Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việtnam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.3 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã
hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đi theo hai con đường khác nhau. Các nước XHCN ở
châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy
nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước này kết
quả mong muốn. Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái, hỗn loạn, bị
xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Việt Nam lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó thừa nhận các loại hình và
chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò chủ đạo, thừa nhận KTTT,
thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo “luật chơi” của các nước trên
toàn, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền tảng chính trị của CNXH, trong đó
mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng nhà nước XHCN có khả năng
thi hành các chính sách định hướng XHCN. Ngày nay khái niệm kinh tế thị
trường không còn là khái niệm xa lạ đối với chúng ta, không ai phủ nhận vị trí,
vai trò dặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong quá
trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội; không
ai phủ nhận được sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường
trong nhiều chế độ khác nhau; không ai còn ngây thơ cho rằng kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Đảng ta khẳng định:
“Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”.Vì vậy,
phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xe để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ nghĩa nền sản xuất. Đổi
mới nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đang tạo ra sự biến đổi sâu sắc về nhận thức lý luận và thực tiễn nước
ta.
2


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên hơn nữa đó là một đề tài
đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, do vậy việc chọn đề tài nghiên cứu
về vấn đề xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN nhằm đưa ra một số lý
luận cũng như thực tiễn của nước ta.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3
NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Sự hình thành và phát triển của Kinh tế thị trường
1.1.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá
Nền sản xuất xã hội trong bất kì giai đoạn lịch sử nào cũng phải giải quyết
ba vấn đề cơ bản là: sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?
Kinh tế tự nhiên là hình thức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải
quyết ba vấn đề này. Kinh tế tự nhiên tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ,
tuy nhiên tàn tích của nó vẫn tồn tại cho tới tận bây giờ. Đặc điểm của kinh tế tự
nhiên là sản phẩm được sản xuất ra nhằm mục đích trực tiếp thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng của chính những người sản xuất hoặc tiêu dùng nội bộ, hầu như không
tồn tại quan hệ trao đổi hàng hoá. Kinh tế tự nhiên có tổ chức kinh tế khép kín,
phân tán, kỹ thuật thủ cựu lạc hậu và nhịp độ phát triển chậm chạp. Kinh tế tự
nhiên tồn tại trong điều kiện trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội khiến cho năng suất lao động thấp, sản phẩm sản
xuất ra ít, nhìn chung chỉ để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ và giới hạn của
nhu cầu cũng hạn hẹp. Chính vì vậy, theo đà phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội, và đồng thời với nó là sự tan rã của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ, quan hệ trao đổi ngày càng phát triển mạnh, khi trao đổi trở thành
mục đích phổ biến và thường xuyên của sản xuất, có sự tách biệt giữa những
người sản xuất thì nền kinh tế tự nhiên dần chuyển thành nền kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó các sản phẩm
được sản xuất ra đều nhằm mục đích để trao đổi hay để bán. Trong nền kinh tế
hàng hóa thì ba câu hỏi sản xuất cái gi, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào

đều được giải quyết thông qua thị trường và do thị trường quyết định. Nền kinh
tế hàng hoá ra đời đã thúc đẩy chuyên môn hoá, mở rộng thị trường, phát huy
được lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị kinh tế. Ngoài ra nó còn tạo động
4
lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, mở rộng quan hệ giao lưu về kinh tế giữa các vùng và giữa
các nước.
1.1.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá,
trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều được thông qua
thị trường. Nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế thị trường
khi hội nhập các yếu tố, đó là sự xuất hiện của thị trường sức lao động; tích luỹ
được một số tiền nhất định; cần có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương
đối phát triển; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển và tăng cường vai
trò kinh tế của nhà nước.
1.2. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay
1.2.1. Kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, cơ chế
thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của
cá quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung - cầu và giá cả thị trường. Nó nảy
sinh một cách tất yếu từ sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, qua
thị trường để tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy
luật khách quan (giá trị, cung- cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ,…).Căn cứ vào
thị trường, các doanh ngiệp sẽ quyết định: sản xuất gì, sản xuất như thế nào và
sản xuất cho ai.
Vậy nền kinh tế thị trường có những đặc trưng sau:
* Đặc trưng cơ bản nhất là nền kinh tế có cơ chế hình thành giá cả một cách
tự do, người bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả.

