Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật và liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 13 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Đề tài số 4

Phân Tích Quan Điểm Tồn Diện Của Phép Biện Chứng
Duy Vật Và Liên Hệ Với Thực Tiễn Đổi Mới Kinh Tế Ở Việt
Nam Hiện Nay

Họ và tên SV: Khuất Thu Phương
Mã SV: 11219116
Lớp: EBBA 13.1 Khóa 63 GĐ: 21-25

Hà Nội- 25/12/2021


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................3
NỘI DUNG CHÍNH ......................................................................................................5
I. Quan Điểm Tồn Diện Của Phép Biện Chứng Duy Vật ........................................5
1. Phép biện chứng duy vật ......................................................................................5
1.1 Khái niệm .......................................................................................................5
1.2 Đặc trưng ........................................................................................................5
2. Cơ Sở Lý Luận Về Quan Điểm Toàn Diện ........................................................7
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến ................................................................7


2.2 Các nguyên tắc toàn diện ..............................................................................8
II. Liên Hệ Thực Tiễn Đổi Mới Kinh Tế Ở Việt Nam Hiện Nay ...............................9
KẾT LUẬN ....................................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................13

Mã SV: 11219116

2


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà sử học, triết gia người Hoa Kỳ - Will Durant, đồng thời là tác giả của cuốn sách
nổi tiếng “The Story of Philosophy” từng dành cả đời để đấu tranh cho công bằng tiền
lương, quyền bầu cử, quyển phụ nữ,... cho rằng: “Science gives us knowledge, but only
philosophy can give us wisdom” –Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ có triết học
mới cho chúng ta sự thơng thái. Nhiều người trong công chúng vẫn luôn tin tưởng và ủng
hộ Durant khi cho rằng ông đã nỗ lực để đưa Triết học đến gần hơn với công chúng. Thật
vậy, vốn là một bộ môn nghiên cứu về những khối vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và đồng thời là những vấn đề có tính kết nối tới sự thật, chân lý,
những quy luật, giá trị của cuộc sống và nhiều hơn thế, Triết học được đánh giá là hình
thái cao nhất của tri thức, là khoa học của mọi khoa học dựa trên tính phê phán, phương
pháp tiếp cận cũng như là sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong cơng tác tư tưởng lập
luận.
Vốn biểu hiện cho những hình thức, phong thái, tư duy nhiều chiều, xoáy sâu vào
các vấn đề, từ những ngày sơ khai của lịch sử Triết học đã tạo lập nên những đường lối tư
tưởng đa dạng nhưng trong suy cho cùng, triết học được thu gọn với 2 trường phái chính

là: Chủ nghĩa duy tâm và Chủ nghĩa duy vật. Trong khi, Chủ nghĩa duy vật đề cao đến
yếu tố vật chất, cho rằng vật chất là cái có trước, tồn tại và quyết định ý thức thì ngược
lại, Chủ nghĩa duy tâm khách quan đem đến một quan điểm mới mẻ, xuất phát từ những
yếu tố ý thức, tinh thần, cho rằng ý thức xuất hiện trước và quyết định sự xuất hiện của
vật chất.
Bền bỉ đi theo đường lối tư duy của Chủ nghĩa duy vật, các nhà triết học kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin đã kịp thời tu sửa, khắc phục những lỗi lầm cơ bản của Chủ
nghĩa duy tâm bằng phép biện chứng vững vàng, bên cạnh đó là sự bắt kịp, theo sát
những chiến tích tân tiến nhất của khoa học tự nhiên, xã hội của nhân loại. Vốn dĩ, theo
quan niệm triết học của tư tưởng Mác-Lênin, sự tương quan giữa vật chất và ý thức là
thông qua mối quan hệ biện chứng, trong đó cho thấy vật chất là trung tâm và có tính
quyết định ý thức. Chính vì vậy, phép biến chứng duy vật chính là yếu tố tiên quyết của
chủ nghĩa Mác, đồng thời đưa ra quan điểm toàn diện thống nhất một trong ba nguyên tắc
cơ bản và quan trọng của phương pháp luận.
Xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước, Việt Nam của chúng ta vẫn đang có một
nền kinh tế ở mức độ ổn định, tuy nhiên sự phát triển và khả năng đáp ứng nhu cầu sống
cho tồn dân tộc có một đời sống ấm no đủ đầy vẫn là một trong những yếu tố đau đầu,

