Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thanh Xuân doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 77 trang )








TIỂU LUẬN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh
Thanh Xuân







Lời Mở Đầu
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng như mạch máu của nền kinh tế bởi nó
là các kênh trung gian huy động vốn và cũng là kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế. Kể từ
khi nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa, theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
khiến cho thị trường tài chính ngân hàng trở nên sôi động hơn bao giờ hết, các ngân hàng
thương mại bước vào cuộc chạy đua tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác thị
trường tài chính còn nhiều tiềm năng như ở nước ta. Khả năng cung ứng tín dụng của các
NHTM cũng tăng lên cả về khối lượng cũng như số lượng sản phẩm tín dụng. Hệ thống
ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong
vòng hơn hai mươi năm đổi mới và kết quả là sự gồng mình với khó khăn thanh khoản,
lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề. Do vậy, hoạt động tín dụng không
chỉ có vai trò quan trọng đối với nên kinh tế nói chung, với các doanh nghiệp noi riêng


mà còn vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi ngân hàng. nói như vậy bởi lẽ hoạt động
tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản và
tạo nguồn thu chính trong mỗi ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này lại luôn tiềm ẩn
nhiều rủi ro, gây tổn thất lớn thậm chí dẫn đến phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà “chất
lượng tín dụng” luôn là vấn đề mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan tâm
trong mọi giai đoạn phát triển để hạn chế thấp nhất rủi ro, tổn thất đó. Do vậy em chọn đề
tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thanh
Xuân” với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc giải quyết
những vấn đề tồn tại, những mặt chưa đạt được, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra và
nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng của chi nhánh nhằm phát triển chi nhánh nói riêng
và hệ thống ngân hàng nói chung cũng như sự phát triển ổn định và bền vững của nền
kinh tế.





1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng tín dụng ở góc độ thuần tuý là cho vay,
vì khả năng và thời gian có hạn nên em không đưa ra nghiên cứu các phạm trù khác của
tín dụng như bảo lãnh, cho thuê
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những lí luận chung, thực tiễn hoạt động và chất lượng tín dụng tại
NHNo & PTNT chi nhánh Thanh Xuân.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như: phương pháp phân tích,
chọn lọc, so sánh, tổng hợp, thu thập thông tin.
4. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu thực trạng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội,
từ đó rút ra những giải pháp kiến nghị góp phần nhỏ bé vào việc bảo đảm an toàn trong

hoạt động kinh doanh ngân hàng.
5. Kết cấu của khoá luận
Mở đầu
Chương 1: Lí luận chung về chất lượng tín dụng của các NHTM
Chương 2:Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thanh
Xuân, Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh
Thanh Xuân, Hà Nội
Kết luận







Chương 1
Lí luận chung về chất lượng tín dụng của các NHTM

1.1 Tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.1.1 Khái niệm và đặc trưng của tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo – sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn
nhau. Nói cách khác, tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số
vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa tín
dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau
một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Như
vậy một quan hệ tín dụng phải thoả mãn những đặc trưng sau:
 Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời. Đối tượng của sự
chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc hàng hoá dưới hình thức kéo dài thời gian thanh

toán trong quan hệ mua bán hàng hoá. Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng đề cập
tới thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển
nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định
mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó. Nó là kết quả của sự thoả
thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa
thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó.
 Thứ hai, tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải hoàn trả đúng hạn cả
về thời gian và giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và lãi. Phần lãi đảm bảo cho lượng giá trị
hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này là giá trả cho quyền sử dụng
vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá trả cho sự hi sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của
người sở hữu vì thế nó phải đủ hấp dẫn để người sở hữu có thể hi sinh quyền sử dụng đó.
 Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tín ngưỡng giữa người cho vay và
người đi vay. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả khi đến hạn, người đi
vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi
vay và cho vay ở điểm này sẽ là điều kiện hình thành nên quan hệ tín dụng. Cơ sở của sự



tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản thế chấp và do sự bảo
lãnh của bên thứ ba.
Cơ sở khách quan cua sự ra đời và phát triển quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có
của quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong xã hội, đó cũng là một lúc có chủ thể kinh tế
tạm thời dư thừa về một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu
cầu bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất sẽ bị
ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực
xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất được tiến hành liên tục. Tình trạng thừa thiếu vốn so với nhu cầu xảy ra thường
xuyên trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế trong xã hội xuất phát từ sự
không ăn khớp giữa thu nhập và chi tiêu, về thời gian cũng như khối lượng. Đó là sự
không trùng khớp giữa thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình, của các chủ thể sản xuất kinh

doanh và của ngân sách nhà nước. Như vậy, chức năng của tín dụng là phân phối lại
nguồn vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, nghĩa là tín dụng thực hiện việc di chuyển
các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi đến nơi phát sinh các nhu cầu về vốn. Hoạt động thu chi
của Ngân sách nhà nước cũng được coi là một phương thức phân phối lại tuy nhiên nó
hoàn toàn không thích hợp với việc phân phối lại các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi cho
những nhu cầu về vốn tạm thời. Các đặc trưng riêng có của quan hệ tín dụng cho phép nó
trở thành một phương thức có hiệu quả nhất trong việc phân phối lại các khoản vốn nhàn
rỗi trong xã hội. Bởi lẽ, việc phân phối vốn trong quan hệ tín dụng luôn gắn với các điều
kiện đảm bảo tính hoàn trả và có lãi, các koản vốn nhàn rỗi sẽ được phân bổ cho các đối
tượng có khả năng thoả mãn những điều kiện tín dụng một cách tốt nhất. Và như vậy vốn
được giao cho người sử dung có hiệu quả nhất. Bằng cách đó, tín dụng góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh của xã hội.
1.1.2 Phân loại tín dụng
Phân loại tín dung là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Sau đây là một số tiêu thức cơ bản:
1.1.2.1 Theo thời hạn tín dụng



Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn hoàn trả dưới một năm, được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưư động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn hoàn trả từ một năm đến dưới
năm năm, được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị
công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ, thời
gian thu hồi vốn nhanh và là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của doanh
nghiệp. Trong nông nghiệp, chủ yếu là cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng
như máy cày, máy bơm nước, xây dụng các vươn cây công nghiệp.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn hoàn trả trên 5 năm được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ

sở hạ tầng ( đường xá, bến cảng, sân bay ), cải tiến mở rộng với quy mô lớn.
1.1.2.2 Theo hình thức tài trợ
Cho vay: Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Các hình thức cho vay mà
ngân hàng có thể thực hiện cho khách hàng gồm: thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo
hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một
thương phiếu chưa đến hạn hoặc một giấy nợ.
Cho thuê tài sản: Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua
tài sản. tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện vay, NHTM sẽ
mua tài sản theo yêu cầu củakhách hàng để cho họ thuê. Cho thuê có hai hình thức là cho
thuê hoạt động và cho thuê tài chính.
Bảo lãnh ngân hàng: Là cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên có quyền
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thayy cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách



hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay. Nếu phân theo
mục tiêu bao lãnh gồm các loại sau: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh
toán.
1.1.2.3 Theo mức độ tín nhiệm
Tín dụng có đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng có đam bảo hoặc người bảo lãnh
đứng ra bảo đảm cho khoản tiền vay.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: La hình thức tín dụng không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng.
1.1.2.4 Theo xuất xứ tín dụng

Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng sẽ cung cấp vốn
trực tiếp cho người có nhu cầu sử dụng vốn đồng thời người vay trực tiếp hoàn trả nợ
ngân hàng. Mức độ rủi ro của ngân hàng trong trường hợp này thấp vì tận dụng được
trình độ của cán bộ tín dụng khi mà họ trực tiếp làm việc với người vay để xem xét trước
khi quyết định cho vay.
Tín dụng gián tiếp: Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp
cung cấp vốn cho người có nhu cầu vay vốn mà là mua lại các khế ước hoặc chứng từ đã
phát sinh va còn trong thời hạn thanh toán.
Ngoài ra còn có những tiêu thức phân loại khác như:
 Theo đối tượng tín dụng thì có tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định.
 Theo mục đích tín dụng có tín dụng bất động sản, tín dụng nông nghiệp, tín dụng
các định chế tài chính, tín dụng cá nhân, cho thuê.
 Theo phương pháp hoàn trả có tín dụng không có thời hạn cụ thể, tín dụng có thời
hạn.
1.1.3 Vai trò của tín dụng



1.1.3.1 Đối với ngân hàng
Mặc dù NHTM hoạt động kinh doanh đa năng, nhưng tín dụng là hoạt động chủ
yếu chiếm khoảng 60% nguồn vốn của ngân hàng. Do vậy, lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng cũng chiếm tỉ trọng chủ yếu trong thu nhập của các ngân hàng ở nước ta hiện nay.
1.1.3.2 Đối với khách hàng
Mọi dịch vụ cung cấp ra thị trường đều phải thoả mãn một hay nhiều nhu cầu nào
đó của khách hàng và hoạt động tín dụng cũng không phải là ngoại lệ, nó thoả mãn nhu
cầu về phương diện thanh toán của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay nhu cầu đó
ngày càng gia tăng. Đặc biệt là đối với những nhu cầu cấp thiết mà không có nguồn thanh
toán hoặc không có vốn thì sẽ gây thiiệt hại cho khách hàng nói riêng và cho nền kinh tế
nói chung.
1.1.3.3 Đối với nền kinh tế và xã hội