* Đặc trưng cơ bản thứ hai là lựa chọn tối ưu hoá các hoạt động kinh tế để
đạt lợi nhuận tối đa.
*Nền kinh tế chịu tác động rất mạnh của các quy luật kinh tế hàng hoá.
5
*Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật
đó.
Kinh tế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, đó là
cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác
dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thừơng xuyên đến đổi mới kĩ thuật,
công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn
trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh tế giỏi. Do đó nó
kích thích sản xuất và lưu thông phát triển. Về mặt tiêu cực, trên thị trường chứa
đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi
nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường
bị huỷ hoại, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản thất nghiệp, phân
hoá giàu nghèo cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội
không được bảo đảm, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp
pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả. Do đó để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi
Nhà nước phải quản lý nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, sự can thiệp vĩ
mô của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá.
1.2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Đó thực chất là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Mà ở nước ta những định hướng
XHCN là: Thứ nhất: phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường với sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thớc sở hữu và
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó nền kinh tế Nhà nước đóng
vai trò chủ đạo.Thứ hai: phát triển nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước bảo đảm thống nhất giữa
sự phát triển và tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.Thứ ba: xây dựng một

nền kinh tế hội nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều
hình thức quan hệ và liên kết đa phương, đa dạng.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường định hướng XHCN được xác định là tạo ra sự phát triển năng động, hiệu
quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả của sử dụng các nguồn lực hiện có,
tăng thêm các nguồn lực mới.
6
Tuy vậy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn mang
nặng những đặc điểm:
Kinh tế hàng hoá trong thời kì quá độ là nền kinh tế hàng hoá qúa độ. Tính
quá độ thể hiện trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản xuất hàng hoá đan
xen nhau; sản xuất hàng hoá XHCN, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và sản
xuất hàng hoá nhỏ… Nhưng các kiểu sản xuất hàng hoá này không giữ nguyên
bản chất vì nó mang tính chất quá độ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong
sản xuất hàng hoá của mỗi thành phần kinh tế đều đã xuất hiện những cái mới.
Kinh tế hàng hoá còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt
hàng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường và kim ngạch xuất nhập khảu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng
hoá cao, chất lượng hàng hoá thấp, quy mô và dung lượng thị trường hạn hẹp;
sức cạnh tranh còn yếu…Trình độ phát triển thấp của sản xuất bắt nguồn từ trình
độ thấp của lực lượng sản xuất .
Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo hướng hội nhập vào thị trường thế
giới. Cách mạng khoa học công nghệ ngày càng phát triển càng làm cho lực
lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực
hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế hàng
hoá không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến quan
hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế .
Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc. Bên cạnh tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới cần phải thực hiện
có hiệu quả quản lý vĩ mô của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

V?i nh?ng d?c di?m dú thỡ những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta là:
Về mục tiêu: Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là
một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên XHCN từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm
nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Đây là mục tiêu lớn và xuyên suốt trong quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế nói riêng và phát triển đất nước nói chung, như
tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng: “Làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến
7
tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việt làm, có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ Tịch Hồ Chí
Minh hằng mong ước”.
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế
gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã phải trở
thành nền tảng và kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế
đều vận động theo định hướng chung và khuôn khổ pháp luật của Nhà nước
XHCN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương (khoá VI) đã
đi đến kết luận rất đúng rằng: “Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có
bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách
nhau mà mà có nhiều loại hỗn hợp, đan xen với nhau”.
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình
kinh tế “mở” cả với bên trong và với bên ngoài.Tồn tại trong nhiều hình thái
kinh tế – xã hội, hoạt động của các cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động
của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các
quy luật kinh tế đặc thù của cá phương thức sản xuất chủ đạo.
Về phân phối thu nhập: Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế hàng hoá, kinh
tế thị trường định hướng XHCN thể hiện: Một mặt xác định mục cần đạt được,
mặt khác nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN.
1.3. Một số mô hình Kinh tế thị trường trên thế giới

