TIỂU LUẬN:
Mở rộng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch
ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong mấy năm trở lại đây, các ngân hàng thương mại Việt Nam không ngừng mở
rộng mạng lưới và tăng cường đầu tư, nâng cấp công nghệ ngân hàng cũng như cải tiến
qui trình hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng của
các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc
doanh. Tỷ trọng nợ quá hạn, nợ xấu còn cao. Đòi hỏi các ngân hàng thương cần phải
chuyển đổi cơ cấu danh mục đầu tư cho vay, mở rộng cho vay đối với DNVVN nhằm
phân tán rủi ro, giúp ngân hàng vừa mở rộng vừa nâng cao chất lượng tín dụng.
Mặt khác, thị trường chứng khoán bùng nổ và phát triển mạnh . Ngân hàng không
chỉ đối mặt với việc nguồn huy động bị chảy sang thị trường chứng khoán mà nguy cơ
hoạt động tín dụng bị thu hẹp cũng đang đến gần.
Theo xu hướng phát triển, DNVVN ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành
động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Theo Chỉ đạo của Chính phủ, đến năm 2010, cả
nước có 500.000 DNVVN, tạo việc làm cho 20 triệu lao động.
Tất cả những điều đó cho thấy, việc mở rộng dụng đối với DNVVN là giải pháp
phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế.
Đề tài chuyên đề là: “ Mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Sở giao dịch ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam”
Ngân hàng Ngoại Thương cũng đang đối mặt với nguy cơ hoạt động tín dụng bị
thu hẹp. Chuyên đề đã đi vào tìm hiểu đánh gía thực trạng tín dụng đối với DNVVN
và đưa ra một số giải pháp mở rộng tín dụng đối với nhóm doanh nghiệp này.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I : Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Phần II: Thực trạng mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Sở giao dịch Ngân
hàng Ngoại Thương
Phần III : Giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Sở giao dịch Ngân
hàng Ngoại Thương
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.Tín dụng ngân hàng:
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng:
* Khái niệm:
- “Tín dụng, theo tiếng LaTinh gọi là creditium, tiếng Anh là credit, có nghĩa là
tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay
mượn. Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang
người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định”.
- Tín dụng là một trong những quan hệ xã hội hình thành rất sớm với sự ra đời và
phát triển của sản xuất hàng hoá. Cơ sở hình thành và ra đời của tín dụng, trước hết
xuất phát từ nhu cầu bù đắp thiếu hụt tiền mặt trong sản xuất kinh doanh hoặc trong
cuộc sống, kế đến là có sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá.
Trong sản xuất kinh doanh cũng như trong cuộc sống, đôi khi người ta gặp phải sự
cố là nguồn thu và chi không khớp nhau, chẳng hạn, có khi nhà sản xuất kinh doanh
bán hàng và thu được tiền nhưng chưa có nhu cầu chi tiêu. Khi ấy, họ tạm thời thặng
dư vốn và có nhu cầu cho vay số tiền thặng dư nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Ngược lại,
đôi khi họ có nhu cầu chi tiêu nhưng chưa tiêu thụ được hàng hoá. Khi ấy, họ có nhu
cầu vay mượn để bù đắp thiếu hụt. Tuy nhiên, trong nền kinh tế tự cung tự cấp hàng
hoá hoặc trong nền kinh tế phi thị trường, người ta sản xuất không nhằm mục đích trao
đổi mua bán mà nhằm tiêu dùng cá nhân và nhà sản xuất cũng chẳng có nhu cầu vay
mượn. Lúc này sản xuất chỉ đáp ứng vừa đủ nhu cầu cá nhân, không cần sản xuất dư
thừa cho mục đích trao đổi nên không đòi hỏi bù đắp vốn thiếu hụt.
- Tín dụng ra đời từ thời xa xưa chủ yếu dưới hình thức cho vay nặng lãi và phát
triển lâu dài cho đến ngày nay trải qua nhiều hình thái tín dụng khác nhau. Tín dụng
nặng lãi ra đời sớm nhất. Quan hệ tín dụng này chủ yếu diễn ra giữa bên cho vay là
thương gia, nhà kinh doanh tiền tệ với bên đi vay là người nông dân, thợ thủ công
nghèo khó. Nhu cầu tín dụng xuất phát từ những rủi ro bất khả kháng trong cuộc sống
khiến cho người lao động phải đi vay nhằm giải quyết khó khăn cuộc sống hoặc đảm
bảo sản xuất.
Đặc điểm của tín dụng nặng lãi là lãi suất rất cao, 40- 50%, thậm chí là 100% hay
200% và mục đích vay thường để tiêu dùng và giải quyết khó khăn cuộc sống hơn là
để phục vụ sản xuất kinh doanh. Vì lãi suất quá cao nên chi phí trả lãi lớn hơn cả khả
năng sinh lời của nhà sản xuất. Do vậy, các nhà sản xuất kinh doanh nếu vay mượn
không thể nào có lợi nhuận để tái sản xuất. Nhưng đối với người tiêu dùng, họ vẫn
phải chấp nhận vay vì không còn sự lựa chọn nào khác. Chính vì thế, cho vay nặng lãi
thường kìm hãm sản xuất, khiến cho sản xuất không thể nào phát triển được, làm bần
cùng hoá và phân hoá giai cấp thúc đẩy sự ra đời phương thức sản xuất mới.
