Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng tmcp quân đội, chi nhánh bắc hải, tp. hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.09 KB, 76 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM : Ngân hàng thương mại
TP : Thành phố
TMCP : Thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng nhà nước
TW : Trung ương
KBNN : Kho bạc nhà nước
HTX : Hợp tác xã
TSCĐ : Tài sản cố định
L/C : Thư tín dụng (Letter of Credit)
1
LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một loại hình doanh nghiệp không
những thích hợp đối với nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà
còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của những nước đang phát triển. Ở nước ta
trước đây, việc phát triển các DNVVN cũng đã được quan tâm, song chỉ từ khi có
đường lối đổi mới kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng thì các doanh
nghịêp này mới thực sự phát triển nhanh cả về số và chất lượng.
Trong điều kiện của những bước đi thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là bước đi hợp quy
luật đối với nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi nguồn
lực kinh tế đặc biệt là những nguồn tiềm tàng sẵn có ở mỗi người, mỗi miền đất
nước. Các DNVVN ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc giải
quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải quan tâm chú ý đến đó là: Tăng
trưởng kinh tế - giải quyết việc làm - hạn chế lạm pháp.
Nhưng để thúc đẩy phát triển DNVVN ở nước ta đòi hỏi phải giải quyết hàng
loạt các khó khăn mà các doanh nghiệp này đang gặp phải liên quan đến nhiều vấn
đề. Trong đó khó khăn lớn nhất, cơ bản nhất, phổ biến nhất, làm tiền đề cho các
khó khăn nhất đó là thiếu vốn sản xuất và đổi mới công nghệ. Vậy doanh nghiệp
này phải tìm vốn ở đâu trong điều kiện thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển


và bản thân các doanh nghiệp này khó đáp ứng đủ điều kiện tham gia, chúng ta
cũng chưa có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp này một các hợp lý. Vì vậy phải
giải quyết khó khăn về vốn cho các DNVVN đã và đang là một vấn đề cấp bách
mà Đảng, Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cũng phải
quan tâm giải quyết.
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát
triển DNVVN còn rất hạn chế vì các DNVVN khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay
vốn ngân hàng và khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử
2
dụng vốn chưa hợp lý và hiệu quả. Vì thế việc tìm ra giải pháp tín dụng nhằm phát
triển DNVVN đang là một vấn đề bức xúc hiện nay của các NHTM. Xuất phát từ
quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay, sau một thời
gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng
em đã chọn đề tài : “Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP. Hải Phòng”
cho chuyên đề cuối khoá của mình.
Nội dung chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Ngân hàng TMCP Quân Đội – MB, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng
TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng
3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Ngân Hàng thương mại và các hoạt động cơ bản của Ngân Hàng
thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân Hàng thương mại
 Lịch sử phát triển ngân hàng: Lịch sử hình thành và phát triển của

ngân hàng gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Khi nền kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của ngân hàng, sự phát triển của
hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Theo các nhà sử học và ngôn ngữ học “ngân hàng” có nguồn gốc từ tiếng
Pháp cổ “Banque” và tiếng Ý cổ “Banca” đều được dùng để “chỉ cái ghế dài” hay
“bàn của người đổi tiền”. Điều này miêu tả khá rõ những gì mà những nhà sử học
đã quan sát và những ngân hàng đầu tiên xuất hiện hơn 2000 năm trước đây. Họ là
những người đổi tiền thường ngồi ở bàn hoặc ở một cửa hiệu nhỏ trong trung tâm
thương mại giúp các nhà du lịch đến thành phố đổi ngoại tệ lấy nội tệ và chiết
khấu thương phiếu giúp các nhà buôn có vốn kinh doanh. Như vậy nghề ngân
hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Việc lưu hành
những đồng tiền riêng của mỗi quốc hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại
và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đổi tiền và đúc tiền tại các cửa khẩu hoặc trung
tâm thương mại. Người làm nghề đúc đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng
cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá
mua bán. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu trước đó có thể đã làm
nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu
cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều người làm nghề đúc tiền
đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu
nhập làm tăng khả năng đa dạng các loại tiền tăng qui mô tài sản của người kinh
doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh
toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh
toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều
kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi
4
tiền vừa thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng loại này được gọi là ngân
hàng của những thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ những người cho
vay nặng lãi. Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền,
giữ hộ và thanh toán hộ.
Những người kinh doanh tiền tệ đầu tiên đã dùng vốn tự có để cho vay,

nhưng điều đó đã nhanh chóng được thay đổi. Từ hoạt động thực tiễn các chủ
Ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra,
song tất cả người gửi không rút tiền một lúc nên đã tạo số dư thường xuyên ở
Ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời
một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi
nhuận lớn cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền
gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện
ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện
để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
Hình thức ngân hàng đầu tiên – ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng
của những kẻ cho vay nặng lãi thực hiện cho vay với các cá nhân chủ yếu là những
người giàu: quan lại, địa chủ… nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều chủ ngân
hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần nhu cầu
chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi cho phép khách
hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay có nhiều rủi
ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi
khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng
thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động
thanh toán, ảnh hưởng xấu đến hoạt động buôn bán. Hơn nữa lãi suất cao nên
những nhà buôn không thể sử dụng nguồn vốn này. Trước tình hình có nhiều nhà
buôn tự thành lập ngân hàng, gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng
thương mại được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp, và
gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng thương
mại cũng thực hiện các hoạt động truyền thống của ngân hàng như huy động tiền
gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Tuy nhiên , điểm khác nhau giữa ngân hàng
5
thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là ngân hàng thương mại chủ yếu cho
nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là cácc khoản vay
ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn

lợi nhuận tạo ra cho phép sử dụng tiền vay. Để đảm bảo an toàn, ngân hàng
thương mại ban đầu không cho vay đối với người tiêu dùng, không cho vay trung
và dài hạn, không cho vay đối với nhà nước. Sự phá sản của nhiều ngân hàng
thương mại đã gây tổn thất lớn cho người gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình
thành ngân hàng tiền gửi. Ngân hàng này không cho vay chỉ thực hiện giữ hộ,
thanh toán hộ để lấy phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong điều kiện lịch sử cụ thể đã
hình thành nên nhiều loại ngân hàng khác nhau như ngân hàng tiết kiệm, ngân
hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng Nhà nước)
… tạo nên hệ thống ngân hàng. Trong đó trừ ngân hàng trung ương có chức năng
xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có
một số nghiệp vụ khác nhau song đều chung đặc điểm là thực hiện kinh doanh tiền
tê.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và
các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng
vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng
thuộc sỏ hữu nhà nước, các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát
triển mạnh trong những năm cuối thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn
được giữ bên cạnh các nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng
thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và
dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay
tiêu dùng. Kinh doanh chứng khoán, cho thuê… Các hình thức huy động cũng
ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng
tối đa nhhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các
ngân hàng đã mở rộng các hình thức vay như vay ngân hành trung ương, vay các
ngân hàng khác. Công nghệ ngân hàng đã góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ
bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy
6
nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế

dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang tạo ra
các tiện ích ngày càng lớn cho dân chúng. Quá trình phát triển của các ngân hàng
không những làm gia tăng số lượng các ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của
mỗ ngân hàng. Tích tụ và tập trung vốn đã tạo các công ty ngân hàng cực lớn với
số vốn tự có hàng chục tỷ đôla Mỹ, tổng tài sản hàng trăm tỷ đôla Mỹ, đủ sức để
tài trợ cho những ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhụn toàn cầu. Quá trình phát
triển của các ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ rang buộc ngày càng chặt chẽ, sự
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt động ngân hàng
xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ
chức liên kết các ngân hàng nhằm tạ ra các chính sách chung, hoặc tương thích để
kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ
thồng ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Lịch sử phát triển ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và
hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế, gây tổn thất lớn cho nền
kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói, các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một
khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của ngân hàng. Các nhà quản lý đã và đang
không ngừng cải tiến chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho
sự phát triển của khu vực ngân hàng.
 Khái niệm ngân hàng và ngân hàng thương mại: Qua xem xét
quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng, dựa trên các loại hình dịch vụ
được cung cấp bởi chúng ta có khái niệm tổng quát nhất về ngân hàng và Ngân
hàng thương mại.Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi
dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và
vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu
đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác
cho các chủ thể trong nền kinh tế.

7
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Theo khái niệm ở trên về ngân hàng, cho thấy ngân hàng là một tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục đa dạng các dich vụ tài chính đa dạng nhất, thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất. Tuy nhiên, một cách tổng quat ta có thể xem
xét ngân hàng với ba hoạt động cơ bản bao gồm: Hoạt động huy động vốn, hoạt
động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương
mại – đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Với chức năng là trung gian tài chính trong hệ thống kinh tế, là cầu nối giữa những
người có vốn nhàn rỗi nhưng chưa tìm được cơ hội đầu tư với những người có kế
hoạch đầu tư hiệu quả nhưng gặp khó khăn về vốn, Ngân hàng tập trung các khoản
tiền nhàn rỗi trong dân cư và phân phối chúng tới các tổ chức, cá nhân có nhu cầu
vay vốn. Lợi nhuận của ngân hàng chính là phân chênh lệch giữa tiền lãi thu được
từ các khoản cho vay sau khi trừ đi tiền lãi phải trả cho các khoản tiền gửi được
huy động tại ngân hàng cùng các khoản chi phí phục vụ hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Đây là hình thức chủ yếu trong hoạt động huy động vốn của các ngân
hàng, ngoài ra còn có những kênh dẫn vốn khác giúp ngân hàng đạt được lượng
vốn cần huy động để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình.
 Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động chủ ngân hàng phải có một
lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn này bao gồm: Vốn hình thành
ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh như phần lợi nhuận giữ lại
phát hành thêm cổ phần, góp thêm. Tuỳ theo loại hình khác nhau các ngân hàng có
vốn hình thành khác nhau, với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước vốn ban đầu do
ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng cổ phần vốn ban đầu do các cổ đông
đóng góp qua việc mua cổ phần cổ phiếu, Ngân hàng liên doanh là do các bên liên
doanh góp, ngân hàng tư nhân nguồn vốn ban đầu là của cá nhân bỏ ra (ngân hàng

