Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là một trong năm nhân tố quan trọng tác động tới tăng trưởng kinh tế. Vì vậy
vốn ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội. Trong những
năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng , đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong phát triển Kinh tế – Xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định, trung
bình từ 7% đến trên 8% một năm. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như vậy, nhu cầu về vốn
của đất nước đang trở nên hết sức cấp thiết. Đất nước đang khát vốn. Chúng ta không
nên chỉ dừng lại ở nguồn vốn huy động từ trong nước mà còn cần phải tranh thủ nguồn
vốn từ nước ngoài. Có như vậy mới có thể đáp ứng nhu cầu về vốn đang ngày càng gia
tăng. Bên cạnh các nguồn vốn khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) là một nguồn
vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện khai thác lợi thế so sánh, mở ra
nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lí và trình độ công nghệ, mở
rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm và chủ đọng trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Thực tế trong hơn 20 năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc
thu hút cũng như sử dụng FDI . Tuy nhiên bên cạnh đó còn không ít những mặt hạn chế
cần được khắc phục. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải làm rõ nguyên nhân của những thành
công và cả những hạn chế trong việc thu hút và sử dụng FDI từ đó có định hướng thu hút
và sử dụng FDI sao cho có hiệu quả trong những năm tới.
Với những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên trong quá trình
thực hiện đề án em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự
góp ý, phê bình của cô để đề tài này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
NỘI DUNG
I.Quan niệm về FDI và vai trò của nó
1. Quan niệm về FDI
1.1 Định nghĩa
1.2 Phân loại
1.3 Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
2. Vai trò của FDI
II. Tình hình FDI từ năm 1988 đến nay
1. Quá trình hình thành hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2. Quá trình thu hút và sử dụng vốn ĐTNN tại Việt Nam 20 năm qua
2.1 Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng kí từ 1988 đến nay
2.1.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến nay
2.1.2 Tình hình tăng vốn đầu tư
2.1.3 Quy mô dự án
2.1.4 Cơ cấu vốn FDI từ 1988 đến nay
2.2 Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN
2.2.1 Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến nay
2.2.2 Triển khai hoạt động sản xuất – kinh doanh của các dự án ĐTNN
2.2.3 Rút giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn
3. Tác động của FDI đối với nền kinh tế
3.1 Mặt tích cực
3.1.1 Về mặt kinh tế
3.1.2 Về mặt xã hội
3.1.3 Về môi trường
3.2 Mặt hạn chế
4. Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm tới
4.1 Mục tiêu chương trình thu hút ĐTNN 2006 – 2010
4.2 Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành
4.2.1 Ngành Công nghiệp – Xây dựng
4.2.2 Ngành Dịch vụ
4.2.3 Ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp
4.3 Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng
III. Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và các giải pháp chủ yếu
1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài
1.1 Nguyên nhân của những thành tựu
1.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2. Bài học kinh nghiệm
2
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
3. Các giải pháp chủ yếu
3.1 Nhóm giải pháp về quy hoạch
3.2 Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách
3.3 Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư
3.4 Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
3.5 Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương
3.6 Nhóm giải pháp về cải cách hành chính
3.7 Một số giải pháp khác
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
NỘI DUNG
I. Quan niệm về FDI và vai trò của nó
1. Quan niệm về FDI
1.1 Định nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài
hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất
kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài
sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài
là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
1.2 Phân loại
Phân loại theo bản chất đầu tư
• Đầu tư phương tiện hoạt động:
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua
sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức
này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
• Sát nhập và tiếp thu:
Sát nhập và tiếp thu là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có
vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể
đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh
nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới
tăng khối lượng đầu tư vào.
Phân loại theo tính chất dòng vốn
• Vốn chứng khoán:
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do
một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào
các quyết định quản lý của công ty.
• Vốn tái đầu tư:
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
• Vốn vay nội bộ hay giao dịch nội bộ:
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể
cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau
4
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Phân loại theo mục đích
• Tìm tài nguyên và lao động rẻ tiền:
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào
ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá
thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng rồi rào. Nguồn vốn loại này còn
nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như
các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của
nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài
nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
• Tìm thị trường tiêu thụ:
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị
đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng
các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác,
lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và
toàn cầu.