Tuy cho vay nặng lãi là quan hệ tín dụng bất công, làm phát sinh nhiều tiêu cực
nhưng ở một số nơi, nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Nguyên nhân tồn tại của nó xuất phát
từ sự chậm phát triển của các hình thức tín dụng khác.Ở những quốc gia mà hệ thống
tài chính càng phát triển thì các hình thức tín dụng khác như: Tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng… phát triển hơn và đẩy lùi tín dụng nặng lãi.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá đặc biệt phát
triển, từ đó thúc đẩy quan hệ tín dụng phát triển theo. Điều này được biểu hiện ở chỗ là
nhiều tổ chức tín dụng ra đời và phát triển mạnh và các doanh nghiệp muốn sử dụng
vốn tín dụng nhiều hơn bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu nhằm mở rộng và phát triển
sản xuất. Các chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng ngày càng phong phú và đa
dạng, kể cả quan hệ gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian.
Theo Lụât các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
“ hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một
số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà nước qui định”.
* Tín dụng ngân hàng: là “ tín dụng bằng tiền do ngân hàng, các tổ chức tín
dụng đứng ra làm trung gian, cầu nối giữa người có vốn cho vay và người cần có vốn
để sử dụng. Xét trên quan hệ giữa người cho vay và ngân hàng thì ngân hàng là người
vay nợ, còn trên quan hệ giữa người vay vốn với ngân hàng thì ngân hàng là chủ nợ”.
Quan hệ tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát triển cao của nền kinh tế tiền
tệ. Nó nảy sinh do yêu cầu khách quan của sự phát triển cao của sản xuất, lưu thông
hàng hoá, dịch vụ trong cơ chế thị trường. Nó ra đời nhằm giải quyết quan hệ cung
cầu, điều hoà quan hệ cung cầu trong nền kinh tế.
* Đặc trưng:
Tín dụng ngân hàng là một loại tín dụng. Do đó, nó vừa mang những đặc trưng
của tín dụng nói chung, lại vừa mang những đặc điểm riêng của mình.
- Đặc trưng chung:
+ Nhượng quyền sử dụng vốn, chứ không nhượng quyền sở hữu
+ Có thời hạn quy định
+ Phải trả lãi theo lãi suất trên số tiền vay và thời gian cho vay
- Đặc điểm riêng của tín dụng ngân hàng:
+ Đây là tín dụng bằng tiền
+ Ngân hàng, tổ chức tín dụng là trung gian tài chính
+ Ngân hàng vừa là người vay nợ, vừa là người chủ nợ
Tuy nhiên, ở đề tài này, tín dụng ngân hàng được xem xét trên giác độ: Ngân
hàng là người chủ nợ.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là người trung gian chuyển vốn từ nơi thừa sang
nơi thiếu bằng nghiệp vụ tín dụng nhằm khắc phục tình trạng thừa thiếu vốn, phát huy
hiệu quả sử dụng vốn. Việc luân chuyển vốn xuất phát từ lợi ích của cả hai bên.
* Những nguồn vốn nhàn rỗi được huy động từ các tổ chức kinh tế ( TCKT), cá
nhân hình thành nguồn vốn lớn của các tổ chức tín dụng, rồi cung ứng tín dụng đối với
các đối tượng khách hàng có nhu cầu về vốn: Chính Phủ, doanh nghiệp, cá nhân….
* Đáp ứng các nhu cầu vốn của các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp luôn luôn cần bổ sung nguồn vốn để đầu tư đổi mới: đổi mới
công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, khai thác năng lực doanh nghiệp,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao của nhân dân. Đây là nhu cầu thường xuyên và rất lớn.
* Nhu cầu vốn của dân cư:
Nhu cầu vốn của dân cư gồm : Nhu cầu vốn cho sản xuât và nhu cầu tiêu dùng
trong đời sống. Vì vậy, nảy sinh ra 2 loại tín dụng: Tín dụng cho sản xuất kinh doanh
và tín dụng tiêu dùng. Nhu cầu vốn ngày càng lớn do sự khuyến khích phát triển kinh
tế cá thể, kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế nhiều thành phần và do nhu cầu tiêu
dùng trong đời sống ngày càng đa dạng và phong phú vì thu nhập của họ ngày càng
cao.
* Nhu cầu của Nhà nước:
Từ trước tới nay, hầu hết các Nhà nước luôn ở tình trạng thiếu tiền để chi tiêu cho
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Một trong những cách để bù đắp bội chi Ngân sách, Nhà nước có thể vay từ ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế.
* Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển:
Các tổ chức, cá nhân có vốn tạm thời chưa sử dụng tới, có thể chuyển nhượng cho
các tổ chức, cá nhân khác thông qua 2 có đường:
- Phân phối trực tiếp từ người cho vay sang người vay, không qua trung gian.