gia đình). Trong quá trình hoạt động kinh doanh tiền tệ cũng giống như các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thương mại, Ngân
8
hàng giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng hoạt động làm tăng qui mô
vốn chủ sở hữu.
 Nguồn tiền gửi: Huy động vốn từ nguồn tiền gửi của khách hàng
chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Để thực hiện nghịêp vụ này ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và
thanh toán hộ cho các tổ chức, các doanh nghiệp, các cá nhân trong dân cư. Tiền
gửi thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền huy động, thông thường
nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Đặc điểm chung
nguồn tiền gửi là ngân hàng phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi
đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, với việc phải dự trữ bắt buộc làm cho chi
phí trả cho tiền gửi thường cao hơn lãi phải trả.Các ngân hàng ngày càng thực hiện
nhiều hình thức huy động để gia tăng lượng tiền gửi.
+ Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Doanh nghiệp, tổ chức, và các cá
nhân gửi tiền của họ vào ngân hàng nhằm phục vụ nhu cầu thanh toán hàng ngày.
Ngân hàng đứng ra giữ hộ và thanh toán hộ khi phát sinh việc thanh tóan dựa trên
số dư thực tế của khách hàng. Với các khoản tiền gửi thanh toán, khách hàng chí
nhận được mức lãi suất rất thấp (hoặc lãi suất bằng không) nhưng khả năng thanh
toán của họ thì luôn được đảm bảo khi có nhu cầu chi trả. Ngày nay, các ngân
hàng còn cho phép thực hiện chi trả vượt số dư của các khoản tiền gửi thanh toán
trong một giới hạn nhất định đáp ứng việc khách hàng có nhu cầu chi tiêu đột
xuất.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội: Người gửi
không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp
dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để
rút tiền. Tuy việc thanh toán không thuận lợi so với tiền gửi thanh toán nhưng tiền
gửi kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo kỳ hạn gửi tiền.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân

trong dân cư ở một thời điểm nhất định nào đó có những khoản tiền nhàn rỗi (các
khoản tiền tiết kiệm) nhưng chưa có cơ hội đầu tư hiệu quả mang lại lợi nhuận.
Trong trường hợp này lựa chọn tốt nhất là họ gửi số tiền tiết kiệm của mình vào
ngân hàng nhằm mục đích bảo toàn và sinh lời, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn bởi
9
tiền có giá trị theo thời gian một đồng ngày hôm nay lớn hơn một đồng ngày mai
do chịu ảnh hưởng của lạm phát. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,
ngân hàng đưa ra các hình thức huy động đa dạng, mức lãi suất hấp dẫn khuyến
khích dân cư không giữ tiền mặt hay vàng tại nhà mà gửi tại ngân hàng (như tiền
gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng, gửi tiết kiệm
trúng thưởng vàng hay nhận ngay tiền mặt…). Ngân hàng có thể mở cho mỗi
người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn
và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không để thanh toán tiền hàng và dịch vụ
song có thể thế chấp để vay vốn.
+ Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động vốn từ nguồn tiền gửi của các
ngân hàng khác với mục đích thanh toán hộ hoặc một số mục đích khác. Tuy
nhiên, nguồn này thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tổng vốn huy động của
ngân hàng.
 Nguồn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng
tiền gửi là nguồn huy động quan trọng nhất. Mặc dù vậy, ngân hàng thường phải
đối mặt với những tình huống phát sinh bất thường, lúc đó ngân hàng thường vay
mượn thêm. Các nguồn vay thường có thời hạn và qui mô xác định trước tạo thành
nguồn ổn định cho ngân hàng. Tuy nhiên, do mức độ rủi ro cao hơn nên lãi suất
cho tiền vay lớn hơn so với lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có cùng kỳ hạn.
Ngân hàng có thể vay NHNN, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường
vốn…
+ Vay NHNN (Vay ngân hàng TW): Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu
cầu cấp bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay NHNN với hình
thức chủ yếu là tái chiết khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại

chiết khấu trở thành tài sản của họ. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM
giảm đi và dự trữ, tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN tăng lên. Trong điều kiện chưa
có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức
tín dụng.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn
nhau hoặc vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các
10
ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản,
đáp ứng nhu cầu dử trữ và chi trả cấp bách tìm kiếm các ngân hàng khác đang có
dự trữ vượt yêu cầu do có sự gia tăng các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay
– các ngân hàng này sẽ sẵn sàng cho vay với một mức lãi suất cao.
+ Vay trên thị trường vốn: Bằng hình thức phát hành các giấy nợ như kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn ngân hàng sẽ có thể bổ sung lượng
vốn vay trung – dài hạn cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư trung dài
hạn. Tuy nhiên, việc phát phát hành các giấy nợ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phụ
thuộc vào uy tín của ngân hàng, sự phát triển của thị trường tài chính, và ngân
hàng sẽ phải chi trả cho các khoản vay một mức lãi suất cao hơn so với các khoản
vay cùng kỳ hạn thông thường do phải chịu một số khoản phí đi kèm với việc phát
hành giấy nợ.
 Các nguồn khác: Ngoài các kênh huy động kể trên, ngân hàng có
thể gia tăng lượng vốn huy động bằng một số nguồn khác như nguồn uỷ thác,
nguồn trong thanh toán,các khoản thuế chưa nộp, chậm trả lượng cho cán bộ công
nhân viên… Phần lớn các nguồn này không phải trả lãi, tuy nhiên chi phí để có và
duy trì là rất đáng kể.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Như đã phân tích ở trên, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, với lĩnh vực
kinh doanh và hàng hoá đặc biệt, ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Thu nhập của ngân
hàng chủ yếu thu được từ việc cho các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức vay
tiền. Để đảm bảo về lợi nhuận, tiền lãi thu được từ các khoản cho vay phải lớn hơn
lãi suất chi trả cho các khoản tiền mà ngân hàng phải huy động đồng thời phải bù