1.3.1. Mô hình truyền thống
Mô hình này diễn ra ở các nước tư bản phương Tây điển hình ví dụ như
Anh, Pháp, Đức…Mô hình truyền thống trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn chuyển
từ nền kinh tế hang hoá giản đơn sang nền kinh tế hang hoá; giai đoạn kinh tế thị
trường tự do; giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước.
Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hang hoá giản đơn sang nền kinh tế thị trường
Giai đoạn này diễn ra từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 tại Anh và một số nước
châu Âu khác. Đây cũng là thời kỳ quá độ từ phương thức sản xuất phong kiến
sang phương thức sản xuất TBCN. Giai đoạn này hoạt động ngoại thương được
8
đẩy mạnh, là một phương thức chủ yếu để giai cấp tư sản tích luỹ tiền tệ. Cùng
với sự tích luỹ tiền tệ, thị trường sức lao động cũng dần được hình thành. Không
những trong thương nghiệp mà trong nông nghiệp cũng chứng kiến sự phát triển
của CNTB. Ở các nước bước vào kinh tế thị trường trong giai đoạn này, Nhà
nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của
kinh tế thị trường bằng cách đưa ra các chính sách kinh tế như quản lý tiền tệ,
quản lý buôm bán xuất nhập khẩu, thực hiện thuế quan bảo hộ.
Giai đoạn kinh tế thị trường tự do
Đây là giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường dân tộc theo nguyên tắc
tự do kinh tế. Ở các nước phương Tây, giai đoạn này kéo dài từ cuối thế kỷ 18
đến đầu thế kỷ 20. Trên cơ sở tích luỹ được khối lượng tiền tệ lớn, các nhà kinh
doanh tập trung sực phát triển thị trường dân tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế dân tộc đã làm tăng sức mạnh của các ngành nông nghiệp, công nghiệp
và các ngành sản xuất khác, khẳng định sự chiến thắng của Kinh tế thị trường
đối với các ngành sản xuất nhỏ. Một đặc trưng quan trọng cùa giai đoạn này là
sự phát triển của kinh tế thị trường diễn ra trên tinh thần tự do, Nhà nước không
can thiệp vào kinh tế.
Giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước
Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường
và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Giai đoạn này diễn ra từ những năm

50 của thế kỷ 20 đến nay. Sự can thiệp của nhà nước giúp cho kinh tế thị trường
tránh khỏi các khủng khoảng trầm trọng. Thông qua việc xây dựng các hình thức
sở hữu tư bản nhà nước, các chương trình kích thích đầu tư, kích thích tiêu dung
và đặc biệt là sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ để điều
tiết nền kinh tế trên tầm vĩ mô.
9
1.3.2. Mô hình phát triển rút ngắn
Thực tế lịch sử cho thấy có rất nhiều nước đã biết tận dụng lợi thế là nước
đi sau để tiến nhanh đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Nhật bản là một nước
điển hình, gần đây là sự phát triển của các nước NICS.
Mô hình rút ngắn hoàn toàn không phải là sự đốt cháy giai đoạn mà nó là kết
quả của sự phát huy tính năng động chủ quan của các quốc gia đi sau thông qua
vai trò của Nhà nước, vận dụng mọi tiềm năng quốc gia tiếp nhận các kinh
nghiệm và thành quả của các nước tiên tiến đi trước để rút ngắn được về mặt
thời gian các quá trình phát triển kinh tế thị trường.
1.3.3. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, hoạt động của cơ chế thị
trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung,
mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức
sản xuất chủ đạo. Do vậy mô hình cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền
kinh tế định hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Thứ nhất: về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất còn cơ
chế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi
trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò
nền tảng của nền kinh tế quôc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Thứ hai: về tính chất giai cấp của Nhà nước và mục đích quản lý Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của Nhà nước luôn luôn
mang tính chất tư sầnv trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm

bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho giai cấp tư sản, cho sự bền
vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Còn trong cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước
XHCN nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
10
Thứ ba: Về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó được thể hiện sâu sắc hơn so với
cơ chế vận hành trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư: về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển với công bằng xã hội.
Trong sự phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa vấn đề công bằng xã hội
chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã
hội, tạo nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dạo sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó chỉ
được xem là phương tiện để duy trì chế độ chủ nghĩa tư bản. Còn trong nền kinh
tế hàng hoá định hướng XHCN: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.
Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, ở
việc tạo điều kiện chi mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình”.
Thứ năm: Về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và
công bằng, bình đẳng trong xã hội. Do đó đặt ra cho kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau đây: Một là, kết
hợp vấn đè lợi nhuận với vấn đề xã hội. Hai là, kết hợp chặt chẽ các nguyên tắc
phân phối của XHCN và nguyên tắc của kinh tế hàng hoá. Ba là, điều tiết phân
phối thu nhập, một mặt đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo; mặt khác, phải có chinh sách, biện pháp bảo vệ thu
nhập chính đáng của người giàu người nghèo và của toàn xã hội.