 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ
thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Điều này
giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản
xuất của xã hội. Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín
dụng để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người đi vay
phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với các
tổ chức cung ứng tín dụng.
 Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô.
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo
công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà phụ thuộc một
phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín
dụng. Vấn đề này, đến lượt nó lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều
kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong



chính sách tín dụng từng thời kì. Như vậy thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều
kiiện tín dụng, nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động
của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy
mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của cính sách tín dụng sẽ
tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối
cùng giữa tổng cung và tổng cầu sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.
 Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Các chhính sách xã hội về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không
hoàn lại từ ngân sách nhhà nước. Song phương thức tài trợ này thường bị hạn chế về quy
mô, thiếu hiệu quả và có xu hướng bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín
dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng
chính sách. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng

một cách chủ động và hiệu quả hơn.
1.2 Khái quát về chất lượng tín dụng
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng ( người vay
tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển cuủa ngân
hàng. Như vậy, CLTD là một khái niệm vừa cụ thể ( thể hiện qua chỉ tiêu lợi nhuân, nợ
quá hạn, rủi ro tín dụng ), vừa mang tính trừu tượng (thể hiện trong việc thu hút khách
hàng, khả năng cạnh tranh ). Do đó ngân hàng nào hiểu rõ được đúng bản chất của
CLTD sẽ giành thắng lợi trong hoạt động kinh doanh và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường. Chất lượng tín dụng thể hiện trên nhiều khía cạnh:
 Đối với bản thân ngân hàng: CLTD được hiểu ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín
dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi
ro trong quá trình hoạt động, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Bởi hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống của ngân hàng, là chức năng cơ bản của
NHTM. Thu nhập từ hoạt động tín dụng là thu nhập chính của ngân hàng chiếm khoảng
60% tổng thu nhập. Tuy nhiên rủi ro trong lĩnh vực này cũng rất cao. Vì vậy hoạt động



tín dụng lành mạnh có chất lượng và hiệu quả cao đảm bảo duy trì hoạt động của ngân
hàng góp phần lành mạnh hệ thống ngân hàng.
 Đối với khách hàng: CLTD thể hiện ở chỗ tín dụng phát ra phải có một mức lãi
suất hợp lí để khách hàng không phải chịu giá cao và kì hạn hợp lí để tiện cho kế hoạch
sử dụng vốn vay và trả nợ cho ngân hàng, thủ tục đơn giản và thuận tiện cho khách hàng,
thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
 Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: CLTD là sự phục vụ đáp ứng nhu cầu sản
xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng
tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng.

CLTD là một thuật ngữ phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM. CLTD
chỉ được đánh giá sau khi khách hàng đã sử dụng một khoản tín dụng nào đó. CLTD
được cáu thành bởi hai yếu tố là mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do
hoạt động tín dụng mang lại:
Thứ nhất, mức độ an toàn tín dụng: Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ
tiềm tàng vốn có khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong
trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc
thanh toán nợ gốc và lãi không đúng ki hạn tại thời điểm ngân hàng cấp tín dụng cho
khách hàng và chấp nhận giấy nhận nợ của kkhách hàng. Nâng cao CLTD giúp ngân
hàng phân tán cũng như giảm thiểu được tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng.
Thứ hai, khả năng sinh lời của ngân hàng do các khoản tín dụng mang lại: tín
dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho các NHTM, vì vậy CLTD đóng vai trò
quyết định đến khả năng sinh lời cho các ngân hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá
CLTD là một phạm trù hết sức phức tạp và trừu tượng. Do vậy để đánh giá được
CLTD một cách chính xác tương đối người ta phải dựa vào những tiêu thức nhất định.
Thực tế người ta vẫn thường sử dụng những chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng
sau:
1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính



a, Uy tín của ngân hàng
Cạnh tranh là quy luật của tự nhiên, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh
tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và phát triển các ngân hàng
phải chấp nhận cạnh tranh như sự lựa chọn tất yếu. Trong cùng một môi trường như
nhau, các ngân hàng phải tận dụng được những ưu thế của mình để vượt lên đối thủ cạnh
tranh, khhẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Nếu một ngân hàng có uy tín thì sẽ
thu hút được nhiều khách hàng và khi đó số khách hàng có chất lượng, làm ăn uy tín sẽ
tăng. Đó là một dấu hiệu cho thấy CLTD khả quan.

b, Tín dụng ngân hàng phải đảm bảo góp phần vào sự tăng trưởng, phát triển kinh tế tại
địa phương và khả năng tạo việc làm cho nguồn nhân lực xã hội.
Xuất phát từ vai trò của tín dụng ngân hàng như đã đề cập ở trên, việc nâng cao
CLTD sẽ góp phần vào việc đổi mới nền kinh tế quốc dân nói chung và nền kinh tế gia
đình nói riêng. Đây là hệ quả tất yếu khi cả ngân hàng và khách hàng hoạt động có hiệu
quả. CLTD được coi là tốt khi nó góp phần nâng cao năng lượng sản xuất cho doanh
nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư, thể hiện ở
sự ổn định của nền tài chính tiền tệ quốc gia.
c, Việc chấp hành tốt pháp luật, các chỉ đạo của nhà nước, của ngành cũng như tuân thủ
triệt để các nguyên tắc cho vay của ngân hàng đảm bảo sự tồn tại và phát triển.
Để CLTD tốt không chỉ phụ thuộc riêng vào ngân hàng mà nó phụ thuộc rất lớn
vào ngân hàng mà nó vay vốn. Một khoản tín dụng được coi là hiệu quả khi các nguyên
tắc cho vay được tuân thủ triệt để.
1.2.2.2 Chỉ tiêu định lượng
a, Tổng dư nợ
Tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại
một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồn dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tổng
dư nợ càng cao thể hiện quy mô ngân hàng càng lớn vì ngân hàng có lớn mới có cơ hội



mở rộng quy mô tín dụng. Và ngược lại, tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của
ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng khách hàng, khả năng tiếp thị cua ngân
hàng chưa tốt, trình độ của CBTD thấp Mặc dù vậy chỉ tiêu này cao thì chưa hẳn chất
lượng khoản vay tốt bởi nếu cứ có khách hàng là ngân hàng cho vay htì sẽ làm quy mô
tín dụng tăng lên nhưng chất lượng không đảm bảo rất dễ dẫn đến rủi ro mất vốn từ đó
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Song nếu tổng dư nợ tăng lên liên tục qua các năm thì
lại cho thấy chiều hướng tăng lên của CLTD.
b, Tỷ lệ nợ
Theo quyết định số 493/2005/QĐ/NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống

đốc NHNN Việt Nam về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về
việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng dể xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD ban hành theo
quyết định số 493/2005/QĐ/NHNN thì TCTD thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm như
sau:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu
hồi gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản
bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày, nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có kkhả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính Phủ xử lí.



Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như
trên, TCTD vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kì khoản nợ nào vào các
nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của
khách hàng suy giảm.
c, Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có
thể xảy ra cho khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng
rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của các TCTD. Hiện
tại thì các ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng RRTD theo quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN và quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Khi tỉ lệ trích lập dự phòng tăng thì cho

thấy CLTD tại ngân hàng đang có dấu hiệu giảm sút và ngược lại.
d, Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng

Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng tức là
nó thể hiện khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cao hay thấp, chất lượng quản lí vốn tín
dụng tốt hay xấu. Vốn tín dụng quay được một vòng tức là tính từ thời điểm cấp tín dụng
đến thời điểm thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như trong hợp đồng. Vòng quay
vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng luân chuyển càng nhanh, được
sử dụng để tham gia vào nhiều chu kì sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn
nhất định, vòng quay vốn tín dụng nhanh, ngân hàng có thể tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực
khác để kiếm lời. Vòng quay vốn tín dụng cao chứng tỏ khả năng quản lí vốn tín dụng
cũng như CLTD của ngân hàng tốt.
e, Hiệu suất sử dụng vốn vay



Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng nguồn vốn huy động
Tỷ lệ này cho biết một đồng vốn huy động được thì có bao nhiêu đồng được ngân
hàng sử dụng để cho vay và nó phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn cho vay
của các ngân hàng. Qua chỉ tiêu này cho ta biết sự phù hợp giữa nguồn huy động vốn và
cho vay, một khi hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng chưa ngang tầm với công tác huy
động vốn sẽ gây ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của ngân hàng, cho thấy vốn bị ứ đọng
không có khả năng sinh lời điều này cũng có thể là do ngân hàng không muốn mở rộng
quy mô tín dụng trong khi quy mô huy động vốn tăng lên, cũng có thể là không thu hút
được khách hàng đến vay vốn.

f, Chỉ tiêu mức sinh lời
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ lệ mức sinh lời =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, nó cho biết một
đồng tín dụng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này cao cho thấy việc sử dụng đồng
vốn có hiệu quả thể hiện ở việc thu nhập từ hoạt động tín dụng tăng cao. Chỉ tiêu này
càng lớn càng chứng tỏ ngân hàng có CLTD tốt và ngược lại.
g, Thu nhập từ hoạt động cho vay
Mục đích kinh doanh của các NHTM là lợi nhuận. Do vậy không thể nói một
khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem lại khoản thu nhập cho ngân hàng.
Hơn nữa nguồn thu nhập từ tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát
triển. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ khoản vay không những thu hồi được gốc
mà còn có lãi, đảm bảo được an toàn của đồng vốn vay.



Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Tỷ lệ này cho biết trong một đồng thu nhập của ngân hàng có bao nhiêu đồng là
do thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ hoạt động tín dụng
của ngân hàng tốt. Từ đó cho thấy rằng nếu ngân hàng chỉ tập trung vào việc giảm và duy
trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì một
tỷ lệ thấp như thế cũng không có nghĩa bởi mục tiêu cuối cùng của các NHTM là lợi
nhuận.

1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.2.3.1 Nhóm nhân tố khách quan
Là nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng không do chủ quan của ngân hàng bao

gồm:
a, Môi trường kinh tế
Đây là nhân tố đầu tiên quan trọng trong nhóm nhân tố khách quan bởi bất kì hoạt
động kinh doanh nào cũng diễn ra trong một môi trường kinh tế nhất định và chịu tác
động mạnh mẽ của môi trường đó. Một vài biến số kinh ttế ảnh hưởng đến CLTD của
ngân hàng:
 Chu kì kinh tế: Chu kì kinh tế là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba
pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Khi chu kì kinh tế thay đổi sẽ
ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và do đó ảnh hưởng đến CLTD của ngân hàng. Trong
thời kì tăng trưởng của nền kinh ttế, các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn,
tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng đồng thời DN với nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ nợ xấu,
CLTD được nâng cao. Ngược lại, trong thời kì suy thoái, hoạt động của toàn bộ nền kinh
tế bị ngưng trệ, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hhoạt động sản xuất kinh



