được toàn bộ thị trường.
Trong khi đó thị trường mục tiêu của các DNVVN lại tập trung vào những “
thị trường ngách” nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị
trường, cân đối cung cầu trong xã hội. Với vai trò là một kênh phân phối có
hiệu quả, các DNVVN vừa cung cấp các yếu tố đầu vào vừa là thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Có thể nói với số vốn hoạt động không nhiều, một số DNVVN
hoạt động trên thị trường nguyên vật liệu trở thành những vệ tinh cung cấp
các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp lớn. Một số DNVVN khác lại trở
thành thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn ví dụ như mua
máy móc, thiết bị, vật tư cần thiết… phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh.
Sự tham gia của các DNVVN trên thị trường làm cho số lượng và chủng
loại hàng hóa, dịch vụ không ngừng tăng lên. Với khả năng tiếp cận và đổi
mới công nghệ, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, các DNVVN buộc
phải đổi mới phương thức hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm, tăng năng suất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành… Điều này dẫn đến tính chất
cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Đứng trước thách thức này, các
doanh nghiệp lớn cũng phải thường xuyên đổi mới và nâng cao năng lực hoạt
động nhằm tạo ra những lợi thế nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh với các
DNVVN. Những yếu tố đó có tác động lớn làm nền kinh tế năng động, hiệu
quả hơn.
1.2. Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM

Cho vay là hình thức khách hàng sử dụng vốn của ngân hàng với cam kết là
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Có nhiều hình
thức cho vay: thấu chi, cho vay từng lần, cho vay gián tiếp, cho vay theo hạn
15
mức, cho vay trả góp… Cho vay thường được định lượng bằng hai chỉ tiêu:
doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Dựa vào hai chỉ tiêu này ta sẽ
biết được kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Mở rộng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về
quy mô cho vay. Nói cách khác là làm tăng tỷ trọng khoản cho vay trong tổng
tài sản có của NHTM. Mở rộng cho vay dựa trên cơ sở đa dạng hoá khách
hàng, các loại hình dịch vụ cũng như đối tượng cho vay. Mở rộng cho vay
DNVVN tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển, mở rộng sản xuất
kinh doanh.
1.2.1 Sự cần thiết của mở rộng cho vay đối với DNVVN của NHTM
Sự cần thiết của mở rộng cho vay đối với DNVVN thể hiện qua vai trò của
tín dụng ngân hàng thương mại.
Tiếp cận vốn tại các NHTM luôn là mối quan tâm không chỉ của các doanh
nghiệp mà còn là của các ngân hàng. Nhu cầu vốn tín dụng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất lớn. Vậy tín dụng ngân hàng có vai
trò như thế nào đối với sự phát triển của các doanh nghiệp?
Tín dụng ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNVVN.
Trong nền kinh tế thường có nhiều nguồn vốn nhàn rỗi. Chẳng hạn như một
số các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất của các
doanh nghiệp như tiền khấu hao tài sản cố định, tiền trả lương cho người lao
động nhưng chưa đến hạn trả, tiền tích luỹ để tái sản xuất nhưng chưa đủ điều
kiện để đầu tư… Các khoản tiền này thường được các doanh nghiệp tìm cách
đầu tư sinh lời. Mặt khác, một bộ phận lớn dân cư cũng có khoản tiền để dành
mà chưa có nhu cầu sử dụng. Họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Trong khi đó
lại có một bộ phận các doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho các

mục đích khác nhau. Tuy nhiên, những người thiếu vốn và những người thừa
16
vốn lại khó có thể gặp trực tiếp để cho vay, hơn nữa chi phí lại cao và không
kịp thời. Điều này đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra làm cầu nối đáp ứng
nhu cầu của cả hai bên. Do vậy, NHTM là tổ chức trung gian tài chính đi vay
để cho vay. Vai trò của NHTM tạo ra sự liên tục trong hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Đối với DNVVN ở Việt Nam, vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn cổ
phần và vốn vay các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, điều kiện để phát hành cổ
phiếu, trái phiếu yêu cầu nhiều nên DNVVN, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ,
không đáp ứng được. Các điều kiện đó là phải có quy mô lớn, sản xuất kinh
doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường… Mặt khác, thị trường chứng
khoán của nước ta chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc huy động vốn trung và dài
hạn của DNVVN gặp khó khăn. Khi có nhu cầu vốn, các DNVVN vẫn phải
tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Do đó, có thể nói tín dụng là một
“kênh” chủ yếu để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN.
Tín dụng ngân hàng tạo động lực thúc đẩy các DNVVN phát triển, nâng cao
năng lực cạnh tranh.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi, sử dụng có mục đích và dựa trên phương án vay
vốn.Các DNVVN tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đã khó nhưng sử dụng nó
sao cho có hiệu quả còn khó hơn. Các doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn
vay hơn là vốn tự có. Vì vậy trong cơ cấu vốn, tỷ lệ vốn vay bao giờ cũng
cao. Đối với các DNVVN thì vốn tự có thấp nên vốn hoạt động chủ yếu là
vốn vay. Tuy nhiên, khi sử dụng vốn vay thì các doanh nghiệp phải trả lãi.
Điều này tạo động lực cho các doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả đảm bảo trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Do vậy, tín dụng ngân hàng
đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ lưu
chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp phát triển bền vững.

