Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nguyên nhân Enron và Worldcom sụp đổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.63 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU:
Từ trước đến nay, báo cáo tài chính là công cụ được sử dụng để công bố
những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy mà, nhiều công ty đã sử
dụng chính công cụ này để “che dấu” những thua lỗ trong kinh doanh, lừa dối các
nhà đầu tư. Điều này đã dẫn đến “một nghịch lý đáng buồn đối với báo cáo tài
chính, một công cụ vốn được xem là cái gậy của các cơ quan quản lý nhằm duy
trì tính minh bạch trong các hoạt động kinh doanh, đó là càng che dấu tài chính
bao nhiêu thì lại càng dễ phơi bày những lỗi lầm bấy nhiêu”.
Vụ việc của Enron năm 2001 và Worldcom năm 2002 là minh chứng sống
động cho việc làm này. Được đánh giá là hai vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử
nước Mỹ liên quan đến tài chính, Enron và Worldcom đã làm sai lệch bảng báo
cáo tài chính để che dấu những bất ổn từ bên trong công ty. Enron đã sử dụng
những thủ thuật kế toán hết sức tinh vi trong khi Worldcom lại sử dụng những
thủ thuật hết sức đơn giản để đánh lừa các nhà đầu tư. Cả Enron và Worldcom
đều có những quan hệ mật thiết và có những đường dây móc nối với Nhà Trắng,
họ hậu thuẫn cho các quan chức để nhận được những ưu đãi. Ngoài ra, họ đều
được đảm bảo bởi một trong năm đại gia ngành kiểm toán Arthur Andersen. Hai
công ty này lớn đến nỗi không ai tin nó có thể sụp đổ.
Ngày 2 tháng 12 năm 2001 Enron tuyên bố phá sản, tiếp theo sau đó là
Worldcom ngày 19 tháng 7 năm 2002. Vậy, tại sao Enron và Worldcom sụp đổ,
những bài học gì được rút ra ở đây?
Bài làm gồm hai phần:
Công ty Enron:
I. Trước khi lâm vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ :
II. Khủng hoảng và sụp đổ:
III. Nguyên nhân phá sản:
IV. Bài học từ Enron:
B. Công ty Worldcom:
I.Trước khi lâm vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ:
II. Khủng hoảng và sụp đổ:
III. Nguyên nhân:


IV. Bài học từ Worldcom:
NỘI DUNG:
A. Công ty Enron.
Câu chuyện về Công ty Enron của Mỹ là thời sự nóng nhất trên thị trường tài
chính thế giới vào giai đoạn cuối năm 2001 và đầu năm 2002.
I.Trước khi lâm vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ :
Quá trình hoạt động của công ty:
Thành lập năm 1985, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và
Internorth of Omaha, cái tên Enteron (ruột) xuất phát từ ý tưởng cho rằng đó là
bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa, Enron nhanh chóng trở thành
một công ty đa quốc gia hùng mạnh trong lĩnh vực năng lượng sau thời gian ngắn
15 năm. Enron đã bắt đầu từ con số không để trở thành công ty lớn thứ bảy của
Hoa Kỳ và có lúc là công ty năng lượng nổi tiếng hàng đầu thế giới. Công ty có
hoạt động ở hơn 30 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Họ sử dụng
hơn 21 nghìn nhân viên và hiện diện ở hơn 40 nước trên toàn thế giới, trong đó
có 7.500 nhân viên làm việc tại tòa nhà 50 tầng ở trung tâm Houston. Một công
ty chuyên về hơi đốt thiên nhiên ở Omaha thuộc bang Nebraska (Mỹ) và điều
hành 59.200 km đường ống.
Năm 1989, Enron bắt đầu kinh doanh các mặt hàng hơi đốt thiên nhiên. Trong
nhiều năm, công ty trở thành nhà kinh doanh đường ống và điện năng lớn nhất
Bắc Mỹ và Anh Quốc.
Năm 1997, công ty bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động bằng việc sang kinh
doanh các sản phẩm than đá, giấy và bột giấy, nhựa, kim loại và viễn thông.
Enron thường được xem như là trung tâm của các cuộc cách mạng liên quan đến
viễn thông, Internet, sự bãi bỏ kiểm soát về năng lượng, v.v...
Không còn gì nhiều để nói về sự thành công và thất bại đầy tai tiếng của ông
trùm năng lượng Enron ở Texas. Cùng với việc sản xuất năng lượng, họ cũng tạo
nên một đặc trưng thương hiệu mạnh mẽ. Enron giành được giải thưởng “Công ty
Đột phá Nhất nước Mỹ” của tạp chí Fortune sau 6 năm hoạt động, họ cũng được
xếp hạng cao trong biểu đồ “Những công ty tốt nhất để làm việc” cũng của tạp