Mã SV: 11219116

3


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

một bài toán khó vẫn đang thiếu lời giải đáp, đặt mình trong thời điểm xã hội có nhiều
những thay đổi biến chuyển mạnh mẽ nhờ vào công nghệ kỹ thuật, khoa học cơng nghệ
tiên tiến trên tồn cầu, một thách thức lớn được ra cho chúng ta đó chính là: Liệu rằng,

nước ta có thể chuyển mình vươn lên, đạt được những thành tựu đáng nể trong công tác
tạo ra nền khoa học công nghệ phát triển một cách ưu việt, vươn tầm quốc tế chỉ trong
một khoảng thời gian giới hạn cho phép hay khơng? Chúng ta cần phải làm gì trong thời
kỳ này? Những biện pháp nào mà chính phủ nhà nước cũng như người dân đang mong
muốn hướng đến để cải thiện kinh tế nước nhà? Liệu rằng chúng ta có đang quá tụt hậu
so với các quốc gia bè bạn quốc tế? Những câu hỏi này cứ xoáy quanh và đặt ra cho
chúng ta những băn khoăn trắc trở, chúng ta phải lựa chọn làm gì, phải hành động như
thế nào cho phù hợp. Có lẽ, tìm ra được một con đường đúng đắn, cộng hưởng với việc
ưu tiên cho những phát triển khoa học-công nghệ trong quan hệ với sự phát triển cục diện
kinh tế quốc gia trên nhiều phương diện sẽ là một trong những điều chúng ta thật sự quan
tâm. Những đánh giá, phán đoán khách quan mang tính tồn diện sẽ đóng vai trị như một
công cụ bắt buộc, định hướng cho những yếu tố phiến diện, có lý luận sai lệch về các sự
vật hiện tượng sẽ đem đến một đường lối mở rộng, đổi mới và hòa nhập hơn bao giờ hết.
Trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức để thực hiện tiểu luận này, em muốn gửi
lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Phạm Văn Sinh Giảng viên Bộ môn Triết học Mác
Lê Nin– Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp em tiếp cận những kiến thức của học
phần để từ đó hình thành quan điểm trong tiểu luận này.
Từ những kiến thức lĩnh hội qua bài giảng trên lớp, cùng với những kiến thức học
tập và nghiên cứu qua các nền tảng lý thuyết đa dạng, em xin được phép trình bày quan
điểm bản thân về chủ đề : ‘‘Phân tích quan điểm tồn diện của Phép biện chứng duy
vật và liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay’’ để làm rõ hơn
những vấn đề trong tư duy, nhận thức về Phép biện chứng duy vật cũng như trình bày
những am hiểu của bản thân về những quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Tiểu luận này được thực hiện với nhiều ấp ủ, tâm huyết nhưng cũng khơng thể tránh
được những thiếu sót, thế nên mong người đọc hãy thực sự đọc và phản biện, xây dựng
tiểu luận để đích đến cuối cùng là xác lập một tư tưởng đa chiều, đúng đắn và áp dụng
được lý luận đó vào nhận thức cũng như hành động trong thực tin xã hội Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn !

Mã SV: 11219116


4


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

NỘI DUNG CHÍNH
I. Quan Điểm Toàn Diện Của Phép Biện Chứng Duy Vật:
1. Phép biện chứng duy vật:
1.1 Khái niệm:
“Phép biện chứng duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy’’”được C. Mác và Ăngghen
cải tạo từ phép biến chứng duy tâm”của Hêghen vào những năm 40 của thế kỷ XIX sau
đó được phát triển hơn bởi V.I. Lênin.”
Theo”Ph.Ăngghen: "Phép biện chứng là phương pháp mà”điều căn bản là nó xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại
lẫn nhau của chúng,”trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng".”Thật vậy, chủ nghĩa ràng buộc của duy vật biện chứng được phát triển theo một
hướng đi riêng biệt và độc đáo, giải quyết được hậu quả của những vấn đề tồn đọng của
chủ nghĩa duy vật đi trước, phản ánh chính xác hiện thực theo những gì mà chính sự vật,
sự việc đó mang lại, cũng như giá trí quý cho xã hội, nhân loại.
Được xây dựng trên cơ sở hệ thống gồm 2 nguyên lý về mối quan quan hệ phổ biến
và quan hệ phát triển, 6 cặp phạm trù cơ bản là: “Cái riêng – cái chung, nguyên nhân –
kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng –
hiện thực”, 3 quy luật phổ biến về lượng - chất; phủ định của phủ định và quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ba quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ
thể ra đời, trong đó quan điểm tồn diện mang tính thiết thực và quan trọng trong cuộc
sống của chúng ta.

1.2 . Đặc trưng:
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có bốn đặc trưng cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, phép biện chứng được hình thành trên cơ sở của thế giới quan duy vật,
thừa nhận thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, tồn tại vĩnh vin và mang tính khách quan
cao, khơng được sáng tạo bởi bất kỳ một ai nhưng cũng không đánh mất đi những giá trị
vốn có, các bộ phận của thế giới quan thì vẫn ln liên hệ một cách chặt chẽ với nhau và
phát triển liên tục theo những quy luật vốn có của bản thân nó. Phép biện chứng duy vật
chính là một sự thống nhất giữa hai hình thái là thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng khoa học.
Mã SV: 11219116

5


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

Thứ hai, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện sự thống nhất
trọn vẹn giữa những nội dung của thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận
biện chứng duy vật, chính vì thế, nó khơng dừng lại ở định nghĩa về thế giới vật chật mà
còn là một bộ công cụ sắc bén để cải tạo thế giới theo mong muốn. Trên cơ sở cơ bản và
tổng quan giữa mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các
quá trình vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong đời sống tự nhiên, xã
hội và tư duy nhạy bén của của phép biến chứng đồng thời cũng cung cấp những phương
pháp cốt nền, nguyên tắc chung nhất để quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới
được din ra, đó khơng chỉ là một trong những nguyên tắc phương pháp luận một cách
khách quan mà đồng thời cịn là phương pháp luận tổng quan tồn diện của vấn đề, hiện
tượng, phát triển, lịch sử một cách cụ thể, phương pháp luận phân tích những ngịi châm

mâu thuẫn, động lực cơ bản của các quá trình vận động và phát triển của thế giới,... Với
tư cách đó, phép lập luận biện chứng duy vật chính là cơng cụ khoa học vĩ đại nhất trong
thời kỳ cần thiết, giúp giai cấp cách mạng thức tỉnh và cải tạo thế giới.
Thứ ba, những bộ phận quy luật của phép biện chứng duy vật vừa là hình thái quy
luật của thế giới khách quan song song với đó là quy luật của nhận thức. Nó là một thể
thống nhất, dựa trên cơ sở nền tảng khi thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, giữa phép biện
chứng lý luận và logic biện chứng. Điều này có ý nghĩa là những quy luật của phép biện
chứng không phải chỉ là những rắc rối trong hệ tư tưởng riêng của tư duy, tồn tại hay của
bất cứ một sự phản ánh tồn tại nào vào tư duy, mà là một sự thống nhất tổng hợp của tất
cả ba q trình đó cấu thành.
Thứ tư, lập luận phép biện chứng duy vật không phải chỉ là những lời văn mang tính
khẳng định những giáo điều, trừu tượng mà nó chính là những khẳng định, những luận
điểm luôn gắn với thực tin, đời sống, luôn được bồi đắp, xây dựng phát triển song hành
cùng với thực tin. Do vậy, phép biện chứng duy vật vừa có tính chất của cách mạng
nhưng lại đem đến tư duy logic mang tính khoa học, có tính độc lập, tự giác cao, có tác
dụng vơ cùng quan trọng trong những hình thái tổ chức, hoạt động cơ bản, thực tin của
con người.
Cùng với những đặc trưng cơ bản đã nêu trên, phép biện chứng duy vật nắm giữ
những vai trị vơ cùng quan trọng như là một nội dung đặc biệt trong thế giới quan và
những phương pháp suy luận triết học theo đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo nên tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nó cũng là một hệ tư tưởng
của thế giới quan và là một áng phương pháp luận tổng thể, khái quát nhất của hoạt động