17
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường
chế độ hạch toán kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả
tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh. Thông qua các công cụ của
chính sách tiền tệ quốc gia như hạn mức tín dụng, lãi suất, thông qua các
chính sách khác như điều kiện vay vốn, ưu tiên về ngoại tệ hay thu nợ… các
ngân hàng sẽ kiểm soát tín dụng một cách chặt chẽ và hiệu quả hơn. Đi kèm
với vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp còn có nhu cầu sử dụng các dịch vụ
khác của ngân hàng như: thanh toán, tư vấn, trả lương qua tài khoản…Điều
này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp rút ngắn một số khâu trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Các hình thức cho vay đối với DNVVN của NHTM.
1.2.2.1. Phân loại theo phương thức cho vay:
 Thấu chi.
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội( vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là mức thấu
chi.Đây là hình thức ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có
đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho doanh nghiệp và cá nhân trong vài
ngày hoặc vài tháng trong năm nhưng chỉ sử dụng cho khách hàng có độ tin
cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
 Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần được sử dụng tương đối phổ biến khi ngân hàng
cho vay khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện
để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng khi mở rộng sản xuất kinh doanh,
nếu số vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại không đủ tài trợ thì khách hàng
sẽ vay thêm ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân
hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt và đảm bảo khả năng tương đối
18
an toàn do tiền vay dựa vào tài sản đảm bảo, ngân hàng luôn kiểm tra mục

đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng.
 Cho vay theo hạn mức.
Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Đó là số dư
tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản
xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức
tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Khách hàng có thể thực hiện vay
trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Hình thức
này áp dụng cho khách hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên, vốn vay
thường tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, hình thức này
thuận lợi cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Nhưng
lại gây khó khăn cho ngân hàng vì các lần vay không tách biệt thành các kỳ
hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần
vay.
 Cho vay luân chuyển.
Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Ngân hàng sẽ cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán được hàng hóa. Cho vay
luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các
doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ
ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
 Cho vay trả góp.
Theo hình thức này, khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời
gian cho vay đã thỏa thuận. Cho vay trả góp mang tính chất là khoản tín dụng
trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi
lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Hình thức này
19
thường được áp dụng đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
Hình thức này gặp rủi ro cao vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy,

lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp.
Nhằm đa dạng hóa các hình thức cho vay, ngân hàng phát triển hình thức
cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian như
là tổ, đội, hội, nhóm… Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động
cho vay sang các tổ chức trung gian như phát tiền vay hay thu nợ…Khi người
vay không có hoặc không có đủ tài sản đảm bảo thì các tổ chức trung gian này
đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo
lãnh cho một thành viên vay vốn.
1.2.2.2. Phân loại theo thời gian.
 Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống Tín dụng ngắn hạn nhằm tài
trợ cho tài sản lưu động hoặc theo nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Các hình thức cho vay ngắn hạn được áp
dụng là cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức, cho vay trực tiếp hoặc
cho vay gián tiếp, cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không cần bảo đảm, cho
vay thấu chi hoặc luân chuyển. Khách hàng sẽ làm đơn và trình bày với ngân
hàng kế hoạch sử dụng vốn vay. Từ đó ngân hàng thực hiện phân tích tín
dụng, tính toán hiệu quả sử dụng vốn, xem xét rủi ro, các nguồn trả nợ.
 Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như
phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. Bên cạnh đầu tư tài sản cố
định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
 Cho vay dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn và có thời gian sử dụng
20
dài. Cho vay dài hạn thường gắn với kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp, của
từng ngành, từng địa phương và trong một số trường hợp được nhà nước chỉ
định nguồn vốn có lãi suất ưu đãi.
1.2.2.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo
 Cho vay cần tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo là hình thức hạn chế tổn