Trên đây là sự khác biệt căn bản và cũng chính là những mặt tiến bộ hơn
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN so với cơ chế thị trường tư bản
chủ nghĩa từ đó chúng ta rút ra nhận định rằng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN là một con đường đúng đắn và tiến bộ.
2. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Sự cần thiết khách quan phải chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền
Kinh tế thị trường định hướng XHCN
11
2.1.1. Thời kỳ nền kinh tế theo lối tập trung quan liêu bao cấp
Xây dựng XHCN với xuất phát điẻm thấp, từ nột nền kinh tế phổ biến là
sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu, hậu quả của chiến tranh tàn phá nặng nề
trên phạm vi cả nước khắc phục được. Mặt khác ta mắc phải sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ
chế quản lý kinh tế theo lối tập trung quan liêu, bao cấp, nóng vội trong cải tạo
XHCN. Những sai lầm này đã gây ra nhiều hậu quả và làm cho nền kinh tế nước
ta phát triển chậm chạp và lâm vào cuộc khủng hoảng, làm cho nền kinh tế nước
ta trong một thời gian dài phát triển trì trệ.
Bên cạnh những khó khăn trên, tình hình quốc tế phức tạp: Khủng hoảng
dẫn đến sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, cho Đảng ta
thấy rõ mô hình CNXH kiểu cũ không còn phù hợp. Mô hình đó cần thay đổi
cho phù hợp với nhu cầu khách quan, nhu cầu cần phát triển kinh tế xã hội. Hơn
nữa sự đổ vỡ, tan rã này là nước ta mất thị trường lớn, mất nguồn vốn vay, đòi
hỏi phải tìm một giải pháp mới, khắc phục những khó khăn, ách tắc cho sự phát
triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Đổi mới hợp tác mở rộng để phát triển kinh tế–xã hội nhưng không đổi
hướng, đổi đường. Điều này thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
của Đảng ta. Đảng không bối rối trước khó khăn mà bình tĩnh tiến hành đổi mới
trên cơ sở lý luận, thực tiễn đã phân tích ở trên, khắc phục những sai lầm, yếu
kém do cơ mô hình và chế cũ để lại nhằm thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển,

từng bước ra khỏi khó khăn, khủng hoảng.
Chính vì vậy “ nhiệm vụ quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn nhất mà
các nền kinh tế chuyển đổi phải giải quyết có thể nhanh chóng trở thành kinh tế
thị trường là xoá bỏ bao cấp. Tôi cho rằng xoá bỏ bao cấp là bài thuốc thử
thành công của nền kinh tế chuyển đổi ”.(Thời đại mới -Tạp chí nghiên cứu và
thảo luận /Số 6-Tháng 11/2005)
2.1.2. Những điều kiện, cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển Kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12-1986 đã thấy rõ tình thế
kinh tế -xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn. Đại hội đã thẳng thắn cho rằng:
12
“ Trong nhiều năm qua, ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu
và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất -kĩ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh
tế”. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai
lầm về chính sách kinh tế, như Đại hội nhấn mạnh, là lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan: “ Trong lĩnh vực tư tưởng
đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thớc lý luận và vận dụng các quy luật hoạt động
trong thời kì quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện
nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng
đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế,
chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại
khách quan; do đó không chú ý vận chúng vào việc chế định các chủ trương,
chính sách kinh tế ”. Chính vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan và nó dựa trên các điều kiện, cơ
sở khách quan sau:
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường nó chẳng những không mất đi mà ngày càng
được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Lê-nin cho rằng: “ Hễ ở đâu và khi
nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy, có thị
trường”. Điều đó được thể hiện trong nền kinh tế ngày càng ngành nghề mới ra