Mã SV: 11219116

6


GV: PHẠM VĂN SINH


TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

sáng tạo trong các lĩnh vực học tập và nghiên cứu khoa học một cách thực tin cho học
sinh, sinh viên, và các nhà nghiên cứu.
2. Cơ Sở Lý Luận Về Quan Điểm Toàn Diện:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là hoàn toàn dựa trên nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến, một trong hai nguyên lý cơ bản nhưng vô cùng quan trọng của phép duy vật
biện chứng.
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Khái niệm liên hệ vốn được định nghĩa như một sự tương tác qua lại, sự phụ thuộc
và gắn bó, quy định và chuyển hóa giữa các sự vật vật, hiện tượng cho nhau và cả các yếu
tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Ta có thể lấy sự phụ thuộc của một thực thế sống
với mơi trường làm ví dụ. Một cơ thể sống có thể là thực vật hoặc động vật, muốn sống,
sinh trưởng cần phải có các yếu tố mơi trường tác động như nước, đất, ánh sáng, nhiệt
độ,... Thiếu các yếu tố của môi trường nêu trên các cơ thể sống không thể tồn tại và phát
triển được.Tư tưởng này được phản ánh trong các hệ thống triết học ở các giai đoạn lịch
sử khác nhau với nhiều cách din đạt khác nhau như: Thời Trung Quốc xa xưa đã từng
quan niệm rằng, phái Âm – Dương nêu lên ý nghĩa về sự tác động qua lại giữa hai lực
lượng đối lập nhau Âm – Dương làm cho mọi vật biến đổi. Ở Ấn Độ, tư tưởng của đạo
Phật về sự kết hợp giữa Sắc – Danh, Nhân –Quả làm cho các vật ra đời, tồn tại và biến đi.
Do đó ta d dàng nhận thấy khái niệm liên hệ trong phép biện chứng duy vật là kết quả
của quá trình nhận thức lâu dài của con người, là hệ quả của cả quá trình lịch sử và tiến
lên thành lý luận của con người chứ không đơn thuần là sự sáng tạo có tính chủ quan của
ý thức con người chứ khơng phải là sự sáng tạo có tính chất ngẫu nhiên, thuần túy chủ
quan của ý thức con người. Vậy ta hãy đi vào các khái niệm của mối liên hệ:
“Mối liên hệ” là một hình thức phạm trù triết học chỉ dùng để nói đến những mối
quan hệ tương hỗ ràng buộc, quy định và ảnh hưởng đến nhau giữa các yếu tố, bộ phận
cấu thành trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng có sự liên kết với nhau. Liên hệ
là quan hệ giữa hai nhóm đối tượng tương quan, nếu có sự thay đổi thì một trong số
chúng nhất định cũng sẽ tác động để khiến phần còn lại thay đổi theo.

Khi đề cập đến mối liên hệ chúng ta mới chỉ nói đến sự ràng buộc, tác động qua lại
lẫn nhau giữa các đối tượng vật chất, bên cạnh đó cịn có thế giới tinh thần, của tư duy(
phán đoán, suy luận) hay các phạm trù khoa học - hình thức của nhận thức cũng liên hệ
một cách chặt chẽ và liên kết với các vật thật - nguyên bản một cách hiện thức và khách
quan hơn nhiều lần, mà qua đó các hình thức này chỉ phản ánh, tái tạo lại lại hình ảnh sơ
Mã SV: 11219116