thất cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro. Ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn ngân hàng cấp tín dụng. Trên cơ
sở đó, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho
vay. Thông thường thì giá trị khoản vay tối đa = 80% giá trị tài sản đảm bảo
và tùy từng loại tài sản thế chấp, ngân hàng sẽ cho vay với các tỷ lệ tương
ứng. Đồng thời ngân hàng sẽ giám sát việc sử dụng hoăc khả năng bảo đảm
tài sản.
 Cho vay không cần tài sản đảm bảo: hình thức này thường áp dụng đối
với khách hàng quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Đôi khi ngân hàng cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản
đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc
những khoản vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát tốt thì cũng có
thể không cần tài sản đảm bảo.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với DNVVN của
NHTM.
1.2.3.1. Các nhân tố khách quan.
 Tình hình kinh tế- xã hội
Các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Trình độ
phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tới hoạt động cũng như sự phát triển
của mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNVVN. Trình độ càng cao thì giới
hạn tiêu thức phân loại ngày càng được nâng lên. Điều đó có nghĩa là các
21
DNVVN sẽ có điều kiện phát triển nhiều hơn, có sự liên kết chặt chẽ hơn
không chỉ với chính các DNVVN mà còn với cả các doanh nghiệp lớn. Tuy
nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng trở nên gay gắt hơn. Nhưng
chính điều đó tạo động lực buộc các DNVVN phải tự đổi mới mình, phải
nâng cao năng lực hoạt động về mọi mặt. Từ đó, các DNVVN sẽ phát triển ổn
định hơn, có phương hướng rõ ràng hơn, vững bền hơn. Đây là yếu tố quan
trọng để các DNVVN tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn.

Các DNVVN có thể đáp ứng đầy đủ điều kiện cho vay của ngân hàng cũng
như chứng minh được năng lực tài chính của mình – đây là yếu tố quan trọng
hàng đầu để ngân hàng xét duyệt cho vay.
Mặt khác, khi nền kinh tế tăng trưởng, ngân hàng và các tổ chức tài chính
cũng phát triển lớn mạnh hơn, cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
tăng lên. Điều đó khiến các ngân hàng phải không ngừng mở rộng thị trường
và đối tượng khách hàng nhằm gia tăng lợi nhuận. Trong khi đó, các DNVVN
lại đang là thị trường đầy tiềm năng khiến các ngân hàng không thể bỏ qua
đoạn thị trường này. Từ đó, các ngân hàng tăng cường mở rộng cho vay đối
với đối tượng khách hàng này. Các điều kiện cho vay của ngân hàng cũng
được nới lỏng hơn bởi ngân hàng kỳ vọng vào hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp trong điều kiện các doanh nghiệp phát triển ổn định và bền vững.
 Môi trường pháp lý.
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các
DNVVN. Một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho
DNVVN phát triển. Những chính sách và cơ chế quản lý ảnh hưởng trực tiếp
tới sự tồn tại và khả năng phát triển của DNVVN cũng như việc mở rộng cho
vay đối với các doanh nghiệp này. Những ưu tiên về vốn tín dụng, lãi suất,
chế độ thuế, sử dụng công nghệ, chính sách đất đai, đào tạo… là tiền đề quan
trọng hỗ trợ và định hướng cho các DNVVN thực hiện được những nhiệm vụ
22
kinh tế- xã hội được đặt ra với khu vực kinh tế này. Từ đó ảnh hưởng tới
quyết định tài trợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này.
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong thời gian
qua, nhiều văn bản có liên quan mật thiết tới hoạt động của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được ban hành. Phải kể đến đầu tiên và quan
trọng nhất là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ
về trợ giúp phát triển DNVVN. Nghị định này như một luồng gió mới làm
thức tỉnh hoạt động của các DNVVN vố chiếm một tỷ lệ khá đông đảo trong
tổng số doanh nghiệp cả nước. Nhờ đó, các doanh nghiệp này đã không

ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền
kinh tế. Nghị định 90 đã đưa ra hàng loạt các chính sách trợ giúp DNVVN
như khuyến khích đầu tư; thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN; chính
sách ưu đãi, hỗ trợ mặt bằng; trợ giúp thị trường và tăng khả năng cạnh tranh,
hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu; hỗ trợ về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn nhân
lực. Tuy nhiên Nghị định vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sự hợp tác giữa các cơ
quan ban ngành địa phương, cơ chế chính sách cũng chưa đồng bộ đã dẫn tới
hệ quả tất yếu là các DNVVN phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn.
Ngoài ra, những quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng cũng gây
nhiều khó khăn cho các DNVVN. Chẳng hạn như những quy định về bảo đảm
tiền vay chủ yếu hỗ trợ các doanh nghiệp lớn hơn là hỗ trợ các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ. Trong khi đó những doanh nghiệp lớn, thường là những
doanh nghiệp Nhà nước, đều có các cơ quan chủ quản hoặc Nhà nước bảo
lãnh vay vốn mà không cần tài sản thế chấp. Điều này ngược lại với các
DNVVN, đã khó vay vốn lại phải có tài sản bảo đảm.
Hiện nay, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển hơn, thu hút
được nhiều vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Số lượng doanh
nghiệp được niêm yết ngày một nhiều hơn, huy động được nhiều vốn hơn,
tăng tính minh bạch và khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
23
số lượng DNVVN tham gia thị trường này còn rất hạn chế. Những điều kiện
và quy định liên quan để được niêm yết còn gây nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp này. Vì vậy, thị trường chứng khoán không phải là kênh thu hút
vốn hiệu quả và phổ biến đối với các DNVVN. Mà nguồn vốn chủ lực vẫn là
đi vay ngân hàng.
Tóm lại, để đảm bảo cho các DNVVN phát triển, môi trường pháp lý cần
được hoàn thiện đồng bộ và tăng cường tập trung khuyến khích DNVVN hơn
nữa.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan.
 Các nhân tố thuộc về DNVVN.