đắp được các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Ngoài
việc cho vay, ngân hàng còn tiến hành các hoạt động đầu tư sinh lời. Do vậy, hoạt
động sử dụng vốn của ngân hàng là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau
trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng. Cho vay và đầu tư
là hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và phát
triển của ngân hàng thương mại. Đây là các hoạt động cấu thành bộ phận chủ yếu
và quan trọng Tài sản của Ngân hàng, thành phần tài sản của Ngân hàng bao gồm:
Dự trữ, cho vay, đầu tư, và các tài sản có khác.
11
 Dự trữ: Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời
song cần được đảm bảo an toàn để giữ được lòng tin của khách hàng. Muốn có sự
tin cậy từ phía khách hàng, trước hết ngân hàng phải đảm bảo về khả năng thanh
toán: Đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy ngân hàng phải
giữ lại một tỷ lệ nhất định phần vốn huy động không sử vào các hoạt động như
cho vay hay đầu tư để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán khi có bất kỳ một nhu
cầu rút tiền nào từ phía khách hàng. Phần vốn để lại này gọi là dự trữ của ngân
hàng. Ngân hàng Nhà nước qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng
thương mại ở từng thời kỳ nhất định. Ngoài phần dự trữ bắt buộc theo qui định của
pháp luật, các ngân hàng còn thực hiện để lại phần dự trữ dôi da để tăng cường
khả năng thanh khoản của mình. Ở Việt Nam, do thị trường tài chính còn chưa
phát triển mạnh, do vậy phần dự trữ của các ngân hàng chỉ bao gồm tiền gửi tại
NHNN và lượng tiền mặt trong két, tuy nhiên ở các nước có thị trường tài chính
phát triển mạnh như Mỹ, Anh, Nhật… ngoài lượng tiền mặt trong két và tiền gửi
tại Ngân hàng TW, phần dự trữ của các ngân hàng còn bao gồm các chứng khoán
có độ thanh khoản cao mà các NHTM nắm giữ như tín phiếu kho bạc, và các
chứng khoán do Chính phủ phát hành.
 Hoạt động cho vay: Cho vay là hoạt động đặc trưng của các
NHTM, cho vay hay tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu
tài sản của Ngân hàng. Hoạt động cho vay mang lại phần lớn thu nhập cho ngân
hàng. Hoạt động cho vay của ngân hàng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác

nhau như theo thời hạn cho vay, phân chia theo tài sản đảm bảo, phân chia theo
ngành kinh tế và theo mức độ rủi ro.
+ Theo thời hạn cho vay hoạt động cho vay của ngân hàng được chia thành
cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn có
thời hạn cho vay nhỏ hơn 12 tháng, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm, cho vay dài hạn có thời hạn trên 5 năm. Tỷ trọng của từng loại là khác nhau,
thông thường tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao hơn cho vay trung – dài hạn do cho
vay trung dài hạn có rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn, thời gian
quay vòng vốn lâu hơn so với cho vay ngắn hạn.
12
+ Theo tài sản đảm bảo hoạt động cho vay của ngân hàng được chia thành
cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố và cho vay không có tài sản
đảm bảo (cho vay tín chấp). Thông thường ngân hàng có quyền quản lý các tài sản
của khách hàng thế chấp để đảm bảo cho các khoản cho vay, giá trị của các khoản
cho vay thường thấp hơn giá trị của tài sản đảm bảo. Khi xảy ra rủi ro đối với
khoản cho vay, khách hàng không thể hoàn trả lại số tiền tiền vay, ngân hàng có
quyền bán tài sản để thu hồi nợ xấu. Để hạn chế rủi ro, ngân hàng yêu cầu khách
hàng mua bảo hiểm cho tài sản thế chấp khi ký kết hợp đồng tín dụng. Ngoài ra,
ngân hàng còn thực hiện việc cho vay mà không đòi hỏi khách hàng phải thế chấp
tài sản hay cầm cố sổ tiết kiệm đối với các khách hàng quen thuộc và tin cậy, đây
là hình thức cho vay tín chấp, các khoản vay được đảm bảo bằng uy tín và mối
quan hệ của khách hàng vay tiền với ngân hàng. Thường ngân hàng rất hạn chế
việc cho vay tín chấp, do vậy loại này thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
+ Theo ngành kinh tế được phân chia theo đối tượng khách hàng trong các
ngành nghề kinh tế khác nhau, bao gồm: Cho vay sản xuất kinh doanh công
nghiệp, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay đối với các ngành nghề sản xuất
kinh doanh thương mại và dịch vụ. Tỷ trọng của từng loại là khác nhau ở những
thời điểm khác nhau phụ thuộc vào định hướng chính sách của ngân hàng ở thời
kỳ đó.
+ Theo mức độ rủi ro các khoản vay bao gồm khoản có độ rủi ro thấp, trung