7


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

khai của chúng. Khi quan niệm về sự liên hệ được mở rộng ra giữa các nhóm đối tượng
tinh thần và giữa những chủ thể vốn dĩ chúng thuộc về với những quan niệm dành cho
nhóm đối tượng khách quan thì sẽ mang một mối quan hệ phổ biến.
Phép biện chứng duy vật đưa ra quan điểm cho các sự vật hiện tượng trong thế giới
ln có những mối liên kết mất thiết, qua lại với nhau, chứ không hề bị tách biệt riêng lẻ.
Đó chính là một phần nội dung của ngun lý trong mối quan hệ về phổ biến. Cơ sở cơ
bản cho sự tồn tại đa dạng của các mối liên hệ đó chính là nhờ vào tính thống nhất của
giới vật chất, theo đó, sự vật, sự việc trong thế giới thực tại vốn chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của thế giới vật chất duy nhất
Bên cạnh tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ phổ biến, cũng có những mối liên
hệ như ngẫu nhiên, tất nhiên, cả những mối liên hệ về mặt không gian, biểu thị sự tương
quan giữa các chiều không gian của các sự vật sự việc. Cũng có những mối liên hệ gián
tiếp, trực tiếp, đồng thời bao hàm cả những mối liên hệ chỉ tác động riêng lẻ đến những
yếu tố tác động cụ thể,... tất cả bọn chúng đều giữ những vai trò khác nhau, quy định sự
vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng.
Như thế, mối liên hệ phổ biến hoạt động theo nguyên lý khái quát chằng chịt những

sự vật, sự việc mà nó bao hàm. Tính vơ hạn cũng như tính vơ lượng tương quan giữa thế
giới với các sự vật hiện tượng đó chỉ có thể giải thích trong những mối liên hệ phổ biến
và được quy định bằng các mối liên hệ có những đặc trưng, biến thể khác nhau.
2.2 Các nguyên tắc toàn diện:
Như Ăngghen đã chỉ ra “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét thế giới tự nhiên, lịch
sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước nhất, chúng ta thấy
một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua
lại’’. Do đó để có nhận thức đúng và tránh quan điểm phiến diện, ta phải tuân theo quy
tắc toàn diện như sau
Thứ nhất, quan điểm này yêu cầu chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trong mối
liên hệ qua lại với nhau, giữa các yếu tố, bộ phận, môi liên hệ trực tiếp gián tiếp, mối
quan hệ trong, ngoài. Chỉ dựa trên nền tảng đó, ta mới nhận thức đúng đắn và tiếp nhận
đầy đủ tri thức triết học, khoa học và cuộc sống..
Thứ hai, điều then chốt là cần có sự phân biệt rõ ràng từng mối quan hệ kể như mối
liên hệ trong, ngoài, mối liên hệ chủ yếu với tất yêu, mối liên hệ về bản chất. Vì vậy, để
thấy được xu hướng phát triển, vận động của một sự vật hiện tượng xác định rõ những

Mã SV: 11219116

8


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

mối liên hệ cơ bản chủ yếu và trọng tâm. Từ cơ sở đó có thể tránh được những điểm nhìn
phiến diện sai lầm về sự vật hiện tượng.
Thứ ba, quan điểm của nguyên tắc toàn diện là xem xét mối liên hệ đồng bộ một
cách khách quan, không phiến diện, nghĩa là trong thực tế, phải biết áp dụng và đồng bộ