doanh, vốn lưu chuyển chậm, nhu cầu về vốn tín dụng giảm. Đồng thời khả năng trả nợ
của các doanh nghhiệp giảm sút, nợ quá hạn cũng vì thế mà tăng lên ảnh hưởng xấu đến
CLTD.
 Lạm phát: Đối với các ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng
cao, sức mua đồng tiền giảm xuống đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho
vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Lạm phát tăng cao, NHNN phải thực
hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng
cho một số ít khách hàng với những hợp động đã kí hoặc những dự án thực sự có hiệu
quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, tát yếu lãi suất
cho vay cũng cao, điều này làm xấu đi môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức
sẽ xuất hiện.
b, Môi trường chính trị – xã hội
Môi trường chính trị của một quốc gia cũng tác động mạnh đến hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp. Quốc gia nào duy trì được một nền chính trị ổn định, thì ở
đó các doanh nghiệp có điều kiện phát triển. Họ yên tâm sản xuất kinh doanh, không
ngừng đầu tư mở rộng sản xuất nhằm tìm kiếm lợi nhuận ngày càng tăng. Nhu cầu về vốn
của các doanh nghiệp tăng lên, các NHTM có cơ hội để mở rộng cho vay. Với các khoản
cho vay cũ thì khả năng thu hồi tăng lên, CLTD vì thế mà được nâng cao. Bên cạnh đó,
tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên sự tín nhiệm là chính, lòng tin là cầu nối giữa
ngân hàng và kkhách hàng, và khách hàng có uy tín có quan hệ tín dụng tốt thì sẽ được
ngân hàng tạo thuận lợi cho việc cấp tín dụng. Đây cũng là một trong những nhân tố
quyết định đến CLTD.
c, Môi trường pháp luật
Cũng như các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của
NHTM luôn bị điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp. Với môi trường pháp lí hoàn thiện, ổn
định, các luật và văn bản dưới luật được ban hành một cách đồng bộ và kịp thời sẽ tạo



điều kiện cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Do vậy,
môi trường pháp lí cũng được coi là yếu tố ảnh hưởng đến CLTD.
d, Môi trường tự nhiên
Một môi trường tự nhiên thuận lợi sẽ ảnh hưởng tốt đến tất cả các ngành, các
thành phần kinh tế và ngược lại sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của khách
hàng đặc biệt là trong ngành liên quan đến nông nghiệp, thuỷ hải sản, khai thác. Như vậy,
khi môi trường tự nhiên không thuận lợi, việc đầu tư vào các nganh chịu ảnh hưởng lớn
và trực tiếp từ thiên nhiên sẽ gặp khó khăn dẫn đến kết quả sản xuất của khách hàng giảm
xuống từ đó tác động xấu tới khả năng trả nợ cho ngân hàng. Điều đó làm CLTD giảm
xuống.
e, Môi trường quốc tế
Trong xu thế của toàn cầu hoá như hiện nay, vấn đề hội nhập quốc tế là tất yếu
khách quan đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Tháng 11/2007 Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chưc thương mại thế giới WTO. Mặt khác, nền kinh

tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy mà môi trường quốc tế
cũng tác động đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói riêng trong đó có CLTD.
1.2.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan
a, Từ phía khách hàng
Năng lực của khách hàng: Bao gồm năng lực tài chính, năng lực thị trường, năng
lưc sản xuất, năng lực quản lí của khách hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến CLTD. Bởi lẽ,
một khoản tín dụng có được hoàn trả đúng hạn hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực
và trình độ của khách hàng trong kinh doanh. Đây là nhân tố quyết định tới việc khách
hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không. Nếu năng lực của khách hàng có hạn, họ
không dự đoán đúng những biến động lên xuống của nhu cầu thị trường, trình độ quản lí
thấp, khả năng phân tích đánh giá và dự báo những biến động của môi trường kinh doanh
thấp, trình độ chuyên môn không cao, sử dụng các nguồn lực không hiệu quả, công nghệ



kĩ thuật cũ kĩ, lạc hậu thì hiệu quả sản xuất kinh doanh chắc chắn không thể cao, khả
năng cạnh tranh thấp, khả năng tạo ra các nguồn thu để trả nợ ngân hàng bị hạn chế. Từ
đó ảnh hưởng đến CLTD của ngân hàng.
Tư cách đạo đức của khách hàng: Trong quan hệ tín dụng phẩm chất đạo đức
của khách hàng là yếu tố quyết định thiện chí trả nợ cũng như mức độ trung thực và điều
này quyết định đến hoạt động trả nợ của khách hàng. Do đó mà nó cũng tác động đến
CLTD.
b, Từ phía ngân hàng
Nhân tố bên trong được hiểu là những nhân tố thuộc về nội tại của từng ngân
hàng, do chủ quan ngân hàng đó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Thứ nhất, chiến lược phát triển của ngân hàng.
Chiến lược phát triển cuủa ngân hàng là hệ thống các quan điểm, các mục đích và
các mục tiêu cơ bản cùng các giải pháp, chính sách nhằm sử dụng một cách tốt nhất các
nguồn lực, lợi thế, cơ hội của tổ chức để đạt được các mục tiêu dài hạn trong thời gian