chí này. Công ty cũng cổ vũ hình ảnh của một công dân tốt của cộng đồng, ấn
hành các báo cáo xã hội và môi trường nhắm vào những hoạt động của công ty
với sự cẩn trọng đối với những hệ quả môi trường của công việc, các chính sách
chống hối lộ và tham nhũng cùng những mối quan hệ đồng sự.
Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập
niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi
sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng
năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống
phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên
thị trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng
giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng
lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà
máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng
lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính
thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và
phương tiện viễn thông.
Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước dễ dãi nhất
về luật kế toán. Hệ thống công ty mẹ-công ty con được thiết kế bởi các chuyên
gia tài chính rất tài giỏi, và được bảo đảm bởi một trong 5 đại gia ngành kiểm
toán của thế giới: Arthur Andersen.
Trong nhiều năm, Enron chứng tỏ họ là một công ty lớn mạnh và có lợi nhuận
cao:
Thành công đáng kể nhất của Enron là trong khoảng thời gian từ năm 1997
đến năm 2000. Trong khoảng thời gian này, giá cổ phiếu của Enron tăng từ dưới
20 USD lên trên 80 USD. Năm 2000, giá trị thị trường của Enron đạt 77 tỉ USD.
Lợi nhuận của công ty cũng tăng rất nhanh, từ 20 tỉ USD trong năm 1997 lên
thành 101 tỉ USD trong năm 2000, tăng hơn năm lần chỉ trong vòng bốn năm, là
một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại
chúng, điển hình là tạp chí Fortune, luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều
tiềm năng nhất với số vốn kinh doanh 63 tỷ USD.

Từ năm 1985 đến cuối năm 2001, giá cổ phiếu của công ty liên tục tăng lên.
Cao điểm là vào tháng 10/2001, giá cổ phiếu của công ty đã tăng hơn gấp đôi
trong vòng chỉ một năm.
Trên con đường phát triển và mở rộng lĩnh vực hoạt động, việc kinh doanh
của Enron ngày càng mang thêm nhiều rủi ro. Trong việc kinh doanh vận chuyển
qua hệ thống đường ống, cả lượng và giá đều ổn định. Nhưng trong lĩnh vực
buôn bán khí đốt và xăng dầu, giá cả dao động rất mạnh đồng thời số lượng cũng
giao động do sức ép cạnh tranh.
Enron lớn đến mức không ai tin nó có thể sụp đổ. Vậy tại sao Enron, một
công ty năng lượng lớn nhất nước Mỹ, đứng thứ bảy trong số các công ty lớn
nhất của Mỹ, lại rơi vào tình trạng khủng hoảng và phá sản nhanh đến thế.
II. Khủng hoảng và sụp đổ:
Khủng hoảng bắt đầu hiện ra từ cuối năm 2001.
Ngày 10-1, Tòa Bạch Ốc chính thức thông báo lãnh đạo tập đoàn Enron, ông
Kenneth Lay, đã từng liên hệ với giới chức cao cấp của chính quyền Bush, trong
đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans
để tìm kiếm sự giúp đỡ, xin chính phủ can thiệp tài chính để thoát khỏi bờ vực
phá sản, nhưng đều bị hai Bộ Trưởng từ chối. Lúc đó, ông O'neil đã không thông
báo cho Thủ Tướng Bush về cuộc khủng hoảng của Enron và chính quyền cũng
không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của Enron.
Đến tháng 10-2001, Ủy ban Chứng khoán Mỹ đã điều tra sổ sách kế toán của
Enron và sự thật mới bắt đầu hé lộ.
Tập đoàn Arthur Andersen chịu trách nhiệm kiểm toán, lưu giữ chi tiết các
hoạt động tài chính của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ "một số lượng
đáng kể nhưng không xác định được" những tài liệu nói về sai phạm tài chính ở
Enron. Các công tố viên cho biết số lượng tài liệu liên quan bị hủy bỏ có thể lên
đến hàng ngàn.
Nhiều nhà phân tích tài chính liên tục đánh giá cao công ty này, cho đến sát
thời điểm nó sụp đổ. Theo chuyên san tài chính Bloomberg Markets, đến trung
tuần tháng 10-2001, vẫn có ít nhất 6 nhà phân tích nổi tiếng ở Wall Street tiếp tục