- Phân phối gián tiếp: Phân phối qua các định chế tài chính: ngân hàng, quỹ tín
dụng nhân dân…
Cách phân phối này có thể giảm tối đa rủi ro có thể xảy ra, tạo thu nhập đối với
người cho vay vì: Các định chế tài chính là những người chuyên nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
* Đây là hoạt động mang lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng:
Tín dụng là hoạt động quan trọng, chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản, tạo ra
khoản thu nhập từ lãi lớn và đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3. Quy trình cấp tín dụng trong các ngân hàng thương mại:
1.1.3.1. Tiếp nhận hồ sơ tín dụng từ khách hàng:
Các TCKT, cá nhân muốn vay vốn tại các NHTM phải đáp ứng được các yêu cầu
đảm bảo an toàn tín dụng. TCKT, cá nhân phải xuất trình hồ sơ vay vốn hợp lệ theo
qui định của ngân hàng.
1.1.3.2. Phân tích tín dụng trước khi cấp tín dụng:
Đây là bước quan trọng, quyết định chất lượng của khoản tín dụng được cấp. Nội
dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan tới khách hàng, bao gồm:
Năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ,
quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan tới người cay.
Thu thập và xử lý các thông tin:
Để có được thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụngcó thể phỏng vấn trực tiếp,
mua bán và tìm kiếm các thông tin thông qua các trung gian như: qua các cơ quan
quản lý, bạn hàng, chủ nợ của người vay, các trung tâm thông tin và tư vấn…
Tìm hiểu về khách hàng trong một thời gian ngắn là không hề đơn giản. Một trong
các cách để có được thông tin về người vay là thông qua báo cáo tài chính của họ. Các
báo cáo này cho biết số liệu trong nhiều năm. Do đó, nó sẽ giúp ngân hàng có những
cơ sở dự đoán tình hình của khách hàng trong tương lai gần.
Nội dung phân tích:
- Đánh giá tài sản của khách hàng: Đây được coi là các tài sản đảm bảo cho các
khoản vay khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
- Ngân quỹ, chứng từ có giá, hàng tồn kho: Ngân hàng có thể dựa vào các tài sản
này để đánh giá tính thanh khoản của chúng, và cũng là một trong các yếu tố ảnh
hưởng tới quyết định cho vay đối với khách hàng.
- Tài sản cố định: gồm: nhà cửa, trang thiết bị… là đối tượng tài trợ trung và dài
hạn.
- Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm và
các khoản phải trả trong các năm sau. Thông thường, các khoản vay ngắn hạn dùng tài
trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản nợ trung và dài hạn để mua sắm các tài sản cố
định. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn
và ngân quỹ trong năm của ngân hàng là 2 yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân
hàng.
Phân tích luồng tiền:
Nếu lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lời thì chênh lệch
dòng tiền vào và ra lại là chỉ tiêu quan trọng đối với việc dự đoán các vấn đề tín dụng
trong tương lai. Tuy nhiên, nhiều khảon mục liên quan tới dòng tiền không được chỉ
dẫn đầy đủ trong bảng cân đối tài sản của công ty như: phần lớn luồng tiền sau 12
tháng đều không được ghi vào bảng cân đối … Bạn hàng là nguồn tiền quan trọng để
trả nợ song bảng cân đối đề cập rất ít.
Sử dụng các tỷ lệ:
Để quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào
được tiêu chuẩn hoá, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực
tài chính của người vay có liên quan tới khả năng trả nợ.
- Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách
nhiệm tài chính ngắn hạn.
Khả năng thanh toán
hiện hành
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Trong đó: Tài sản lưu động gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển
nhượng.
Khả năng thanh toán
nhanh
=
Tài sản lưu động - Dự trữ
Nợ ngắn hạn
Nếu cho vay trong thời gian ngắn 2 – 3 tháng thì ngân hàng quan tâm nhiều tới khả
năng thanh toán nhanh, còn vay từ 9-12 tháng, ngân hàng lại chú ý tới khả năng thanh
toán hiện hành.
- Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay.
Tỷ lệ thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu:
ROE
=
Thu nhập sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Doanh lợi tài sản:
ROA
=
Thu nhập sau thuế
Tài sản
- Nhóm tỷ lệ rủi ro: Rủi ro rất đa dạng, có thể tiếp cận rủi ro của người vay như
sau:
+ Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Chi phí?
Lao động? Vốn? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác như thế nào? Rủi ro trong
việc sử dụng trang thiết bị là gì?
+ Nhân sự: yếu tố làm tăng năng suất lao động? Khuyến khích người lao động?
Rủi ro của đình công?
+ Tài chính: Sự chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất? Có bao nhiêu cách
huy động tiền ? Việc đa dạng các nguồn thu?
+ Tiếp thị: Các nhân tố tác động tới bán hàng? Cầu co dãn đối với giá? Thu nhập
co dãn? Bao nhiêu sản phẩm thay thế? Nhập khẩu? Chiến lược cạnh tranh?