ngắn nhất có thể. Để xây dựng chiến lược phát triển, ngân hàng thường sử dụng mô hình
SWOT để phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngân hàng mình. Vậy
thế nào là một chiến lược phát triển phù hợp? Một chiến lược phát triển phù hợp là một
chiến lược phát huy được tối đa các điểm mạnh, khai thác được các cơ hội đồng thời hạn
chế được tới mức tối thiểu các điểm yếu và vượt qua được các thách thức. Một chiến lược
phát triển rõ ràng, đúng đắn và phù hợp sẽ định hướng hoạt động cho tất cả các nghiệp vụ
của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Tuỳ theo chiến lược phát triển của ngân
hàng là tăng trưởng hay ổn định thi trường mục tiêu mà nhóm mục tiêu của các ngân
hàng khác nhau, điều này có thể ảnh hưởng đến CLTD của ngân hàng.
Thứ hai, chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc
khuếch trương hoặc hạn chế tín dụng để đạt mục tiêu đã hoạch định của NHTM đó và
hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, được xác định



trên cơ sở chién lược phát triển của ngân hàng kết hợp với các quy định quản lí ngành của
các cơ quan quản lí nhà nước . Nó phản ánh chủ trương cho vay của một ngân hàng, trở
thành định hướng chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường
chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín
dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng cân xác
định được quy mô, thời hạn, phương thức cho vay và lĩnh vực cho vay nào đang có xu
hướng phát triển. Mục tiêu của chính sách tín dụng là lợi nhuận, sự an toàn, sự lành
mạnh. Một chính sách tín dụng thích hợp sẽ gúp ngân hàng xác định phương hướng sử
dụng các nguồn vốn hiện có, tạo ra một tài sản có chất lượng cao, ít rủi ro và đạt được
mục tiêu kinh doanh chung.
Thứ ba, quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định cuủa ngân hàng trong
việc cấp tín dụng, trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ
khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là

một quá trình bao gồm nhiêu giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trình tự nhất
định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Một quy trình tín dụng theo lí
thuyết bao gồm 6 giai đoạn: Lập hồ sơ tín dụng, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng,
giải ngân, giám sát và thu nợ, thanh lí hợp đồng tín dụng. Các giai đoạn này có mối quan
hệ qua lại hỗ trợ cho nhau, kết quả của giai đoạn trước là cơ sở thực hiện giai đoạn tiếp
theo và tác động đến chất lượng công việc của giai đoạn sau. Dựa vào quy trình tín dụng,
ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành chính cho phù hợp với những quy định của pháp
luật và đảm bảo mục tiêu an toàn trong kinh doanh. Thiết kế các thủ tục cho vay phải
thích hợp với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay cũng như kĩ thuật cho vay nhhằm
cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, không gây phiền hà cho khách hàng, cũng như
tiết kiệm thời gian cho cả hai bên. Mặt khác, quy trình tín dụng còn là cơ sở để kiểm soát
tiến trình cấp tín dụng và điều chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn.
Thông qua kiểm soát thực hiện quy trình tín dụng nhà quản trị ngân hàng nhanh chóng
xác định những khâu, những công việc cần điều chỉnh cũng như hướng đào tạo và phân



công trong tương lai, từ đó kiểm soát được những rủi ro khi cấp tín dụng. Điều đó cho
thấy, một ngân hàngcó quy trình tín dụng hợp lí thì CLTD sẽ được đảm bảo và ngược lại.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ tín dụng
Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của bất kì một tổ
chức nào, và ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Trong hoạt động tín dụng, cán bộ tín
dụng là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu của quy trình tín dụng. Khi xem xét đến
yếu tố này người ta xem xét dưới hai góc độ:
 Trước hết phải kể đến trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một cán bộ tín dụng có
trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm cao sẽ đánh giá được chính xác về tính khả thi
của dự án, xác định được khả năng trả nợ hay năng lực thực sự của khách hàng, xác minh
được tính trung thực của các báo cáo tài chính, đánh giá được đạo đức của khách hàng
vay Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, hạn chế được những sai lầm do lựa chọn sai
khách hàng, qua đó sẽ nâng cao được CLTD. Cán bộ còn phải có khả năng dự đoán trước

được những biến động có thể xảy ra để có thể tư vấn cho khách hàng, xay dựng, điều
chỉnh phương án kinh doanh cho phù hợp.
 Tuy nhiên có tài thôi chưa đủ mà còn phải có tư cách đạo đức. Một người cán
bộ đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của tập thể, mắc ngoặc với khách hàng, chấp thuận
cho vay đối với những khách hàng không đủ tiêu chuẩn, bỏ qua những khách hàng tiềm
năng của ngân hàng, nhận hối lộ, tham những để cho vay trái pháp luật. Tất cả những
hành vi đó đều ảnh hưởng xấu tới CLTD của ngân hàng.
Thứ năm, hoạt động huy động vốn.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
khác nhau và được dùng làm vốn để kinh doanh. Theo Mac: “ Với sự phát triển của hệ
thống ngân hàng và nhất trí khhi trả lãi cho những người gửi tiền thì tất cả số tiền để
giành và tạm thời chưa dùng dến của tất cả các tầng lớp sẽ được gửi vào ngân hàng,
những số tiền riêng lẻ từng nhóm một thì không đủ khả năng để hoạt động với tư cách là
tư bản tiền tệ, nhưng khi được góp lại thành những khối lượng lớn thì chúng trở thành