khuyên nên mua cổ phiếu Enron.
Ngày 26/10/2001, công ty lần đầu tiên thừa nhận đã lỗ hàng trăm triệu USD
trong một quý:
Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ
USD.
Số nợ 1,2 tỷ USD bị giấu đi đã gây hoảng loạn trên thị trường chứng khoán
khi nó bị tiết lộ.
Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá
nhân.
Tháng 12 năm 2001,Ủy ban Chứng khoán Mỹ thông báo rằng ủy ban này đã
kiện ông Fastow trước một tòa án ở Washington vì không giao nộp các tài liệu
liên quan đến các hoạt động tài chính bất minh của Enron và không trình diện ủy
ban theo trát đòi ngày 30-10.Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi.
Khi công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng
cổ phiếu. Việc trả lương bằng cổ phiếu chẳng những không thể làm cho giám đốc
điều hành đặt quyền lợi cổ đông lên trên hết, mà còn gây hậu quả ngược lại –
mua lấy sự im lặng của các giám đốc này về tình hình tài chính. Làm cách đó, giá
trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng.
Đã có những dự báo trước: Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm toán của
Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần sau,
nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của Enron.
Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng khoán) đã
xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân viên này bị sa
thải ngay sau đó.
Cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại: Ngày 15-8-2001, cổ phiếu Enron bắt đầu
mất giá, đầu tháng 11 năm 2001, giá cổ phiếu của Enron giảm xuống dưới 10
USD, cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD.
Ngày 9-2002 Hoa Kỳ đã chính thức cho chuyển hồ sơ của tập đoàn Enron
sang bộ phận điều tra hình sự. Cuộc điều tra này dự kiến được chỉ thị từ Hoa
Thịnh Đốn nhưng sẽ có Công Tố Viên nhiều tiểu bang tham gia. Trước đó, Enron

đã trải qua hằng loạt cuộc điều tra dân sự khi nộp đơn xin phá sản lần thứ hai vào
tháng 12-2001.
Trong thời điểm này các công tố viên quan tâm đến một yếu tố có khả năng
gây chấn động: Bộ Trưởng Tư Pháp John Ashcroft trong ngày 10-1 đã tự rút lui
khỏi ban điều tra hình sự của Bộ Tư Pháp về công ty Enron, sau khi thông tin về
số tiền 61. 000 Mỹ kim mà Enron đóng góp vào quỹ tranh cử vào Thượng Viện
của ông trong năm 2000 được công bố. Toàn bộ văn phòng Tư Pháp tại Houston,
cơ quan được chỉ định điều tra vụ Enron, cũng đã rút lui khỏi tiến trình điều tra
với lý do "có liên hệ tài chính" với Enron.
Ngay trong tháng 12 năm đó (ngày 2 tháng 12 năm 2001), công ty tuyên bố
phá sản.
Hàng nghìn người bị mất việc làm và "xóa xổ" tài khoản hưu trí trị giá hàng tỷ
USD của các nhân viên.
Khi Enron sụp đổ, nó phá hủy hơn 60 tỷ USD giá trị thị trường.
Những công bố về lợi nhuận của công ty được minh chứng là không có thật,
họ có những món nợ khổng lồ không được thể hiện trong sổ sách của công ty.
Bất ngờ hơn vẫn là chuyện của các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến
cựu Giám đốc tài chính Andrew Fastow của Enron đã "tỉa" trên 33 triệu USD từ
các giao dịch, sau khi chịu sự điều tra đã bị kết án 10 năm tù năm 2004.
Công ty sụp đổ với khoảng nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàng tỷ dollars
nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bố phá
sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ
quyết định điều tra xem có phải các giới chức Enron đã phạm tội lừa đảo trước
khi công ty phá sản hay không.
Lật lại hồ sơ, người ta thấy rằng Tổng Thống Georges W. Bush đã nhận được
từ Enron và những người liên quan đến công ty hơn 550. 000 dollars - số tuyền
hậu thuẩn tài chính lớn nhất. Đổi lại, ông dành cho Enron những ưu đãi đáng kể
trong việc làm ăn. Enron và Ken Lay - gián đốc điều hành của Enron, người được
ông Bush đặt tên thân mật là "Kenny Boy" - đã quyên góp tiền cho ông Bush từ
hai lần ông tranh cử thống đốc bang Texas năm 1994 và 1998 (với tổng số tiền

312. 500 dollrs), đến chiến dịch tranh cử tổng thống và cả tiền cho lễ đăng quang
tổng thống hồi đầu năm 2001. Lay nói rằng ông ta ủng hộ ông Bush bởi có quan

×