+ Chính sách của Chính phủ: Bảo vệ nhập khẩu? Trợ cấp xuất khẩu? Hợp đồng
với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
- Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu: Cho thấy sức mạnh tài
chính của người vay. Vì thông thường, Doanh nghiệp dùng vốn chủ sở hữu để tài trợ
một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản
Các điều kiện kinh tế khác: Khủng hoảng kinh tế, thiên tai lũ lụt…. cũng sẽ ảnh
hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng.
1.1.3.3. Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng:
Sau khi thẩm định, ngân hàng thấy phương án sản xuất kinh doanh khả thi cũng
như tình hình tài chính và các điều kiện khác doanh nghiệp đều đáp ứng được thì ngân
hàng sẽ quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp, biểu hiện bằng việc kí kết một hợp
đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa khách hàng và ngân
hàngvới nội dung chủ yếu : ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín
dụng trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng bao gồm một số điều
kiện về lãi suất, phí, hạn mức tín dụng, thời gian và tài sản đảm bảo cũng như các
quyền sở hữư, định giá… đối với các tài sản này……
1.1.3.4. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng:
Sau khi hợp đồng tín dụng được kí kết, ngân hàng có trách nhiệm cấp tiền cho
khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách
hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích và đúng tiến độ không?, quá trình kinh
doanh có những bất lợi hay có dấu hiệu lừa đảo nào? …Quá trình này cho phép ngân
hàng có thông tin thêm về khách hàng. Nếu những thông tin phản ánh chiều hướng tốt,
cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi khoản tín dụng bị đe
doạ, ngân hàng sẽ có biện pháp xử lý kịp thời : thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân
nếu bên vay vi phạm hợp đồng.
1.1.3.5. Thu nợ và đưa ra các phán quyết mới:
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín
dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng
không hoàn trả hay không hoàn trả đúng hạn cho thấy khách hàng đang gặp vấn đề.
Ngân hàng tìm hiểu, xem xét để kịp đưa ra các quyết định liên quan tới an toàn tín
dụng.
1.1.4. Phân loại các loại hình tín dụng:
1.1.4.1. Phân loại theo thời gian:
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì: Thời gian liên
quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả
của khách hàng:
Bao gồm: Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
Tín dụng trung hạn: Trên 1 năm đến 5 năm
Tín dụng dài hạn : Trên 5 năm
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên một vòng trong một năm. Do đó, ngân
hàng sẽ cấp tín dụng ngắn hạn.
Tài sản cố định : phương tiện vận tải, nhà xưởng, công trình xây dựng… có giá trị
lớn và thời gian sử dụng lâu nên được tài trợ bằng tín dụng trung và dài hạn.
1.1.4.2. Phân theo hình thức: Gồm: Chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn.( hay một giấy nợ)
Đây là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ ra một
khoản tiền hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định
trước được coi như hoạt động tín dụng.
- Cho vay : là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian xác định.
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử
dụng uy tín của mình để thu lợi.
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng hoàn trả gốc và lãi cho
ngân hàng.
1.1.4.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Tài sản đảm bảo (TSĐB) các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất từ quá trình sản
xuất kinh doanh không có hoặc không đủ.
- Tín dụng có đảm bảo: Bằng uy tín của khách hàng, bằng cầm cố, bằng thế
chấp…
- Tín dụng không cần tài sản đảm bảo: Thường áp dụng đối với các khách hàng
làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít nợ nần…; các khoản cho
vay theo Chỉ thị của Chính phủ không cần tài sản đảm bảo….
1.1.4.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh: Kách
hàng gặp thiên tai, tiêu thu hàng chậm, trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, TSĐB có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ, khách hàng chây ì…
Cách phân loại này giúp ngân hàng đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín
dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
1.1.4.5. Phân loại khác:
Theo ngành kinh tế: Tín dụng công nghiệp, tín dụng nông nghiệp…
Theo mục đích: Tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng…
1.2.Doanh nhiệp vừa và nhỏ:
1.2.1.Khái niệm:
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ (
DNVVN). Tiêu chí để xác định DNVVN cũng rất đa dạng và phong phú: Tổng vốn
đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lượng lao
động được sử dụng thường xuyên, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động
Trước năm 1998, ở Việt Nam có nhiều quan điểm về DNVVN như: Số lao động
dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số dư vốn lưu động dưới 8 tỷ
đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng.
Cũng có quan điểm phân lạo DNVVN theo lĩnh vực: Trong lĩnh vực sản xuất ,
những doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 100 người là các
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 10 tỷ đồng và số lao động từ 100 đến
500 người là doanh nghiệp vừa. Trong thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp có số vốn
dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là những doanh nghiệp nhỏ và những doanh
nghiệp có từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng và từ 50 tới 250 lao động là các doanh nghiệp
vừa.