đời và phát triển. Nó thể hiện ở tính đa dạng, phong phú và chất lượng ngày
càng cao của sản phẩm hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường. Mặt khác những
ngành nghề truyền thống bị mai một đi do cơ chế cũ thì nay được khôi phục và
phát triển. Sản phẩm ngành nghề truyền thống được đưa ra trao đổi trên thị
trường thế giới và được người tiêu dùng đánh giá cao.
Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện
bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Nếu như phân công lao động là điều kiện ra đời
và tồn tại sản xuất hàng hoá mới là điều kiện cần thì Mác khẳng định rằng điều
kiện đủ của sản xuất hàng hoá là: “ Những lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc vào nhau”.
Trong quan hệ kinh tế đặc bịêt là phân công lao động quốc tế đang phát
triển cho nên hàng hoá đưa ra tiêu thụ trên thị trường thế giới và trao đổi theo
13
nguyên tắc ngang giá. Do đó quan hệ hàng hoá- tiền tệ là rất cần thiết trong quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất
định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, về trình độ kĩ
thuật -công nghệ, trình độ tổ chức quản lý.
Như vậy, khi kinh tế hàng hoá ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan,
thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ được. Và cũng chính những điều
kiện, cơ sở khách quan đó là tiền đề để nước ta phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN và đó là một tất yếu khách quan không thể phủ nhận được.
Do đó tính tất yếu khách quan xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Từ những điều kiện cơ sở khách quan
đó thì việc nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước cũng là một tất yếu khách quan.
2.2. Thực trạng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt

Nam hiện nay
2.2.1. Những thành tựu
Nền kinh tế tăng trưởng liên tụcN, nhiều năm có tốc độ cao. Trong suốt thời
kì đổi mới đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương,
đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục. Nó
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
14
(%)
16
15
14
13
12
11
10
9
8
7
6
5
4
3
2
1
0
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2000 2001 2002(*)
GDP khu vùc I khu vùc III khu vùc II
6,08
3,7
11,1

12
10,6
10
14,2
14,5
8,8
5,75
5,57
6,13
7
8,18
6,94
6,79
6,84
3,9
4,09
4,3
4,0
3,7
5,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Động thái và thực trạng kinh tế xã hội Việt
Nam qua 10 năm đổi mới, Hà Nội, 1996; Tình hình kinh tế –xã hội Việt Nam 10
năm 1991-2000, Hà Nội, 2001.(*) Số ước tính, Thời báo kinh tế Việt Nam số 2
ngày 3/1/2003.
Trong những năm đầu thập kỉ 90, nền kinh tế nước ta tăng trưởng ổn định
và đạt đến đỉnh điểm cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm
(1991-1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiêu chỉ tiêu chủ yếu của
kế họach này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã nhận định: “Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế –xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ

đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Tất cả các mục tiêu kinh tế – xã hội của kế
hoạch 5 năm1996 -2000 và chiến lược 10 năm1991 -2000 đều đạt được vượt kế
hoạch. GDP trong 10 năm này bình quân tăng 7,56%. Từ năm 1991 đến nay, sản
xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một phần để tích luỹ (1991:
10.1%; năm 1995:20%; năm 2000:27% GDP). Sau dây là thành tựu một số
ngành:
+ Nông nghiệp: phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng
và thuỷ sản. Thành tựu quan trọng nhất và nổi bật nhất là đã giải quyết vững
chắc, an toàn lương thực quốc gia. Sản lượng lương thực tăng nhanh: từ 21, 5
triệu tấn(1990) lên 27, 5 triệu tấn(1995) và 34, 5 triệu tấn(2000) và gần 36 triệu
tấn (2002) bình quân mỗi năm tăng 1, 4 triệu tấn.Do đó Việt Nam từ một nước
thiếu lương thực trước năm 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế
giới. Những chuyển biến trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống
nhân dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá.
Do đó tổng giá trị nông sản xuất khẩu đã chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất
15
khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá đã hình thành gắn với thị trường
quốc tế.
+ Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ hai số. Bình quân
thời kì 1991-1995 tăng 13,7%, thời kì 1996-2000 tăng 13,2%. Nhiều sản phẩm
công nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mà còn xuất khẩu. Thời kì
này ta đã hoàn thành một số công trình lớn: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Yaly,
đường dây 500 KV Bắc -Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ…
+ Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp
đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa.
+ Hoạt động thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc. Cơ chế cung cấp
theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ thay vào đó là sự tự do lưu
thông, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn

định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện.
* Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
+ Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (nông nghiệp,
lâm nghiệp và thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục, nhưng tỷ
trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỷ trọng khu vực II (gồm công nghiệp và xây
dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đó là dấu
hiệu của một nền kinh tế đang phát triển theo xu thế chung của sự phát triển trên
toàn thế giới. Đây cũng là một thành tựu lớn của nền kinh tế nước ta sau khi
thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nó được
thể hiện qua bảng số liệu sau:
Cơ cấu
GDP theo
các khu vực
16
(%)
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
1986 1990 1995 2000 2001(*) 2002(**)
Khu vùc I Khu vùc II Khu vùc III
34,7
31,8

26,3
23,3
22,4
21,6
26,8
25,2
29,9
35,4
36,6
38,8
38,5
43
43,8
41,3
41
41,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, niên giám thống kê (qua các năm). (*)Số sơ bộ.S
(**)Số ước tínhS, thời báo kinh tế Việt Nam số 2 ngày 3/1/2003
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Các thành phần kinh tế trong GDP cũng đã có
sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng
vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường. Doanh nghiệp Nhà
nước sắp xếp lại để hoạt động có hiệu quả hơn. Khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh.
+ Cơ cấu vùng kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng hình thành 3 vùng
kinh tế trọng điểm ở 3 miền: Bắc, Trung, Nam và các vùng kinh tế đầu tư cho sự
phát triển chung của cả nước.
* Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành: Nhà nước đã
xoá bỏ về cơ bản cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, xây
dựng một bước nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong toàn bộ biện

pháp đổi mới cơ chế quản lý, cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá
hành chính sang cơ chế giá thị trường có vị trí trung tâm. Tuy nhiên, cơ chế thị
trường ở nước ta vẫn còn đang ở giai đoạn sơ khai và chưa đồng bộ.
* Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát: Trong những năm 1986-1988, lạm phát đã
tăng tới ba con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Từ 1989, lạm phát được chặn
lại ở mức 2 con số. Năm 1986: 774,7%; năm 1990:67,4%; năm1995: 12,7%;
năm1997: 3,7%; năm 1999: 0,1%; trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá
cao.
17
* Kinh tế đối ngoại của nước ta được phát triển nhanh, mở rộng về quy mô,
đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá thị trường. Quan hệ đối ngoại nước ta
càng được mở rộng. Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận, ngày 11/7/1995, Mỹ
tuyên bố bình thường hoá quan hệ và ngày 12/7/1995 đã thiết lập quan hệ kinh
tế với Việt Nam. Ngày 17/7/1995 nước ta và liên minh Châu Âu đã kí hiệp định
chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học -kĩ thuật. Ngày 28/7/1995,
Việt Nam ra nhập ASEAN. Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hằng năm trên 20%. Nhập siêu đã
giảm từ 3, 8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 900 triệu USD (2000) và 1, 135
tỷ(2001). Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt dầu từ năm1988, với 37 dự án và 371
triệu USD, vốn thực hiện khoảng 18, 9 USD. Do đó giúp giải quyết việc làm cho
32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp.
* Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Số
lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng nhanh. Thu nhập của dân
cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới. GDP bình quân đầu người đạt gần
400 USD /năm. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt 10%, số hộ nghèo giảm
xuống, từ 55%(1989) xuống còn 11,4%(2000).Cùng với đời sống vật chất thì
đời sống tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên đáng kể.
Những thành tựu kinh tếN -xã hội đã đạt được trên đây là kết quả của
đường, lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó cũng là
kết quả của sự phù hợp ý chí Đảng và lòng dân. Những thành tựu đó có ý nghĩa