hóa những tác động từ nhiều hướng, những thứ đã làm thay đổi c ác mặt, các mối liên hệ
tương ứng của mỗi sự vật, sự việc. Bên cạnh đó, từng thời kỳ, từng giai đoạn cần nắm bắt
được những điểm nhấn then chốt, đúng trọng tâm để tập trung toàn thể lwucj lượng giải
quyết một cách triệt để, gọn gàng.
Hơn thế nữa, cái nhìn khách quan của quan điểm tồn diện còn đòi hỏi chúng ta
phải đặt những sự vật, sự việc vào trong nhu cầu của con người. Mỗi cá thể chúng ta chỉ
có thể phân tích những những mối quan hệ nhỏ bé, hữu hạn của sự vật sự việc và điều đó
cũng chỉ có thể thực hiện khi được đặt trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định. Chính bởi
lẽ đó, con người chúng ta chỉ có một tầm ngắm hiểu biết vô cùng ngắn về những sự vật
mà chúng ta tiếp cận, một cách tương đối. Từ điều này chúng ta có thể sẽ lĩnh hội được
một khoảng tri thức vơ giá mà chúng ta có được trong khoảng thời gian hiện tại mà
không phải bất biến, tuyệt đối không thể thêm bớt bổ sung hoặc làm cho nó bị biến đổi
dưới bất kỳ hình thức nào hết.
Ví dụ, sau sự chấm dứt của Chiến tranh lạnh, kèm theo đó sự tan rã của Liên Xơ và
thế giới thiết lập trật tự hai cực, kể từ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1947-1989).
Đến cuối những năm 1970 và giữa những năm 1980, các nước xã hội chủ nghĩa nói
chung, và Việt Nam ta nói riêng đã tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện các chính sách
hợp lịng dân, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau khi
cuộc các mạng cơng nghiệp hố, hiện đại hố din ra, xu thế phát triển của những năm
trước đó đã khơng cịn phù hợp. Vì thế,trong tiến trình đổi mới đất nước hiện nay, Đảng
ta không chỉ xem xét, chú ý đến những mối quan hệ nội tại mà còn chú ý đến tất cả các
mối quan hệ. Trong hơn 20 năm đổi mới, ta không chỉ vận dụng tối đa nguồn lực nội bộ
của đất nước mà còn ra sức tận dụng mọi cơ hội, sự giúp đỡ từ các nước phát triển. Điều
này vừa tận dụng hết được các nguồn viện trợ, các yếu tố khách quan bên ngoài, vừa khai
thác được tiềm lực phát triển của nguồn lao động trong nước cũng như các yếu tố chủ
quan.
II. Liên Hệ Thực Tiễn Đổi Mới Kinh Tế Ở Việt Nam Hiện Nay:
Cuộc sống hiện đại, khi mà mọi vấn đề xảy ra xung quanh chúng ta đều có thể hiện
thực và đưa và trao đổi thương mại, nền kinh tế của quốc gia từ đó mà đi lên, đẩy mạnh


Mã SV: 11219116

9


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

sự phát triển tồn diện của đất nước. Hình thức cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cũng từ đấy mà tạo nên những bước đệm vững chắc cho Việt Nam có những điều kiện
tiếp cận với nền kinh tế quốc tế, tiếp thu trình độ văn minh nhân loại về cho mình. Các
cơng ty, tập đồn lớn mọc lên ngày càng nhiều, thúc đẩy mức tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam từ thời kỳ quá độ cho đến hiện tại.
Chúng ta biết rằng, với thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày
30/4/1975 đã đưa đất nước chúng ta độc lập thống nhất sau 21 năm trường kỳ chiến đấu.
Kể từ đó, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề, định hướng mà Đảng và nhà
nước đã cùng nhân dân bắt tay vào thực hiện. Bắt nguồn từ mơ hình phát triển kinh tế xã
hội và quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng nhà
nước ta đã đưa ra định hướng, xây dựng và phát triển kinh tế theo mơ hình kế hoạch hóa
tập trung mà ngày nay cịn được gọi là mơ hình “quan liêu bao cấp”.
Có một xuất phát điểm về kinh tế từ một quốc gia nổi danh với nền nông nghiệp lúa
nước, có mức thu nhập trung bình tính trên đầu người thấp. Tại thời điểm đầu kỳ của giai
đoạn đổi mới (1986 - 1990), GDP bình quân hằng năm được ghi nhận ở mức 4,4%, thì tới
giai đoạn tiếp đó những năm 1991 - 1995 mức GDP thu được đã tăng 3,8% đạt ngưỡng
8,2% trong 1 năm. Sự ổn định duy trì trong mức độ GDP được ghi nhận đều đặn trong
các giai đoạn sau đó từ năm 2016 - 2019 đều ở ngưỡng 6,8%. Bắt đầu từ đầu năm 2020,
làn sóng COVID -19 lan rộng tồn cầu đã giáng 1 địn chí mạng đến cục diện kinh tế thế
giới trong đó có cả Việt Nam, ghi nhận tại các quốc gia trên thế giới đều cho thấy rằng
tình trạng kinh tế của họ phần lớn đang nằm ở mức độ suy thối hoặc có mức tăng trưởng