• Tìm hiệu quả kinh doanh:
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp
nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện
nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh
doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v…
1.3 Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Chu kì sản phẩm
Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Khai thác chuyên gia và công nghệ
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
2. Vai trò của FDI
2.1 Về kinh tế
• Bổ sung nguồn vốn trong nước
• Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lí
• Đẩy mạnh xuất cảng
• Đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước
• Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
• Góp phần tăng trưởng GDP
• Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
2.2 Về xã hội
• Tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực
• Mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
5
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
II. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1988 đến nay
1. Quá trình hình thành hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Năm 1986 Đảng chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện,
trong đó có việc hoàn thiện, nâng cao điều lệ đầu tư năm 1977 thành bộ luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1987. Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này
đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với
hoàn cảnh mới. Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của Đảng,
mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa
dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương
phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Kể từ khi ban hành năm 1987 đến
nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm
1990, 1992, 1996, 2000; cùng với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh
giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp
luật ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi
trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến ĐTNN cũng
không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều
kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà ĐTNN vẫn có thể tiến
hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với
một số nước có kinh tế thị trường truyền thống. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo
"một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ
tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư;
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với
hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày
01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế
có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu
phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình
phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật
ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng
hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần
quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt
Nam kể từ năm 2006 tới nay.
2. Quá trình thu hút và sử dụng vốn ĐTNN tại Việt Nam 20 năm qua
2.1. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988 đến nay
2.1.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 đến nay
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu
tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết
thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
6
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Trong quý I năm 2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, trong quý I cả
nước đã thu hút thêm 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký. Riêng trong tháng 3/2008, cả
nước có 75 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,627
tỷ USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong quý I năm 2008 lên 147 dự án với tổng vốn đầu
tư đăng ký là 5.156 tỷ USD.
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6
tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng
ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như
là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn
đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường
đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh
doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công
rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các
thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội
của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm
1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với
năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13
tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8%
năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn
vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những
năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính
(đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục
hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999;
năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so
với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng
tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng
50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ
USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất
của thời kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt
73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ , vốn
thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-
2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng
trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2
năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất
hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất
thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao, ) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ
thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng
ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
7
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Tổng số dự án, tổng vốn đăng ký, tổng vốn thực hiện FDI, 1988 đến nay (tính cả các dự
án đã thực hiện xong hoặc đã giải thể, phá sản)
Năm Số dự án Vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn thực hiện
(triệu USD)
1988 38 321,5
1989 68 525,5
1990 108 735,0
1991 151 1.291,5 328,8
1992 197 2.208,5 574,9
1993 274 3.347,2 1.017,5
1994 367 4.534,6 2.040,6
1995 408 7.695,8 2.556,0
1996 387 9.735,3 2.714,0
1997 358 6.055,3 3.115,0
1998 285 4.877,0 2.367,4
1999 311 2.264,3 2.334,9
2000 389 2.695,7 2.413,5
2001 550 3.230,0 2.450,5
2002 802 2.963,0 2.591,0
2003 748 3.145,5 2.650,0
2004 723 4.222,2 2.852,4
2005 490 6.800,0
2006 1240 10.200,0 4.100,0
2007 1.445 21.300,0 8.030,0
Quý I
2008
147 5.436,0
8
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
2.1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có
hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm
2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng
vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới.
Trong qúy I năm 2008 có 49 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng
ký tăng thêm là 280,3 triệu USD, bằng 47% về số lượt dự án tăng vốn và 52% tổng vốn
tăng thêm so với cùng kỳ năm trước.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh
nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-
1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD).
Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ
USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1
tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2
tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai
đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ
lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng
thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong
giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-
2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế
trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm
55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong
giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng
trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam
có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất
tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường
đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
2.1.3. Quy mô dự án
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng
như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn
đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng”
trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn
đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký
bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3
triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô
lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên,
quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều
này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy
mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ
9
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án
lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio ).
2.1.4. Cơ cấu vốn FDI từ 1988 đến nay
• FDI phân theo ngành nghề
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu
hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên
thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến
khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút
ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : sản xuất sản
phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc
80% trở lên), sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ
các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực
hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng
thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ
thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm
công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản
phẩm và linh kiện điện tử Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng
cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án
ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm
công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may ) vẫn
giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm
và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển
biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và
công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới:
Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị
hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao,
do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với
5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án,
61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
- FDI trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy,
khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số
ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không,
vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động
và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong
WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp
phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao
gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu
công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%),
giao thông vận tải-bưu điện (18%)
10
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ,
chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với
nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải
trí.v.v.
- FDI trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được
chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực,
tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số
dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006).
Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71%
tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến
mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến
lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế
biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9%
tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-
lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc,
Hồng Kông, ) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là
28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần
đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh
(Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông
Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung,
lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký
cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
• FDI phân theo vùng lãnh thổ
Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng”
ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động
lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận (xem biểu 5).
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ
USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện
của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD)
chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng
(268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng
ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự
án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ
USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ
USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự
án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp
11
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn
đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm
18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ
USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký
1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển
khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị
19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và
nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005.
Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN
(Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng
Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây ) do yếu tố tích
cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác
động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86%
giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70%
của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của
Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu
chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng ) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các
ngành công nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ
USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong
đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền
Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp
theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với
tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu
tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế,
bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng
nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng
thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy
Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực
Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu
hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn
đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa
lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn
này còn rất thấp.
• FDI phân theo hình thức đầu tư
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình
thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD,
chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có
1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng
vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn
đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại
thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động
theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức
12
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức
100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
• FDI phân theo đối tác đầu tư
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ hợp tác Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới ”
được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các
nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước
châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa
Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của
các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ
USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt
Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi
nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng
vốn đăng ký.
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ
USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore
10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân
vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện
thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng
thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và
từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan.
Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng
và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN.
• Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần
33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ Chí Minh). Trong
hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy
khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối
năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng
31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu
tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong
nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư.
2.2 Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án
ĐTNN
2.2.1 Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến nay
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la Mỹ, đã có
khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực
hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm 52,3% tổng
vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay)
khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo
mục tiêu kế hoạch đề ra.
13
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong khi
vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai đoạn
1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới ( bao
gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng
đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù
có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ
USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn
góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90%
so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm
64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu
(11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam
đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007
tổng vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ
USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới,
nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc giải
ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới trong 2 năm 2006
và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
2.2.2 Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá
trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể,
trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc làm
và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức
đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp
ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng
trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5%
GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên 17% GDP.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD (trong
đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng doanh thu) thì
trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD (trong đó giá trị xuất
khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng doanh thu), tăng gấp 6,5 lần
so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh
thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm 1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị
doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm
41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia tăng
nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã
tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5 năm trước.
Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5
năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng
38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá
trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị
xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm
14
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có
vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD,
chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp
vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và bắt
đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước
và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09
(10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta
nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con
số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số
doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai
đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng
gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-
2000. Năm 2007, dự kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn định
cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao động trực tiếp,
chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ mà theo kết quả điều
tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho khoảng từ 2-3 lao
động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên
qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào
cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so
với 5 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên.
Trong 2 năm 2006 và 2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng
lao động trong khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối
năm 2005.
2.2.3 Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn
Tính đến hết năm 2007, đã có 38 dự án ĐTNN kết thúc đúng thời hạn với tổng
vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ yếu là các dự án đầu tư
trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm dò và khai thác dầu, khí, nuôi
trồng thuỷ sản Đồng thời, đã có 1.359 dự án ĐTNN bị giải thể trước thời hạn với số
vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD, trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung trong
lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%. Điều này cho
thấy các doanh nghiệp thuộc dịch vụ không vượt qua được khó khăn, trở ngại trong hoạt
động. Trong các dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh
chiếm đa số (56% về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp
doanh (10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn nước
ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký
3. Tác động của FDI đối với nền kinh tế
3.1 Mặt tích cực
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
3.1.1 Về mặt kinh tế:
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu
tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
15
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng
chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm
dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm
2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã
hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu
tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là
14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-
2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong
đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng
tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng
4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000
tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ
tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ
tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng
10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công
nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành
nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo
công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản
xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng
giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu
khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức
tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991
lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5
năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc biệt,
một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc ) tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị
sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều
ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử
và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện
ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị
máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính
xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
16
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả
sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát
triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác
dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy Nhất là sau khi Tập đoàn
Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp,
đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa
quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết
bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh
nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh
hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng
kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh
tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các
doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa
đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn
ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển
giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh
nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng
ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ
1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49
tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối
doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006
và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời
kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển
vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê
đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh
tế quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất
17
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD
(không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu
cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt
khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí,
84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc…
Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất
tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu
cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
3.1.2 Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động,
cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao
động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch
vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong
cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia
trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước
hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng
bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp
hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng
cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và
quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý
doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa
và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy
nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính
thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA),
Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói
và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không
ngừng được cải thiện.