rất quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà n
ước và chế độ ta.
2.2.2. Những khó khăn tồn tại
* Trình độ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Do
các nguyên nhân sau:
+ Cơ sở vật chất -kĩ thuật còn ở trình độ thấp, nhiều ngành kinh tế máy móc
quá cũ kĩ lạc hậu.
+ Kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc
còn lạc hậu, kém phát triển làm cho các địa phương vùng kinh tế, miền bị chia
18
cắt tách biệt nhau cho nên ảnh hưởng đếnviệc khai thác mọi tiềm năng của mọi
địa phương, thành phần kinh tế.
+ Phân công lao động kém phát triển, chuyển cơ cấu kinh tế chậm, chưa
thoát khỏi nền nông nghiệp nhỏ.
+ Khái niệm cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài
còn kém.
* Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa
đồng bộ. Cụ thể là:
+ Thị trường hàng hoá dịch vụ: đã phát triển nhưng còn ở mức hạn hẹp, có
nhiều hiện tượng tiêu cực trong thị trường này: hàng giả, hàng nhái, nhập lậu…
làm rối loạn trong lưu thông hàng hoá.
+Thị trường hàng hoá sức lao động: cũng mới được phát triển như một số
trung tâm giới thiệu việc làm, cơ sở xuất khẩu lao động tuy mới ra đời nhưng có
nhiều bất cập có nhiều hiện tượng nảy sinh khủng hoảng về lao động.
+ Thị trường tiền tệ vốn đã ra đời và có nhiều tiến bộ nhưng còn nhiều trắc
trở: bên thừa vốn, bên thiếu vốn nhưng cũng không vay được do thủ tục quy
định.
+ Thị trường chứng khoán: đã ra đời nhưng chưa có nhiều hàng hoá để mua
bán trên thị trường mới có ít doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia thị trường
này.

* Kinh tế thị trường nước ta có nhiều thành phần kinh tế tham gia do đó có
nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại; tồn tại trong mối quan hệ đan
xen tác động lẫn nhau nhưng sản xuất hàng hoá nhỏ còn là phổ biến.
* Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền với mở rộng kinh tế đối
ngoại hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong nhiều hoàn cảnh trìng
độ kinh tế ở nước ta thấp rất xa so với tất cả các nước khác.
* Quản lý nền kinh tế của Nhà nước còn yếu kém: Đại hội VIII đánh giá: “Hệ
thống pháp luật cơ chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán thực hiện chưa
nghiêm, công tác quản lý tài chính ngân hàng giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch
xây dựng quản lý đất đai còn yếu kém dinh dưỡng”.
19
3. GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1. Thực hiện nhất quán chính sách nhiều kinh tế nhiều thành phần
Đây là điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà
sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, huy động
những tiềm năng to lớn còn bị phân tán của xã hội vào phát triển kinh tế. Để
thực hiện tốt chính sách này, một mặt phải thể chế hoá các quan điểm của Đảng
thành pháp luật, chính sách cụ thể để khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần là một chính sách lâu dài, nhất quán của Đảng, Nhà nước
ta, để tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế yên
tâm đầu tư làm ăn lâu dài; mặt khác, phải kiên quyết xử lý, ngăn chặn mọi hành
vi lừa đảo, buôn lậu làm hàng giả, …nhằm bảo vệ việc sản xuất , kinh doanh
bình thường của các doanh nghiệp. Theo tinh thần đó tất cả các thánh phần kinh
tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới đây cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà
nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh
nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu
đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Đẩy mạnh việc

đổi mới kĩ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện chế độ
quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, doanh
nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng, trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong
sản xuất kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng trong đó hợp tác xã
làm nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ các hợp tác xã về đào tạo cán bộP, xây
dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc
chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
20
Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông
thôn. Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết
giữa các kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài; tạo điều kiện để kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu,
tăng khả năng cạnh tranh.
3.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ
khoa học - công nghệ trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá
. Vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã
hội. Do đó cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện đại hoá đất
nước để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
Mặt khác muốn khai thác mọi nguồn lực, cần phát triển nhiều ngành nghề,
sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao
động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá, lao
động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp
giảm tuyệt đối, cân đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi
trường sinh thái. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, tiếp
tục mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế.
3.3. Mở rộng phân công lao động phân bố lại lao động và dân cư trong
phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công
nghiệp hoá-hiện đại hoá

Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển kinh tế hàng hoá. Thị
trường là sản phẩm tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất và lưu
thông càng phát triển càng thì thị trường càng mở rộng. Sản xuất, lưu thông
hàng hoá quyết định thị trường, song thị trường cũng tác động trở lại, thúc đẩy
kinh tế hàng hoá. Do đó trong những năm tới cần phải:
21
* Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản
xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và
phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động
theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn lực.
* Xây dựng thị trường vốn và từng bước hình thành, phát triển thị trường
chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
* Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị
trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại hình thị
trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế và tăng cường sự
kiểm tra, giám sát của Nhà nước, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu
quả có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai,
minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp hữu hiệu
chống buôn lậu và thương mại.
* Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng năng suất lao động, hạ
giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm giá cả hàng hoá, tăng thu nhập, tăng sức
mua, làm cho dung lượng thị trường, nhất là thị trường nông thôn tăng lên.
3.4. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Trong kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong canh
tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm
tăng năng suất lao động để hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Muốn vậy phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu
mới của cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất và lưu thông, bảo đảm
cho hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hoá để nhằm tạo điều kiện thuận lợi chi kinh tế hàng hoá phát triển.

3.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát
triển kinh tế hàng hoá, để các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước và nước
22
ngoài yên tâm đàu tư. Giữ vững sự ổn định chính trị là giữ vững sự lãnh đạo của
Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, vai
trò làm chủ theo phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn dân kiểm tra”; đồng
thời phải giữ vững định hướng XHCN. Để thực hiện tốt giải pháp này thì:
* Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt các chức năng tạo môi trường, hướng dẫn,
hỗ trợ những yếu tố cần thiết để các doanh nghiệp phát triển.
* Nhà nước cần tăng cường quản lý kiểm soát việc sử dụng mọi nguồn lực
nhằm bảo toàn và phát triển những tài sản quốc gia.
*Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan
trọng để quản lý kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp lý
cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước.
* Nhà nước với bằng các công cụ quản lý vĩ mô: kế hoạch, các chính sách
kinh tế – xã hội thục hiện việc điều tiết sản xuất, lưu thông hàng hoá trong nước
và hoạt động xuất nhập khẩu, tăng cường vau trò kiểm tra, kiểm soát để ổn định
kinh tế vĩ mô, kích thích tăng trưởng cao, bảo đảm công bằng, bảo vệ môi
trường sinh thái.
3.6. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế của nhà nước
Theo tinh thần của Đại hội Đảng VI: “Chính sách giá cả vận dụng tổng
hợp các quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp. Giá cả phải
phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với sức mua của đồng tiền”. Trên
cơ sở đó đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, phù
hợp với yêu cầu của kinh tế hàng hoá định hướng XHCN. Đây là giải pháp hết
sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Để nâng cao

năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước cần thực hiện những nội dung sau:
23
* Nâng cao năng lực của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện
cải cách nguồn hành chính quốc gia.
*Nhà nước thực hiện định hướng phát triển kinh tế; có chính sách nhất quán
để tạo môi trường ổn định và thuận cho lợi hoạt động kinh chính sách; hạn chế
khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thực tế thị trường. Nhà nước thực hiện
đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản
công, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các doanh ngiệp có
quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước sử dụnh các biện pháp kinh
tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính
sách tiền lương và giá cả.
* Con người bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con
người vừa là kết quả, vừa là điều kiện để sản xuất phát triển. Mỗi cơ chế quản lý
kinh tế cần có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương ứng. Do đó chúng ta
cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, kinh
doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kì mới. Cần sử
dụng bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao trình độ ngiệp
vụ, bản lĩnh quản lý, kinh doanh của họ. Cơ cấu đội ngũ cán bộ cần chú ý bảo
đảm cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh ở phạm vi vĩ mô và vi mô.
3.7. Giữ vững sự ổn định chính trị hoàn thiện hệ thống pháp luật
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy
kinh tế hàng hoá phát triển phải hội nhập với nền kinh tế thế giới (mở rộng thị
trường ngoài nước, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài). Muốn vậy phải đa
dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác; phải quán triệt nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ
chính trị – xã hội; phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan
hệ kinh tế quốc tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên
24

của đất nước, tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn, kĩ thuật, công nghệ hiện
đại, kinh nghiệm quản lý.
Như vậy với những giải pháp trên thì Nhà nước đã, đang và sẽ tạo những
điều kiện thuận lợi nhất để nền kinh tế nước ta phát triển một cách toàn diện,
hạn chế đến mức tối đa những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường đưa nền
kinh tế phát triển theo hướng kinh tế thị trường định hướng XHCN và sớm thực
hiện được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
25

×