Hiện tại, khái niệm DNVVN được xác định dưa trên 2 tiêu chí:
- Tổng vốn đầu tư:
- Số lao động sử dụng: Đây là tiêu chí không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những
khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi trong giá trị
đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kì khác nhau.
Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN, “DNVVN là
doanh nghiệp có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và lao động dưới 300 người”.
Nghị định trên áp dụng đối với các DNVVN bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước
- Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP của Chính
phủ về đăng ký kinh doanh
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN:
Đặc điểm của DNVVN xuất phát trước hết từ chính quy mô của nó. Cũng như các
DNVVN trên thế giới, với quy mô nhỏ, DNVVN Việt Nam cũng có những đặc điểm
tương tự như ở các quốc gia khác nhưng cũng có những đặc trưng riêng.
Đây là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ cả về vốn lẫn lao động. Đặc điểm
này làm cho DNVVN gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình.
Khả năng quản lý còn hạn chế:
Hầu hết các chủ doanh nghiệp vừa là người quản lý vừa là người trực tiếp tham giá
vào quá trình sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Đôi khi, việc
tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng. Đa số chủ doanh nghiệp không được đào
tạo qua khoá quản lý chính quy, thậm chí chưa qua một khoá đào tạo nào.
Trình độ tay nghề của người lao động thấp:
Do hạn chế về nguồn tài chính, chế độ chính sách tiền lương và tiền thương không cao,
đặc biệt là do tính không ổn định của các DNVVN, nhiều doanh nghiệp manh mún,
hoạt động phân tán, thường sản xuất theo thời vụ nên không thu hút người lao động có
kỹ năng và tay nghề.
Công nghệ lạc hậu:
Đây là đặc trưng điển hình ở các DNVVN, làm cho năng suất lao động thấp,
chất lượng sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm cao, hạn chế cạnh tranh trong và
ngoài nước. Trình độ công nghệ thể hiện sức mạnh của một doanh nghiệp, là cơ sở để
nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá và dịch vụ. Nhưng thực tế ở nước ta cho thấy,
trình độ công nghệ còn thấp, dưới mức trung bình của khu vực và thế giới. Máy móc,
thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 – 20 năm. Trình độ trang bị
từ 3 – 4 thế hệ so với các nước trong khu vực.Tốc độ đổi mới công nghệ chậm.
Tuy nhiên, các DNVVN lại rất linh hoạt trong việc cải tiến công nghệ. Họ thường
có sáng kiến đổi mới phù hợp với qui mô của mình từ công nghệ lạc hậu và cũ.
Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt là thị trường nước ngoài:
Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp này mới hình thành, khả năng tài chính
cho các hoạt động marketing không có hoặc cũng chưa có nhiều khách hàng truyền
thống. Thêm vào đó, qui mô thị trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong
phạm vi địa phương, việc mở rộng ra thị trường mới là rất khó khăn.
1.2.3. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế:
Vai trò của các DNVVN được thể hiện ở sự phát triển trong những năm qua về số
lượng, tính đa dạng về lĩnh vực cũng như khả năng giải quyết việc làm,đặc biệt hơn là
ở chính sách phát triển DNVVN của Nhà nước là tới năm 2010 sẽ có 500.000
DNVVN. Vai trò đó được biểu hiện:
Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng loại hình doanh
nghiệp này lớn và phân bổ trong hầu hết các ngành, lĩnh vực.
Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
DNVVN được thành lập ở rất nhiều nơi, ngay cả những vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu vùng xa, sẽ làm cho tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm, tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu cấu của toàn bộ
nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng.
Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế:
Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn
tại của nhiều doanh nghiệp trong cùng một ngành, trong cùng một lĩnh vực sẽ làm
giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh. Đồng thời,
DNVVN còn là “vệ tinh” cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn
hoá và phân công lao động trong sản xuất, làm tăng hiệu quả của chính DNVVN cũng
như các công ty hợp tác.
Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp:
Chiếm tỷ trọng lớn trong các doanh nghiệp của nền kinh tế, DNVVN đã và đang
thu hút một lực lượng đáng kể lao động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần làm
giảm các tệ nạn xã hội như trộm cắp….
Là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn và làm lành mạnh môi trường đầu tư
kinh doanh:
Với những doanh nghiệp thành công, qui mô của doanh nghiệp sẽ được mở rộng
và nhiều doanh nghiệp này sẽ trở thành doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế. Ngoài ra,
với số lượng lớn, rào cản tham gia thị trường là không lớn thì sẽ luôn có nhiều doanh
nghiệp tham gia vào thị trường, đồng thời cũng có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do
hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Đối với một doanh nghiệp có qui mô nhỏ thì
việc rút lui sẽ không gây tác động lớn tới nền kinh tế nhưng đối với doanh nghiệp lớn
thì ngược lại.
1.3. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.3.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN:
Có thể nói rằng, vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp, mà còn đối với toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền
với dịch vụ tài chính do NHTM cung cấp, trong đó có cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín
dụng thương mại nếu muốn tồn tại vững chắc trên thương trường và DNVVN cũng
không phải là ngoại lệ.