bình, và cao. Việc phân loại theo tiêu thức rủi ro, giúp ngân hàng quản lý tốt hơn
các khoản cho vay hạn chế được rủi ro tín dụng.
 Hoạt động đầu tư: Để đa dạng hoá danh mục tài sản sinh lời, ngoài
hoạt động cho vay là hoạt động chính ngân hàng còn tìm kiềm các cơ hội đầu tư,
thực hiện đầu tư vào nhiều loại sản khác nhau với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và
một số mục đích khác.
+ Đầu tư chứng khoán: Với mục tiêu thanh khoản, đa dạng dạng hoá tài sản
và mục đích lợi nhuận, ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán khác nhau.
Chứng khoán của Chính phủ do KBNN phát hành bao gồm: Chứng khoán ngắn
hạn, Chứng khoán trung và dài hạn. Xét về tính thanh khoản, đây là loại chứng
khoán có độ thanh khoản cao nhất, ít rủi ro nhất đồng thời là loại tài sản có tính
13
sinh lời thấp nhất. Với đặc điểm như vậy, Chứng khoán của Chính phủ được ngân
hàng nắm giữ vì mục tiêu thanh khoản và là tài sản đệm cho ngân quỹ, như đã
trình bày ở trên do thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự phát triển nên việc
coi chứng khoán do Chính phủ phát hành là tài sản bổ sung ngân quỹ còn nhiều
hạn chế. Chứng khoán của các ngân hàng khác, của các công ty tài chính và các
công ty khác bao gồm cổ phiếu và các giấy nợ do các tổ chức này phát hành có thu
nhập cao hơn, tuy nhiên mức độ rủi ro của các loại này cũng rất cao. Xét về tính
sinh lời, đây là những loại hấp dẫn thu hút sự đầu tư của các ngân hàng.
+ Đầu tư bất động sản: Đầu tư vào bất động sản luôn chứa đựng rất nhiều rủi
ro, do vậy việc đầu tư này của các ngân hàng thương mại chịu sự giám sát quản lý
rất chặt chẽ của NHNN. Do tính rủi ro của việc đầu tư vào bất động sản là rất lớn
ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản của ngân hàng nên việc đầu tư bất động
sản luôn chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tổng tài sản của ngân hàng, để thực hiện
việc đầu tư đòi hỏi ngân hàng phải có một đội ngũ cán bộ, chuyên viên có năng
lực, nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
+ Đầu tư liên kết (góp vốn): Ngân hàng có thể tham gia góp vốn với các tổ
chức khác như các ngân hàng, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm và các công
ty khác.

 Tài sản có khác: Bao gồm nhà cửa và trang thiết bị của ngân hàng
phục vụ cho quá trình kin doanh của ngân hàng và cho thuê, các khoản ứng trước
cho cán bộ công nhân viên,… Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản song các
tài sản này ảnh hưởng tới vị thế, năng suất lao động của ngân hàng
1.1.2.3. Hoạt động trung gian
Nói đến ngân hàng là nói đến một tổ chức tài chính với một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất đối với
nền kinh tế quốc dân. Nói chung, các ngân hàng thu lợi bằng cách bán những tài
sản nợ có một số đặc tính về tính lỏng, rủi ro, lợi tức và dùng tiền thu được để mua
những tài sản có một số đặc trưng khác. Như thế, ngân hàng cung cấp một dịch vụ
chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Quá trình
chuyển các tài sản và cung cấp một loạt dịch vụ (thanh toán, ghi chép sổ sách,
phân tích tín dụng,…) giống bất cứ quá trình sản xuất nào khác. Nếu ngân hàng
14
tạo ra dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ vào tài sản
có thì sẽ thu được lợi nhuận ngược lại, nếu doanh thu từ các tài sản thấp hơn mức
chi phí ngân hàng bỏ ra để duy trì các dịch vụ của mình thì sẽ chịu tổn thất. Với
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và một số mục đích khác, ngoài hai hoạt động cơ
bản là huy động và sử dụng vốn, ngân hàng còn thực hiện nhiều hoạt động trung
gian khác.
+ Hoạt động bảo lãnh: Khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách
hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có
uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thanh
toán hộ cho khách hàng cùng một mức phí mà bên phía khách hàng phải chi trả
cho ngân hàng để đảm bảo cho cam kết này. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng
ngày càng đa dạng và phát triển, ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của
mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các
tổ chức tín dụng khác, bảo lãnh về cam kết thanh toán khi khách hàng ký kết các
hợp đồng kinh tế…
+ Môi giới đầu tư chứng khoán: Với mục tiêu cung cấp đầy đủ và hữu ích

các dịch vụ tài chính đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, ngân hàng thực hiện
việc môi giới chứng khoán, cung cấp thông tin cho khách hàng về các cơ hội kinh
doanh chứng khoán mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Với
lý do đó, ngày các có nhiều các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng
khoán thuộc sở hữu của các ngân hàng. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các
ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lí tài chính, đây là một điều kiện bảo
đảm cho hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng và hoạt động tư vấn tài chính
nói chung của ngân hàng.
+ Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện nhiều hoạt động khác như kinh doanh
ngoại tệ, hoạt động Leasing – cho thuê thiết bị trung và dài hạn,cung cấp dịch vụ
bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, bảo quản vật có giá…
15
1.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
 Khái niệm:
Doanh nghiệp: Theo khoản 1 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp
là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
DNVVN: Theo định nghĩa DNVVN tại nghị số 90/2001/NĐ-CP ngày
23/11/2001 của Chính phủ thì DNVVN là khái niệm dùng để chỉ tập hợp các chủ
thể kinh doanh bao gồm doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp và
hợp tác xã thành lập theo luật HTX, hộ kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành có vốn điều lệ không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động không
quá 300 người.
 Đặc điểm của DNVVN:
Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay thường hoạt động với mục
tiêu hướng nội, trong một phạm vi không gian rất nhỏ nên trình độ quản lý, quản
trị doanh nghiệp thường khá yếu kém. Kỹ năng sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa

vào kinh nghiệm bản thân hoặc gia đình. Vì vậy khả năng lập kế hoạch kinh doanh
tổ chức và triển khai hoạt động sản xuất còn mang tính chất tự phát. Mỗi khi có sự
thay đổi về môi trường kinh doanh, bộ phận doanh nghiệp này sẽ gặp nhiều khó
khăn để thích ứng.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa
học công nghệ thì trình độ khoa học kỹ thuật của phần lớn doanh nghiệp vừa và
nhỏ đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 20-50 năm so với các nước trong khu vực.
Do vậy sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghiệp thấp, hàm lượng chất xám
ít, giá trị thương mại và sức mạnh cạnh tranh kém so với các sản phẩm cùng loại
của các quốc gia trong khu vực cũng như thế giới. Bên cạnh đó, do hạn chế về vốn
nên khả năng quảng bá, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn chưa xác lập được kênh bán
16
hàng nên các sản phẩm làm ra vừa phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong
nước vừa phải cạnh tranh với các hàng hóa nhập khẩu.
Phần lớn các DNVVN đều thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin kinh doanh.
Những nguồn thông tin về thị trường đầu vào như thị trường vốn, thị trường lao
động, thị trường nguyên vật liệu Bên cạnh đó, những thông tin về môi trường
kinh doanh như hệ thống pháp luật, các văn bản liên quan đến doanh nghiệp vừa
và nhỏ, thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng chưa được cập nhật nên dẫn tới hậu quả
là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh theo kiểu “thầy bói xem
voi” nên bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh.
Bên cạnh những yếu kém từ phía chủ quan của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
còn phải kể đến những yếu tố khách quan kìm hãm sự phát triển của bộ phận
doanh nghiệp này. Đầu tiên phải kể đến là vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở nhiều nơi vẫn còn bị đối xử bất
bình đẳng trong các quan hệ giao dịch về đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn, hệ
thống thông tin thị trường Vấn đề vốn hiện nay được coi là bức xúc nhất. Hầu
hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có nhu cầu vay vốn để đầu tư trang thiết bị

khoa học kỹ thuật nhưng đều vướng phải những hàng rào khó vượt qua về tài sản
thế chấp nên rất khó tiếp cận các nguồn vốn vay. Nhằm tháo gỡ những khó khăn
về vấn đề này, bộ tài chính đã có nhiều văn bản nhằm hỗ trợ tài chính cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng như trình thủ tướng
Chính phủ ban hành quyết định số 193/2001/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế
thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng; ban hành thông tư số
42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 hướng dẫn một số điểm quy chế thành lập tổ
chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện
nay, quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như chưa được
triển khai thành lập ở các địa phương. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do hầu hết
các địa phương đều không huy động được nguồn vốn để đóng góp 30% vốn điều
lệ hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng. Mặt khác, ngân hàng cũng không mặn mà với
việc góp vốn vào quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ do
không đủ hấp dẫn về lợi ích. Do vây, các tổ chức tín dụng này cũng ít quan tâm
17
đến việc tham gia đóng góp để hình thành 70% quỹ bảo lãnh tín dụng cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về vấn đề mặt bằng sản xuất, hiện nay đại đa số các doanh nghịêp dân doanh
vẫn đang phải tự xoay xở tìm kiếm đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, làm
tăng chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Để có mặt bằng kinh doanh, doanh nghiệp
phải “mua lại” đất của ngừơi khác bao gồm cả tiền đền bù giải phóng mặt bằng, tự
san lấp mặt bằng kinh doanh, thuê lại mặt bằng đã mua với các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền Các chương trình trợ giúp thông tin, trợ giúp đào tạo nguồn nhân
lực, trợ giúp xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đã được
các Bộ ngành, địa phương tổ chức triển khai nhưng nhìn chung kết quả đạt được
còn rất khiêm tốn. Điều quan trọng nhất là nhận thức của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ về việc tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế còn rất hạn chế. Nếu các doanh nghiệp này không nhanh chóng chuyển đổi thì
sẽ không bắt kịp với quá trình hội nhập, có nguy cơ tụt hậu
1.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với

DNVVN
 Quan điểm về tín dụng và cho vay:
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng và cho vay, đã có nhiều người
nhầm lẫn cho rằng cho vay và tín dụng là một, tuy nhiên Theo luật các tổ chức tín
dụng (2004) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động tín dụng ở
phạm vi rộng hơn bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và
một số hoạt động khác do ngân hàng Nhà nước quy định. Thuật ngữ “tín dụng”
xuất phát từ chữ Latinh “CREDITIUM” với nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm, trong từ
điển tiếng Việt (1997) thì tín dụng được định nghĩa là sự vay mượn vật tư, tiền mặt
hàng hoá. Theo K.Marx: Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Theo luật các Tổ chức tín dụng (2004):
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Từ việc phân tích trên
nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng và cho vay ta có một khái niệm tổng quát
18
nhất về tín dụng và cho vay ngân hàng:
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa một bên là ngân hàng với
một bên là tất cả các tổ chức, các nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò
vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người cho vay, ngân
hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi thiếu vốn có
nhu cầu vốn để bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
- Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một
khoản chi phí nhất định. Trong nghiệp vụ này luôn chứa đựng ba nội dung:
* Thứ nhất, có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu
sang người sử dụng
* Thứ hai, sự chuyển nhượng này có thời hạn
* Thứ ba, sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí

Khi nền kinh tế càng phát triển thì nghiệp vụ cho vay càng được các ngân
hàng quan tâm và mở rộng dưới nhiều hình thức. Nghiệp vụ cho vay có thể phân
chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo những tiêu thức phân loại khác nhau.
 Vai trò của hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối
với DNVVN:
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp
khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử
dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu
hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng,nó chẳng những thúc đẩy sự phát
triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân
hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng,
thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét một số vai trò sau:
+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ được diễn ra liên tục.
19
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến
kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại
đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp
nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng
của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua
sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy
tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp
đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các
điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do

đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có phương
án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm
cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất
lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải
ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản
xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy tài chính để doanh
nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do
hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp
vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để
hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là
nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức chi phí vốn bình
quân rẻ nhất.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
20
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và
đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc
biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế nhất định, việc
chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước
ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là
tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị
kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn
đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì
phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không
còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể
tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh

nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh
doanh.
1.2. 3. Các hình thức cho vay của NHTM đối với DNVVN
 Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay mà mỗi lần vay khách
hàng phải làm các thủ tục cần thiết (lập hồ sơ vay vốn, ngân hàng thẩm định xét
duyệt cho vay…) và ký kết hợp đồng tín dụng. Khi có nhu cầu khách hàng đến
ngân hàng xin vay một khoản tiền cho mục đích sử dụng của mình như thanh toán
tiền mua hàng hoá, nguyên vật liệu và các chi phí sản xuất kinh doanh khác.
Phương pháp này áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không
thường xuyên hoặc ngân hàng thấy cần thiết phải áp dụng phương pháp cho vay
này để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay được chặt chẽ. Số tiền vay
của ngân hàng được xác định căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng, giá trị tài
sản đảm bảo và khả năng hoàn trả của khách hàng, khả năng nguồn vốn của ngân
hàng và giới hạn cho vay theo qui định của pháp luật.
Thời hạn cho vay và số kỳ hạn trả nợ được xác định tuỳ thuộc vào đặc
điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng, nguồn trả nợ trong giai đoạn vay.
Trong hợp đồng tín dụng khách hàng có thể vay vốn làm nhiều lần tuỳ theo tiến độ
hoặc nhu cầu sử dụng thực tế. Khi rút vốn vay khách hàng phải lập bảng kê rút
vốn theo mẫu của ngân hàng quy định và được ngân hàng chấo nhận, số tiền ngân
hàng duyệt rút vốn là khoản nợ chính thức của lần rút vốn đó. Việc trả nợ được
21
thực hiện theo lịch trả nợ đã được ghi trong hợp đồng tín dụng, bất cứ khoản nợ
nào khi đến hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký khách hàng phải chủ động trả nợ
cho khách hàng, nếu không ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khỏan tiền gửi của khách
hàng để thu nợ hoặc khách hàng bị phạt quá hạn nếu không có tiền trả nợ cho
khoản nợ đến hạn. Đây là hình thức cho vay phổ biến của Ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, những khách hàng sử dụng vốn
chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt
mới vay ngân hàng, tức vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất
định của chu kỳ sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Mỗi món vay được tách

biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
 Cho vay theo hạn mức: Là hình thức của ngân hàng áp dụng cho
những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, vốn vay tham gia thường
xuyên vào quá trình quá trình sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hạn mức là hình
thức tín dụng ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn
mức này có thể được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đối với hình thức này ngân hàng
không xác định kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng. Dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất
kinh doanh , nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng ngân hàng xác định
hạn mức tín dụng thích hợp cấp cho phía khách hàng. Khách hàng có thể thực hiện
vay – trả nhiều lần trong kỳ nhưng phải đảm bảo yêu cầu dư nợ không được vượt
quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kỳ, dư
nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, tuy nhiên đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ
để giảm dư nơ sao cho dư nợ cuối kỳ phải nhỏ hơn hạn mức tín dụng được cấp.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Ngân hàng
nhận chứng từ do khách hàng cung cấp, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các
chứng từ và nếu đảm bảo sẽ tiến hành giải ngân, phát tiền theo yêu cầu của khách
hàng. Với thủ tục đơn giản với nhiều lần vay mượn, đây là hình thức cho vay
thuận tiện cho những khách hàng có nhu cầu vay mượn thường xuyên tại ngân
hàng để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
 Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên quá trình
luân chuyển hàng hoá của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường xuyên thiếu
22
vốn khi mua hàng hoá, nguyên vật liệu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh,
trong trường hợp này khách hàng có thể làm đơn để vay vốn ngân hàng và hoàn
trả nợ khi bán được hàng. Đầu năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin
vay luân chuỷên. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức
cho vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
Khi vay, khách gửi tới ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần
vay. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp hợp lệ

đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập từ bán hàng
đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho người
bán theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng hàng hoá, quan hệ nợ
nần của người vay với ngân hàng. Tài sản đảm bảo cho khoản vay chính là các
khoản phải thu và hàng hóa trong kho của khách hàng. Cho vay luân chuyển
thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp kinh doanh thương mại-
dịch vụ và các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho
khách hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay, khách hàng
được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ
nhanh gọn.
 Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức tín dụng ngân hàng cho
khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
dịch vụ, căn cứ vào dự án đầu tư mà khách hàng trình lên ngân hàng sẽ quyết định
lượng vốn cho khách hàng vay bao nhiêu, thời hạn vay trong bao lâu và hình thức
giải ngân như thế nào là hợp lí vừa đảm bảo cung cấp đủ vốn cho khách hàng vừa
quản lí được nguồn vốn của mình một cách hiệu quả nhất. Rủi ro của các khoản
cho vay theo phương thức này là rất lớn và ngân hàng thường cho vay chọn một
dự án mà chưa có kết quả nó mới chỉ là bước đầu đi vào xây dựng, nếu như một
dự án khả thi ngân hàng sẽ có cơ hội thu hồi vốn tốt nhưng nếu như dự án đó là
không khả thi ngân hàng không có cơ hội thu hồi vốn, khả năng mất vốn của ngân
hàng là rất cao, đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự suy giảm của
ngân hàng.
23
 Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng thường được áp dụng đối
với các khoản vay trung – dài hạn, các khoản vay tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng lâu bền của doanh nghiệp với lượng vốn vay lớn. Theo hình thức cho vay
này, ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng
đã thoả thuận, hay cụ thể hơn gốc và lãi được thanh toán làm nhiều lần trong kỳ
(tiền lãi được tính dựa trên số dư nợ gốc của kỳ thanh toán). Số tiền trả mỗi lần

được tính sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ưu điểm của hình
thức cho vay này là tạo cho món vay có tính thanh khoản cao từ đó có thế làm
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng vì kì hạn trung bình của khoản vay nhỏ hơn kì hạn
danh nghĩa mà ngân hàng đồng ý cho khách hàng vay.
 Cho vay thấu chi: Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn ngân hàng
cho phép khách hàng được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định – giới hạn này được gọi
là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn
cấp cho mình hạn mức thấu chi và thời hạn thấu chi cùng khoản phí cam kết phải
trả cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động khách hàng có thể ký Sec, lập uỷ
nhiệm chi, mua thẻ Sec… vượt qua số dư tiền gửi để chi trả trong hạn mức thấu
chi được cấp, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi khi khách hàng có tiền nhập về tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng.
1.3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với DNVVN
1.3.1. Quan điểm về mở rộng hoạt động cho vay
Hoạt động chủ yếu của các NTM là tài trợ cho khách hàng trên có sở tín
nhiệm (tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của ngân hàng thương mại là
cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá,
nguyên nhiên vật liệu sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho
vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng hàng hoá lưu kho.
Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịch vụ
cung cấp, đa dạng hoá các hình thức tín dụng như cho vay ngắn hạn, trung và dài
hạn, bảo lãnh cho khách hàng, cho thuê tài sản và thiết bị, cung cấp dịch vụ bảo
hiểm… Cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản của ngân
hàng, doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ là các chỉ tiêu dùng để định
24
lượng hoạt động cho vay của ngân hàng. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền
mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ, dư nợ cuối kỳ là số tiền hiện ngân hàng còn
cho vay vào thời điểm cuối kỳ của kỳ hoạch toán. Cho vay còn là hoạt động có
những thay đổi đầu tiên trong chính sách mở rộng tín dụng của ngân hàng. Tương

tự như chính sách mở rộng tín dụng, mở rộng hoạt động cho vay là việc xây dựng
và thực hiện các chính sách đúng đắn, không ngừng đa dạng hoá các hình thức cho
vay, cùng với tăng quy mô cho vay qua từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu và
thị hiếu của khách hàng. Và để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc
vay vốn trog chính sách mở rộng hoạt động cho vay của mình các ngân hàng ngày
càng quan tâm hơn đến vấn đề giảm nhẹ, đơn giản hoá các thủ tục linh hoạt hơn
trong việc xét duyệt cho vay. Là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho các
ngân hàng, tuy nhiên cho vay cũng chứa đầy những rủi ro mà ngân hàng phải đối
mặt. Do vậy, đi đôi với tăng quy mô cho vay, thúc đẩy mở rộng cho vay ngân
hàng cần phải chú ý nâng cao chất lượng, tính hiệu quả của các khoản cho vay,
giảm thiểu rủi ro tới mức thấp nhất, tạo sự an toàn cao cho các khoản cho vay.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động cho vay
Theo quan điểm đã phân tích ở trên, mở rộng hoạt động cho vay được phản
ánh bởi hai chỉ tiêu, bao gồm: Sự đa dạng các hình thức và các sản phẩm cho vay
và sự tăng lên dư nợ cho vay của ngân hàng qua các thời điểm, các thời kỳ. Trong
phạm vi bài viết xin chỉ được trình bày về các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt
động cho vay đối với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 Sự đa dạng của các hình thức và sản phẩm cho vay:
Ngân hàng cho vay đối với các nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, đầu tư phát triển, … trừ những đối tượng mà pháp luật cấm.Tất cả các doanh
nghiệp có nhu cầu vốn hợp lý đều có thể được Ngân hàng đáp ứng với nhiều hình
thức vay vốn để lựa chọn, chi phí vốn hợp lý, thủ tục vay vốn nhanh chóng thuận
tiện, được tư vấn, hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo và chuyên nghiệp mà không cần
trả thêm bất cứ một khoản chi phí nào. Ngân hàng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn
lưu động thường xuyên của khách hàng trong cả một chu kỳ kinh doanh, từ đó
giúp ổn định nguồn tài chính và tăng tính chủ động trong việc lập kế hoạch hoạt
25

×