âm, thì nổi bật qua đó, đất nước ta vẫn ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế hạn chế ở
2.91%, đồng thời ghi danh vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng ổn định và cao nhất khu
vực cũng như thế giới. Điều này đã nâng tổng quy mô nền kinh tế của Việt Nam lên 343
tỷ USD trong năm 2020, bỏ xa con số 6,3 tỷ USD trong những năm 1989 - 1990. Đời
sống nhân dân cũng vì thế mà được cải thiện rõ rệt, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần, các sản phẩm, dịch vụ cung ứng đáp ứng nhu cầu của người dân một cách đầy
đủ, nâng cao lối sống tích cực phịng tránh bệnh dịch lan tỏa trong 2020 trở thành quốc
sách của chính phủ dành cho nhân dân. Cũng tại thời điểm năm 2020, mức thu nhập bình
quân đầu người được ghi chép lại đã vượt lên khỏi con số 3.500 USD, các hành động cân
đối hình thái kinh tế, tích lũy, tiết kiệm và đầu tư,... vẫn tiếp tục được nhà nước duy trì và
đảm bảo, đồng thời luôn cập nhật thị trưởng kinh tế để đảm bảo vững chắc nền kinh tế vĩ
mô nước nhà. Tính theo mức chuẩn nghèo chung, tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta giảm mạnh
còn 6% trong năm 2018, trong khi con số này lên đến 70% ở những năm 1990, và đồng

Mã SV: 11219116

10


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

thời giúp 45 triệu người dân tại các vùng miền trên cả nước thoát nghèo trong giai đoạn
từ 2002 đến 2018. Bên cạnh đó, nhà nước cũng đưa những chính sách khuyến khích
người dân lao động tích cực, chăm chỉ đổi mới và sáng tạo để phát triển kinh tế cá nhân,
gia đình, đẩy thứ hạng trong chỉ số đổi mới sáng tạo tồn cầu của đất nước lên thứ
42/131. Bên cạnh đó, xếp hạng về tính phát triển bền vững của Việt Nam tăng 39 bậc lên
thứ 49 vào năm 2020, bỏ xa nhiều các quốc gia có cùng mức độ phát triển và hoạch định
kinh tế cùng thời điểm đó.Tuy vậy, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa vẫn cịn tồn đọng trong

tư tưởng của chúng ta như một tảng băng chìm với những góc tiêu cực.
Thứ nhất, nền kinh tế thế giới phát triển chiều sâu dựa trên những thành tựu của
khoa học - công nghệ sáng tạo đã vô tình kìm hãm sự cạnh tranh trong lĩnh vực khoa học
- cơng nghệ, giáng một địn nghiêm trọng gây nên sự khủng hoảng kinh tế nước ta.
Thứ hai, bằng hình thức quản lý kinh tế chủ yếu bởi mệnh lệnh hành chính, các
doanh nghiệp chủ yếu hoạt động dựa trên những quyết định, thẩm quyền do các cơ quan
nhà nước đưa xuống, nhà nước thi triển chế độ bao cấp tới mọi đơn vị và doanh nghiệp
cấp dưới, tác động sâu vào các vấn đề sản xuất kinh doanh qua nhiều khâu nhưng không
đứng ra chịu trách nhiệm hay làm chủ cho các doanh nghiệp đơn vị. Chính điều này đã vơ
hình kìm hãm sự vượt lên, bứt phá và sáng tạo của các thành phần kinh tế khác, trong bối
cảnh nền kinh tế tập thể và quốc danh đang vô cùng được chú trọng.
Thứ ba, hệ thống bộ máy quản lý khơng tinh giản, máy móc, nhiều tầng kém năng
suất nhưng lại ăn chặn mọi quyền lợi của người lao động đã khiến cho hoạt động sản xuất
kinh doanh kinh tế kém hiệu quả, xuất hiện tính tham ơ.
Thứ tư, tồn đọng trong các hoạt động giao dịch thương mại vẫn cịn tương đối,
người làm ít làm nhiều nhưng lại được phân phát vật phẩm như nhau trong cùng một xã
hội, điều này đã vơ tình bào mịn suy nghĩ phát triển và phá vỡ nguyên tắc vàng trong
phân phối lao động.
Cuối cùng, chính là sự bùng nổ về lạm phát. Ghi nhận ở thời kỳ này cho thấy vật tư
hàng hóa trở nên khan hiếm, tiền phát hành một cách bừa bãi nhưng nhân công vẫn thiếu
lương, đồng tiền mất giá trầm trọng, năm 1986, chỉ số bán lẻ trên hệ thống kinh tế thị
trường tăng 587,2% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả đã khiến cho đời sống nhân dân trở
nên chật vật và khó khăn hơn bao giờ hết.