Nguồn vốn DNVVN gồm : Vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Trong đó, nợ phải trả
gồm nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn ngân hàng, bạn hàng Do đó, tín dụng ngân
hàng thể thiếu trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Điều quan trọng là phải
duy trì cơ cấu nguồn vốn hợp lý để tối đa hoá giá trị tài sản của doanh nghiệp.Vì vậy,
tín dụng ngân hàng có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Trước hết, đây là nguồn tài trợ quan trọng là là tiền đề để mở rộng sản xuất kinh
doanh trong các DNVVN:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng thường
vay vốn ngân hàng nhằm đảm bảo tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là đảm bảo có đủ vốn cho dự án mở rộng và đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp,
tăng năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm, nhờ thế mà tính canh tranh cũng
được nâng cao.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp:
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là phải hoàn trả cả lãi lẫn gốc sau một khoảng
thời gian nhất định. Do đó, muốn vay được vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải có
phương án kinh doanh khả thi cùng với các kế hoạch sử dụng vốn vay cụ thể, rõ ràng.
Bên cạnh những ưu điểm của tín dụng ngân hàng thì nó cũng có hạn chế về điều
kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất). Một khi
doanh nghiệp đã vay được vốn của ngân hàng thì phải chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ
về mục đích và tình hình sử dụng vốn cho tới khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Nói
chung, sự kiểm soát này gây khó chịu và mất tính chủ động cho doanh nghiệp. Nếu
phát hiện ra các dấu hiệu sai phạm hợp đồng hay lừa đảo, ngân hàng sẽ ngừng giải
ngân tiếp, thu hồi nợ trước hạn và chấm dứt quan hệ tín dụng và đièu này ảnh hưởng
nghiêm trong tới hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, vốn vay ngân hàng cũng làm
cho doanh nghiệp nâng cao tính tự giác và làm ăn hiệu quả hơn.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy các DNVVN tăng cường chế độ hạch toán
kế toán:
Một trong những nguyên nhân làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn
ngân hàng là các báo cáo tài chính thiếu minh bạch. Muốn vay vốn ngân hàng, trước
hết DNVVN phải có hệ thống báo cáo tài chính chuẩn theo theo chế độ kế toán hiện
hành, là cơ sở để tiếp cận dễ dàng hơn tín dụng ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế,
thúc đẩy các DNVVN phát triển đúng hướng, tạo môi trường kinh tế ổn định.
1.3.2. Các dịch vụ tín dụng đối với DNVVN:
Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000, NHTM được cấp tín dụng cho
các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức: Cho vay, chiết khấu các
thương phiếu và giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
qui định của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn.
1.3.2.1. Chiết khấu thương phiếu, chứng từ có giá:
- Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và
dịch vụ giữa các khách hàng với nhau. Người bán ( người thụ hưởng) có thể giữ
thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua ( người phải trả) hoặc mang tới ngân hàng
xin chiết khấu trước hạn.
- Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn của NHTM được thể
hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa
đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận được một khoản tiền thấp hơn so với mệnh
giá thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá của thương phiếu với số tiền
khách hàng nhận được gọi là lãi suất chiết khấu và phí hoa hồng.
Số tiền chuyển cho
người xin chiết khấu
=
Mệnh giá thương
phiếu
- LSCK -
Hoa hồng
phí
Trong đó: Hoa hồng phí = Mệnh giá thương phiếu * tỷ lệ hoa hồng (%)
LSCK = (Mệnh giá thương phiếu * LSCK (%) * số ngày nhận chiết khấu)/ 360
Số ngày nhận chiết khấu không tính ngày xin chiết khấu và ngày đáo hạn.
1.3.2.2. Cho vay:
* Cho vay ngắn hạn:
Ngân hàng cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử
dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiêp, Nhà nước…
Các hình thức cho vay:
Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép người vay chi
trội trên số dư tài khoản thanh toán một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời
gian nhất định. Giới hạn đó goi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi dựa trên cơ sở nguồn thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và qui mô.
Thấu chi là một hình thức tín dụng linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là có
TSĐB. Hình thức này chỉ áp dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều
đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần:
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi.
Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình phương án sử dụng vốn vay. Mỗi
một món được tách biệt nhau thành các hồ sơ và theo từng kì hạn, ngân hàng sẽ thu
gốc và lãi.
Nghiệp vụ này khá đơn giản, ngân hàng chủ động vốn và thu lãi cao. Tuy nhiên,
thủ tục phức tạp làm tốn nhiều thời gian, chi phí và khách hàng không chủ động được
nguồn vốn.
Cho vay theo hạn mức :
Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần song dư nợ không được
vượt quá hạn mức tín dụng. Đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao
cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mối lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra
tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn
vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh và ngân hàng không xác
định trước kì hạn nợ, thời gian tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu
nợ. Do đó, tạo tính chủ động quản lý ngân quỹ của khách hàng.
Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân
hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Cho vay luân chuyển:
Đây là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi
mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi
doanh nghiệp bán hàng. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào đều là đối tượng
ngân hàng cho vay và thu nhập bán hàng là nguồn chi trả cho ngân hàng.
Cho vay luân chuyển chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh
nghiệp sản xuất chu kì tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay mượn thường xuyên với ngân
hàng.
Cho vay trả góp:
Đây là hình thức tín dụng, theo đó, ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Ngân hàng cho vay trả góp với người
tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ
hàng hoá mà khách hàng mua trả góp.Cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng
từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp.
Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay ốm
đau, mất việc thì thu nhập giảm sút, rủi ro lớn nên lãi suất thường cao nhất trong
khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó, ngân hàng
cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp thông qua các tổ chức trung gian như: tổ,
đội, hội, nhóm Tổ chức này cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay.
Điều này rất thuân lợi cho người đi vay khi không có hoặc không có đủ tài sản thế
chấp.
Cho vay gián tiếp thường áp dụng đối với những món vay nhỏ, người vay phân
tán, cách xa ngân hàng.
* Cho vay dài hạn:
Thông thường, cho vay dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định
như: nhà cửa, công trình xây dựng, máy móc có giá trị lớn, thời gian sử dụng trong
nhiều năm. Bao gồm các loại hình sau:
Cho vay bằng cách mua các trái phiếu: Ngân hàng sẽ mua các trái phiếu
trung và dài hạn của doanh nghiệp nhằm tài trợ cho tài sản cố định.
Cho vay theo các dự án:
Đây là khoản vay lớn mà ngân hàng phải giải ngân trong nhiều năm. Các yếu tố
được ngân hàng phân tích khi xem xét nguồn tài trợ:
+ Qui mô và thời hạn của mỗi nguồn: Nguồn tự có, chiếm dụng nhà cung cấp, vay
các tổ chức tín dụng
+ Tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận nguồn vốn.
+ Để hạn chế rủi ro, ngân hàng có thể yêu cầu TSĐB và cho vay dựa trên giá trị
của TSĐB.
* Cho vay tiêu dùng:
- Cơ sở của cho vay tiêu dùng:
+ Nhu cầu tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu tiêu dùng lâu bền
như: Nhà, xe
+ Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ. Vay tiêu dùng giúp họ cải thiện
được đời sống.
+ Nhiều Công ty tài chính cạnh tranh với ngân hàng trong cho vay làm thị phần
cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng giảm, buộc ngân hàng phải mở rộng thị
trường cho vay tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
- Cho vay tiêu dùng có rủi ro lớn nên lãi suất cao và người vay phải mua bảo biểm
thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hoá
1.3.2.3. Bảo lãnh:
* Bảo lãnh :
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi họ không
thực hiện đúng nghĩa vụ của cam kết.
Bảo lãnh gồm 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh (BL), bên được BL ( khách hàng của
ngân hàng), bên BL ( ngân hàng).
* Các loại BL:
BL đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư ( chủ
thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các qui định
trong hợp đồng dự thầu.
Để chọn được nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế rủi ro khi nhà thầu vi phạm các
điều khoản tham gia dự thầu, chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải ký quỹ ( đặt
cọc) dự thầu, nếu vi phạm thì sẽ bị mất tiền ký quỹ.
BL thực hiện dự thầu: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ
khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết và gây tổn
thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được BL : Hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế Bên
mua hàng hoá phải đặt cọc cho nhà sản xuất để có vốn sản xuất kinh doanh và mặt
khác là để ràng buộc người mua phải mua hàng hoá. Để đề phòng nhà cung cấp không
cung ứng hàng hoá và không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp hàng hoá
phải có BL của ngân hàng về việc hoàn trả tiền ứng trước.
BL vay vốn ( BL đảm bảo hoàn trả vốn vay): Là cam kết của ngân hàng đối
với người cho vay về việc sẽ hoàn trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng không trả
được.
BL đảm bảo thanh toán: Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền
theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng
không thanh toán đủ.
1.3.2.4. Cho thuê tài chính:
- Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân
hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ
hoặc đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Như vậy, tiên thuê bao gồm một phần gốc
và tiền lãi phải trả. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
* Đặc điểm của cho thuê tài chính:
- Ngân hàng kì vọng thu được cả gốc và lãi sau thời gian thuê. Đặc điểm này
giống cho vay thông thường. Vì vậy, cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng.
- Cho thuê không có TSĐB
- Tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, người thuê chỉ có quyền sử
dụng.
- Ngân hàng có quyền thu hồi khi thấy không thực hiện đúng hợp đồng.
1.4. Mở rộng tín dụng đối với DNVVN:
1.4.1. Khái niệm mở rộng tín dụng đối với DNVVN :
Ngân hàng là tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng. Và chức năng cơ bản của ngân hàng là tạo nguồn vốn bên ngoài quan
trọng nhất để tài trợ cho các doanh nghiệp. Ngay từ khi mới thành lập, NHTM luôn
tìm kiếm các cơ hội để cho vay. Hoạt động tín dụng là hoạt động gắn liền với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Do đó, mở rộng tín dụng luôn là mục tiêu hướng tới của các
ngân hàng. Trong khi, DNVVN thì rất đông đảo trong nền kinh tế, và luôn trong trong
tình trạng “ khát vốn”. Mở rộng tín dụng đối với DNVVN là chiến lược kinh doanh
phù hợp .