một lực lượng tài chính mạnh ”. Tác dụng đặc biệt của hệ thống ngân hàng là ở chỗ nó
tập hợp được những số tiền nhỏ lại, bản thân của vốn huy động là tài sản thuộc các sở
hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách
nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kì hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn.
Hoạt động huy động vốn của mỗi ngân hàng quyết định đến khả năng đáp ứng nhu cầu
vốn cho khách hàng. Rõ ràng, ngay cả khi ngân hàng có khả năng thu hút được những
khách hàng có chất lượng tốt nhưng nguồn vốn huy động lại không đủ thì hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó không thể có chất lượng cao. Vì vậy, hoạt động huy động vốn
hiệu quả là cơ sở nền tảng cho việc nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng.
Thứ sáu, khả năng thu thập và xử lí thông tin
Trong thời đại cập nhật công nghệ thông tin như ngày nay người nào nắm bắt và
xử lí thông tin tốt thì người đó sẽ có nhiều cơ hội để chiến thắng. Trong ngành ngân

hàng, đặc biệt là trong công tác tín dụng thì việc tìm kiếm thông tin vầ khách hàng là vô
cùng quan trọng. Thông tin tín dụng bao gồm thông tin về tình hình pháp lí, tình hình tài
chính, tình hình dư nợ, tình hình tài sản đảm bảo tiền vay và các thông tin khác. Thông
tin càng chính xác bao nhiêu thì RRTD mà ngân hàng gặp phải sẽ càng hạn chế bấy
nhiêu. Thông tin về khách hàng có thể thu thập từ nhiều nguồn nhưng không phải nguồn
nào cũng chính xác. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải sàng lọc và xử lí thông tin
tốt, có như vậy thì mới đảm bảo được chất lượng hoạt động tín dụng của mình. Mặt khác,
một hệ thống thông tin tín dụng hoàn chỉnh có thể giúp cho các nhà lãnh đạo ngân hàng
có được cái nhìn toàn diện hơn, sâu rộng hơn về môi trường kinh doanh của các ngân
hàng. Từ đó, đưa ra được các quyết định đúng đắn trong kinh doanh.
Thứ bảy, công tác kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh
Mở rộng quy mô hoạt động ngân hàng, tăng cường cho vay mà không lường hết
được những rủi ro bất trắc có thể xảy ra thì rất dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ và phá sản đối
với các NHTM. Một trong những hoạt động nhằm giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi
ro trên là công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra. Công tác này không chỉ thực hiện đối
với khách hàng mà còn thực hiện với bản thân ngân hàng. Thông qua công tác này, các



nhà quản lí sẽ đảm bảo rằng CBTD đã thực hiện đúng các quy định chưa, phát hiện kịp
thời những sai sót, đánh giá tính hiệu quả của hệ thống quản lí từ đó đôn đốc nhắc nhở
CBTD sửa chữa làm cho CLTD tăng lên giúp nâng cao vị thế của ngân hàng trong con
mắt của khách hàng.
Thứ tám, Trình độ công nghệ, trang thiết bị của ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu áp dụng các công nghệ tiên tiến vào trong
các nghiệp vụ của ngành tài chính ngân hàng là cần thiết vì nó không những giảm khoản
chi phí bình quân cho các nghiệp vụ, tiết kiệm thời gian giao dịch, ngân hàng dễ dàng
nắm bắt cơ hội đầu tư mới Một ngân hàng có công nghệ hiện đại không những có khả
năng thu hút được nhiều khách hàng, mà còn có khả năng thu thập và xử lí thông tin về
khách hàng một cách đầy đủ và toàn diện. Qua đó, tạo điều kiện cho việc ra quyết định

trong quá trình cấp tín dụng, phân loại khách hàng và trích lập dự phòng chính xác góp
phần nâng cao CLTD.
1.3 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM
Như chúng ta đã biết, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của
NHTM. Phần lớn lợi nhuận của ngân hàng cũng được tạo ra từ chính nghiệp vụ này. Tuy
nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn thưởng trực. Do đó việc kiểm soát cũng
như các biện pháp chống đỡ, hạn chế RRTD được đặc biệt chú ý. Mặt khác, trong nền
kinh tế thhị trường, ngân hàng luôn là một tổ chức kinh tế hạch toán độc lập và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của mình, các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Trong xã hội, sản xuất của cải vật chất là cơ sở tồn tại của xã hội loài người, nhu cầu tín
dụng được đáp ứng tạo ra sự luân chuyển sản phẩm ngày càng tăng, tạo ra sự phát triển đi
lên của nền kinh tế. Vì vây, hoạt động tín dụng kinh doanh của ngân hàng cũng gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế và các cá nhân. Để hoạt động
tín dụng phát huy được tối đa hiệu quả, giảm thiểu tới mức thấp nhất rủi ro thì CLTD góp
phần không nhỏ vào hoạt động này, nó không chỉ có vai trò to lớn đối với các ngân hàng
nói riêng mà còn có ý nghĩa đôí với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Do đó việc nâng cao