Hầu hết các DNVVN đều đang hoạt động trong tình trạng thiếu vốn cần
thiết cho hoạt động, đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh cũng
như năng lực cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế. Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các
doanh nghiệp là rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và
việc huy động vốn trong dân cư vào đầu tư sản xuất, kinh doanh chưa được
cải thiện. Các doanh nghiệp lớn thì được ưu đãi hơn về mọi mặt, trong khi đó
các DNVVN thì phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đặc biệt là việc tiếp cận
với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, điều này cũng xuất phát từ
chính bản thân DNVVN.
Thứ nhất, cơ cầu nguồn vốn của các DNVVN chưa hợp lý. Trong tổng số
nguồn vốn thì chiếm phần lớn vẫn là vốn đi vay từ bên ngoài, vốn chủ sở hữu
rất nhỏ. Đặc biệt, vốn vay từ ngân hàng trong tổng nguồn vốn kinh doanh còn
rất cao. Điều đó dẫn đến các doanh nghiệp bọ quá phụ thuộc vào nguồn vốn
huy động, chủ yếu là từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Vì vậy, khi thiếu
vốn, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn ngay lập tức. Do đó, các doanh nghiệp
cần phải điều chỉnh lại cơ cấu vốn hợp lý, và nguồn huy động chỉ đóng vai trò
bổ sung cho nhu cầu thường xuyên hoặc nhu cầu tức thì. Hơn nữa, thông
24
thường, các doanh nghiệp chỉ được phép cho vay trong một hạn mức nhất
định. Nếu doanh nghiệp vay nợ quá nhiều thì khó có thể vay thêm vốn nữa
Thứ hai, các doanh nghiệp chưa thực sự hợp tác với ngân hàng. Khi đi vay
lần đầu hoặc chưa có sự tin tưởng của ngân hàng, mức độ minh bạch của các
báo cáo tài chính là cơ sở để ngân hàng xét duyệt cho vay. Nhưng trong thực
tế hiện nay, các doanh nghiệp đi vay đã không muốn bộc bạch hết với ngân
hàng, không muốn giải trình hay trao đổi kỹ lưỡng về phương án vay vốn,
không muốn đưa tài sản cho ngân hàng tạm giữ. Do vậy, ngân hàng chỉ duyệt
vay với số tiền nhỏ nhằm tránh rủi ro có thể gặp phải.
Thứ ba, vấn đề thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Trên lý thuyết, điều kiện cho
vay là sử dụng vốn có mục đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, có tài sản

đảm bảo, có phương án vay vốn hiệu quả. Và ưu tiên nguyên tắc có phương
án vay vốn khả thi và hiệu quả. Nhưng trên thực tế, các ngân hàng vẫn ưu tiên
cho vay khi có tài sản bảo đảm cho mỗi một khoản vay. Nhiều doanh nghiệp
không có tài sản thế chấp, hoặc có tài sản thế chấp nhưng không được ngân
hàng chấp nhận hoặc ngân hàng cũng chỉ chấp nhận tối đa 70% giá trị tài sản
để làm thế chấp cho khoản vay. Mặt khác, các DNVVN cũng gặp rất nhiều
khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu tài sản, khó
khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp là bất động sản…
Thứ tư, trình độ quản trị kinh doanh của DNVVN còn yếu kém. Với đội
ngũ nhà lãnh đạo còn thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh thì việc xây dựng
các phương án khả thi chưa có sức thuyết phục với ngân hàng. Do vậy, các
DNVVN sẽ không được ưu tiên vay vốn. Mà nếu có được vay thì chi phí mà
các doanh nghiệp phải bỏ ra để vay vốn cộng với lãi suất phải trả đôi khi cao
hơn khả năng sinh lời của phương án. Chính điều này làm các DNVVN có ý
định vay vốn nản lòng.
Thứ năm, nhiều doanh nghiệp lập ra nhưng chỉ trên danh nghĩa mà không
hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp này có thể chiếm dụng vốn ngân
25

×