‘Mở rộng tín dụng đối với DNVVN được hiểu là NHTM cần có biện pháp để cải
thiện và đổi mới cách thức cấp tín dụng nhằm tạo điều kiện cho nhiều DNVVN có thể
tiếp cận với tín dụng ngân hàng, tăng doanh số cho vay cũng nhu thu nhập cho ngân
hàng, đồng thời cũng nâng cao hiệu quả của nguồn vốn ngân hàng”.
Như vậy, mở rộng tín dụng đối với DNVVN được biểu hiện ở mặt định tính và
mặt định lượng .
- Định lượng: Sự gia tăng số lượng các DNVVN có quan hệ tín dụng cùng với tốc
độ tăng trưởng dư nợ tín dụng, số dư nợ…
- Định tính: Chất lượng và hiệu quả của các khoản tín dụng như: Giảm tỷ lệ nợ
xấu không có khả năng thu hồi, tăng thu nhập từ việc mở rộng tín dụng đối với
DNVVN, nâng cao công tác thẩm định dự án và quản trị rủi ro tín dụng….
1.4.2. Chỉ tiêu đánh giá mở rộng tín dụng:
1.4.2.1. Số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng :
Số lượng DNVVN mới
có quan hệ tín dụng với
ngân hàng
=
Số lượng DNVVN có
quan hệ tín dụng với
ngân hàng năm nay
-
Số lượng các DNVVN có
quan hệ với ngân hàng năm
trước
Chỉ tiêu này cho biết sự gia tăng ( nếu > 0) và sự giảm sút ( nếu < 0) các DNVVN
có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh khả năng mở
rộng tín dụng của ngân hàng đối với các DNVVN.
1.4.2.2. Dư nợ tín dụng:
Đây là chỉ tiêu mang tính thời điểm, phản ánh số tiền mà ngân hàng hiện đang cho
vay tính đến một thời điểm cụ thể và cũng là chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của
ngân hàng, đặc biệt là khả năng sử dụng vốn.
* Về mặt tuyệt đối:
Sự gia tăng dư nợ tín dụng = Dư nợ tín dụng năm nay – Dư nợ tín dụng năm trước
* Về mặt tương đối:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín
dụng đối với DNVVN
=
Dư nợ tín dụng năm
nay cho DNVVN
-
Dư nợ tín dụng năm
trước cho DNVVN
Dư nợ tín dụng năm trước cho DNVVN
Hai chỉ tiêu nay phản ánh qui mô của tín dụng dành cho các DNVVN năm nay so
với năm trước. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ dư nợ tín dụng đối với DNVVN càng
tăng. Điều đó là rõ ràng, tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là chất lượng các khoản tín dụng đó
như thế nào.
1.4.2.3. Doanh số cho vay :
Doanh số cho vay là tổng số tiền đã cho vay trong kỳ tính theo ngày, tháng, quí,
năm, bao gồm cả dư nợ tín dụng và nợ quá hạn. Đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh qui
mô tín dụng cũng như chất lượng tín dụng.
Mức tăng doanh số
cho vay đối với
DNVVN
=
Tổng doanh số cho
vay đối với DNVVN
năm nay
-
Tổng doanh số cho vay
đối với DNVVN năm
trước
1.4.2.4. Tỷ lệ dư nợ tín dụng đối với DNVVN:
Tỷ lệ dư nợ tín dụng đối với
DNVVN
=
Dư nợ tín dụng đối với
DNVVN
X 100
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu cho biết: Hiện tại ngân hàng cho vay đối với DNVVN là bao nhiêu %.
1.4.2.5. Nợ xấu đối với DNVVN:
Tỷ lệ nợ xấu của DNVVN
=
Nợ nhóm 3,4,5
Tổng dư nợ
Nợ xấu là những khoản nợ không có khả năng thu hồi hoặc thu hồi rất ít. Tỷ lệ
này cao, chứng tỏ chất lượng các khoản tín dụng đã cấp chưa hẳn tốt. Tỷ lệ này càng
nhỏ càng tốt. Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
1.4.2.6. Nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNVVN =
Tín dụng quá hạn
Tổng tín dụng
Đây là chỉ tiêu phản ánh an toàn tín dụng cũng như chất lượng hoạt động tín dụng.
Nếu ngân hàng có quá nhiều khoản nợ quá hạn, nguy cơ mất vốn là rất cao. Do đó,
ngân hàng cần nâng cao công tác quản trị rủi ro, thẩm định các khoản tín dụng trước,
trong và sau khi cấp. Các NHTM cố gắng giảm tỷ lệ này xuống mức có thể chấp nhận
được.
1.4.2.7. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng:
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng
=
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Tổng thu nhập