CLTD là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, khách hàng và cũng là nhu cầu thiết thực của
chính ngân hàng.
1.3.1 Về phía ngân hàng
Việc nâng cao CLTD sẽ đem lại những lợi ích sau:
Thứ nhất, làm tăng khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng và các hoat động khác
bởi khi khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tốt , thường xuyên, tin cậy trong hoạt
động tín dụng sẽ thu hút khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng
khi họ có nhu cầu.
Thứ hai, đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng. Hoạt động tín dụng đem
lại lợi nhuận chính nhưng đồng nghĩa với nó là rủi ro cũng cao bởi rủi ro và lợi nhuận

luôn có quan hệ thuận chiều với nhau, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Vì vậy nâng
cao CLTD sẽ giảm thiểu rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng trong tương lai.
Thứ ba, tạo uy ín cho bản thân ngân hàng. Bởi lẽ hoạt động tín dụng có chất lượng
tốt, lợi nhuận của ngân hàng tăng, khả năng tài chính của ngân hàng tăng sẽ nâng cao
được vị thế của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước.
1.3.2 Đối với nền kinh tế
Nâng cao CLTD góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển từ đó thúc
đẩy lưu thông hàng hoá nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. CLTD góp
phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ Quốc gia, các chủ trương đường lối của Đảng và nhà
nước.
1.3.3 Đối với khách hàng
Nâng cao CLTD góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh bởi lẽ CLTD được
đảm bảo có nghĩa là ngân hàng đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện cung
cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Điều này khiến cho
khách hàng có thể tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng nhanh hơn để tận dụng được cơ hội
đầu tư kịp thời, hạ chi phí cơ hội xuống thấp nhất.



Qua việc xem xét, nghiên cứu tín dụng ngân hàng cũng như CLTD và những vai
trò của nó dã cho thấy CLTD là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của
NHTM với sự thay đổi của môi trường, nó thể hiện sức cạnh tranh của một ngân hàng
trong quá trình tồn tại là kết quả của việc kết hợp hoạt động giữa những con người trong
một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục tiêu chung. Do đó để đạt được CLTD
tôt cần theo dõi, tìm hiểu các nhân tố chủ quan, khách quan và tìm hiểu những nguyên
nhân gây ra trục trặc trong việc cấp tín dụng nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh đó, cần phải nhận thức rõ vai trò của tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng trong hoạt động tín dụng, CLTD phải luôn là mối quan tâm hàng đầu của hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện nay.

Tóm lại: Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động tín
dụng của các ngân hàng có liên quan đến nhiều đối tượng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Do đó chất lượng tín dụng ngân hàng sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có những
nhân tố thuộc bản thân ngân hàng, có những nhân tố thuộc về phía khách hàng, cũng có
những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của cả hai. Việc nghiên cứu nắm rõ vai trò và cơ
chế tác động của từng nhân tố sẽ giúp các ngân hàng có biện pháp thích hợp để nâng cao
hơn nữa chất lượng tín dụng, phát huy tối đa vai trò đòn bẩy phát triển kinh tế của mình.








Chương 2:
Thưc trạng chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh
Thanh Xuân

2.1 Khái quát về NHNo & PTNT chi nhánh Thanh Xuân
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh
NHNo&PTNT chi nhánh Thanh Xuân là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT
Việt Nam thành lập vào đầu năm 2008, nằm trên địa bàn quận Đống Đa, Hà Nội. Chi
nhánh có trụ sở đặt tại 90 Đường Láng, Q. Đống Đa, Hà Nội.
Sản phẩm mà ngân hàng cung cấp ra thị trường rất đa dạng và phong phú như: mở
tài khoản, nhận tiền gửi bằng VND và ngoại tệ, cho vay trung, dài hạn, phát hành và
thanh toán các loại thẻ ATM, thực hiện bảo lãnh, tái bảo lãnh, cho vay tiêu dùng bằng
VND và ngoại tệ đối với mọi thành phần kinh tế Bên cạnh đó, chi nhánh Thanh Xuân
còn khai thác được những thế mạnh về cơ sở vật chất, các mối quan hệ, phong cách phục
vụ, tuyên truyền tiếp thị, đổi mới công nghệ, linh hoạt về lãi suất, đồng thời luôn điều

chỉnh về các hoạt động cho phù hợp, thay đổi kịp thời các chính sách kinh doanh, tích
cực tìm hiểu nhu cầu thị trường nên dã thu được những kết quủa kinh doanh khả quan,
đứng vững trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và hiện đang được đánh giá là chi
nhánh hoạt động hiệu quả.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
Ban lãnh đạo của chi nhánh Thanh Xuân gồm 1 giám đốc, 3 phó giám đốc phụ
trách các mảng công việc khác nhau. Bộ máy tổ chức điều hành của chi nhánh được bố trí
thành 4 phòng ban và 5 phòng giao dịch
Sơ đồ1

×