Mã SV: 11219116

11


GV: PHẠM VĂN SINH


TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

KẾT LUẬN
Như vậy, xuyên suốt trong tiến trình lịch sử của triết học nói chung, triết học duy
vật nói riêng và vật lý học, chúng ta có thể thấy rằng, Chủ nghĩa duy vật biện chứng ln
mang trong mình những sứ mệnh tổng hợp và khái quát lại những vấn đề vật lý học riêng
lẻ, những thành tựu khoa học nói chung, chứng tỏ mối quan hệ mật thiết nó và triết học
duy vật biện chứng.
Khơng chỉ khẳng định tính khách quan và phổ biến trong sự liên hệ giữa sự vật sự
việc mà cịn biến chuyển bộc lộ tính đa dạng trong các mối tương quan qua lại của tư
tưởng của duy vật biện chứng. Tính phổ biến của biện chứng duy vật còn được định dạng
bởi sự tương quan trong các mối tư duy, liên kết của các sự vật, hiện tượng. Từ những
quan điểm triết học trong nghiên cứu về phép suy luận biện chứng duy vật, ta có một cái
nhìn khách quan hơn về quan điểm tồn diện trong nhận thức. Trên thực tế, dưới góc nhìn
của quan điểm toàn diện, bàn luận đến sự vật, sự việc, chúng ta vừa ướm một cái nhìn
tổng thể đến những mối liên hệ nội tại, đồng thời có đánh giá khách quan hơn về các mối
liên kết giữa các sự vật với nhau, để rồi cuối cùng đồng bộ được những tư tưởng triết học
cũng như các phương tiện tác động vào sự vật, sự việc nhằm tạo ra những sản phẩm năng
suất.
Qua đó, chúng ta có một cái nhìn sâu hơn về sự đổi mới, những thành tựu cũng như
những điểm tiêu cực trong cục diện nền kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
Nhà nước chúng ta đã có những chính sách tuyệt vời như thế nào để cùng nhân dân xây
dựng và ổn định nền kinh tế chính trị cũng như nền kinh tế vĩ mơ vững vàng, đồng thời
có những chuyển biến tích cực đánh dấu mốc hai chữ Việt Nam trên trường quốc tế. Dẫu
biết rằng, hiện tại, tương lai vẫn bộn bề những khó khăn thách thức do đại dịch, đói
nghèo,... Nhưng với một ý chí kiên cường của nhân dân, sự sáng suốt trong những cương
lĩnh chính sách của Đảng, tư tưởng, lập luận sắc bén của các nhà cầm quyền, lãnh đạo,
Việt Nam sẽ sớm khẳng định một vị thế hiên ngang giữa năm châu bốn bể.


Mã SV: 11219116

12


GV: PHẠM VĂN SINH

TÊN SV: KHUẤT THU PHƯƠNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


/>


/>


/>


/>
• />•

/>
• />
Mã SV: 11219116

13




×