3.1.3 Về môi trường
18
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa
số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có
kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh
nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép
của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực
phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các
doanh nghiệp trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam.
3.2 Mặt hạn chế
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt
Nam còn những mặt hạn chế như sau:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành,
dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh
vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không
thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập
trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố
lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập
trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa,
những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và
chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan
tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển
cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng
trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì
có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư
vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng
sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được
giải quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh
doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ
đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến
mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi
công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng
lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam,
đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử
dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao
hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
19
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt
Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt
Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các
nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa
đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có
thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông
qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y.
Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói
chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công
nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy,
thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp
nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
4. Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm tới
Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (ĐTNN) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tiếp tục
được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần X.
Mục tiêu và định hướng thu hút
ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau:
4.1. Mục tiêu Chương trình thu hút ĐTNN 2006-2010 :
Các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN giai đoạn 2006-2010 cần đạt được là:
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn
2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ
USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD
và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô); nhập
khẩu đạt 103,tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp
chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%.
- Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển
bền vững.
4.2. Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành:
4.2.1 Ngành Công nghiệp-Xây dựng
- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi
điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát
triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát
triển và chuyển giao công nghệ.
20
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ
nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển
ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm
công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
4.2.2 Ngành Dịch vụ
- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong
nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các
cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ
ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào
tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ
trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem xét đẩy sớm lộ
trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư
nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:
- Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào tạo.
Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải,
viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
- Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương
thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc,
đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu
hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
4.2.3 Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp
Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản, làm muối;
sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là một trong những lĩnh
vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát triển ngành, thu hút ĐTNN định
hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau:
- Về trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN tập trung vào các dự án xây dựng các
vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê,
cao su, chè theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới
thiết bị các xưởng chế biến.
- Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, ĐTNN tập trung thu hút vào các
dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có điều kiện thuận
lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển chăn nuôi với quy mô
lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao.
- Về trồng rừng - chế biến gỗ, ĐTNN tập trung vào các dự án sản xuất giống cây
có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế
biến gỗ, lâm sản.
4.3. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng:
Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa
phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để
tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu
21
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối
với ĐTNN tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng
kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà
nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân.
Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế đã được
Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông nghiệp để phát triển
KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN-KCX-KCNC trên đất canh tác nông
nghiệp truyền thống.
III. Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và các giải pháp chủ yếu
1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN
1.1 Nguyên nhân của những thành tựu
- Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và
tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết
định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các
ngành.
- Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh
giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình
ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của
các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước
của trên 80 triệu dân.
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền
địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ
nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm
hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều
ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các
chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng
rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch. Chính vì vậy,
mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã
vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn
sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay.
1.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo
nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các chủ trương,
pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền
kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân
biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành
phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ
các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép
ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền
lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng
22
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự
làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng
dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được
còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN
tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp
ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm
xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định
hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào
vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng
về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các
cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình
độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để
khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã
hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa
chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng,
còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác
kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém
về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI
trường đầu tư-kinh doanh.
2. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau:
Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị,
nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng
như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực
lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải
được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa
kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo
thành công.
Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa
thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc
thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ ràng và phù hợp
với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cơ chế, chính
sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh tranh cao so với các nước trong
khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù
23
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện,
khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện.
Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ
cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt
đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh
chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục
hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí,
không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư.
Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công
tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà
còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ
nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại.
Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ
động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết,
chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa
mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà
đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước.
3. Các giải pháp chủ yếu
Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai
đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp
sau :
3.1 Nhóm giải pháp về quy hoạch:
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định
kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công
tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp
với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để
đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
3.2 Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp
dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp
đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết
mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời
phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng
dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên
quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công
trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm
24
______________________________________________________________________________
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
________________________________________________________________________
việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo
sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa
quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU,
Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy
định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam
kết quốc tế của Việt Nam.
3.3 Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung
danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển
ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương
mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm
tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực
hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí
cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt
Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với
các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang
thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số
ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung,
tiếng Hàn, tiếng Nga)
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với
các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào
các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu
cầu đầu tư vào Việt Nam.
3.4 Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết
cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng
cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công
trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi
trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến
Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ
đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt
Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ
thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường
hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên
25
______________________________________________________________________________