Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU-GP BANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.94 KB, 28 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU-GP BANK
2.1. Tổng quan về NHTMCP Dầu khí - GP Bank
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển NHTMCP Dầu khí - GP Bank
Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu, tiền thân là ngân hàng TMCP nông
thôn Ninh Bình, được thành lập ngày 13 tháng 11 năm 1993 theo quyết định số
216 ngày 13 tháng 11 năm 1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngày 7/11/2005, ngân hàng chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động từ
một ngân hàng nông thôn sang ngân hàng đô thị, với tên gọi là ngân hàng
TMCP Toàn Cầu (GP bank) với vốn điều lệ đạt 135 tỷ đồng.
Ngày 8/11/2006, khai trương Gp-bank và công bố cổ đông chiến lược
PETRO VIET NAM.
Từ một tổ công tác Hà Nội chưa đầy 10 thành viên tháng 11/2005, đến
nay toàn ngân hàng có khoảng hơn 800 cán bộ nhân viên công tác tại hội sở
chính và 9 chi nhánh cùng với 35 phòng giao dịch trên toàn quốc tại các tỉnh,
thành phố kinh tế trọng điểm: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Ninh Bình,
Vũng Tàu, Đà Nẵng… Theo thời gian, GP-Bank đã khẳng định sự trưởng thành
và tạo những ấn tượng tốt đẹp về sự có mặt của mình trên thị trường tài chính-
tiền tệ Việt Nam.
GP-bank là một trong hai ngân hàng đầu tiên đã triển khai thành công phần
mền hệ thống ngân hàng lõi T24 ( Core Banking ) của hãng Temenos (Thụy Sỹ )
nhằm cải tiến các dịch vụ trực tuyến, phản hồi nhanh các yêu cầu của khách hàng
cũng như cải thiện chất lượng dịch vụ. Hiện nay GP-bank đang triển khai nâng cấp
phần mền ngân hàng lõi ( core banking ) T24 lên phiên bản R8 - phiên bản mới
nhất, T24-R8 giúp cho ngân hàng tối ưu hóa được các quy trình hoạt động trong
khi vẫn duy trì được sự linh hoạt trước các thay đổi trong kinh doanh.
Là một ngân hàng mới, GP-bank có những thế mạnh cũng như lợi thế nhất
định. Với cơ cấu gọn nhẹ, tính chuyên nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao, đội ngũ
nhân viên năng động, sáng tạo, kinh nghiệm, chuyên môn đào tạo tốt, GP-Bank
hứa hẹn là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầy tiềm năng
Việt Nam.


Với cổ đông chiến lược là tập doàn Dầu khí Việt Nam – một trong những tập
đoàn hùng mạnh nhất Việt Nam, sứ mệnh của GP- Bank không chỉ là làm tốt vai
trò ngân hàng của một tập đoàn hùng mạnh bao gồm nhiều tổng công ty mà còn
phải hoàn thành vai trò của một tổ chức tín dụng trong hệ thống các NHTM
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu
BAN GIÁM ĐỐC
Khối kinh doanh
Khối đầu tư
Khối nguồn vốn
Trung tâm xủ lý giao dịch
Khối hành chính sự nghiệp
Phòng hành chính
Ban dự án
Phòng tín dụng
Phòng đầu tư
Phòng nguồn vốn
Phòng thanh toán
Phòng kế toán
Phòng tái thẩm định
Phòng tài chính kế toán
Phòng thẻ
Phòng IT
Phòng GD khách hàng
Phòng KS nội bộ
Phòng PR
Phòng nhân sự
Phòng kế hoạch
Phòng đào tạo
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu gồm có các
phòng sau:

2.1.3. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP Dầu khí
toàn cầu.
Năm 2009, mặc dù tình hình kinh tế xã hội và thị trường tài chính tiền tệ
trong và ngoài nước có những biến động phức tạp khó lường, gây nên những
khó khăn và bất lợi cho hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân
hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu (GP Bank) nói riêng, nhưng Ban lãnh đạo và cán
bộ GP.Bank đã có nhiều cố gắng, đề ra chiến lược và định hướng đúng trong
hoạt động kinh doanh, tập trung mọi nguồn lực để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt
động tốt, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, tạo điều kiện cho Ngân hàng phát
triển bền vững.
Trong thời gian qua, với định hướng kinh doanh đúng đắn, hoạt động của
GP Bank đã đạt được những kết quả toàn diện: nguồn vốn huy động tăng trưởng
đều và ổn định, tín dụng tăng trưởng ổn định, hoạt động kinh doanh tốt, hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển mạnh, không ngừng mở rộng mạng lưới chi
nhánh trên toàn quốc... Với những kết quả đạt được, GP Bank đang hướng tới
sự phát triển bền vững trong tương lai.
2.1.3.1. Tình hình huy động vốn.
Huy động vốn là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược kế hoạch kinh
doanh (sử dụng vốn) trong ngắn hạn, trung han và dài hạn. Vì thế, huy động vốn
có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động, GP Bank đã và đang
đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đưa ra lãi suất huy động hấp dẫn nhằm
thu hút thêm ngày càng nhiều khách hàng, tạo ra nguồn vốn ổn định từ dân cư.
Ta có thể thấy cụ thể tình hình huy động vốn của GP Bank qua bảng sau:
BẢNG 2.1 : TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP GP BANK
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 2008/2007 2009/2008
Số dư Tỷ
trọng
(%)

Số dư Tỷ
trọng
(%)
Số dư Tỷ
trọng
(%)
Tuyệt
đối
% Tuyệt
đối
%
1.Tổng nguồn vốn
huy động
2702 100 4084 100 8215 100 1382 51,15 4131 101,2
Tiền gửi thanh toán 805 29,79 1250 30,61 2756 33,55 445 55,28 1506 120,5
Tiền gửi tiết kiệm 1897 70,21 2834 69,39 5459 66,45 937 49,39 2625 92,63
2. Phân loại theo tính chất nguồn vốn
Tiền gửi cá nhân cà
các TCKT
1712 63,91 2311 56,58 5239 63,77 599 34,98 2928 126,7
Tiền gửi của TCTD 975 36,09 1773 43,42 2976 36,23 798 81,84 1203 67,85
3. Phân loại theo nội tệ, ngoại tệ
Tiền gửi nội tệ 1950 72,17 3128 76,59 6941 84,49 1178 60,41 3813 121,9
Tiền gửi ngoại tệ 752 27,83 956 23,41 1274 15,1 204 27,71 318 33,26
( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của GP Bank 2007 – 2009 )
Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy được nguồn vốn huy động của GP Bank tăng
dần qua các năm.
Tính đến 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng ước đạt
2.702 tỷ đồng. Trong đó huy động tiền gửi tiết kiệm 1.897 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 70,21% tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi thanh toán 805 tỷ đồng chiếm

29,79% trong tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2008, tổng nguồn huy động là 4084 tỷ đồng, tăng 51,15% so với
mức vốn huy động được cuối năm 2007. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm đạt 2.834
tỷ đồng, tăng 49,39% so với cuối năm 2007. Huy động từ tiền gửi thanh toán
1250 tỷ đồng, tăng 55,28% so với năm 2007. Về cơ cấu nguồn vốn huy động,
tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng 30,61%, tiền gửi tiết kiệm chiếm 69,39%
trong tổng nguồn vốn huy động. Như vậy so với năm 2007, nguồn vốn huy
động của ngân hàng đã có sự tăng trưởng mạnh.
Tổng vốn huy động tại ngân hàng đến cuối năm 2009 đạt 8215 tỷ đồng,
tăng 101,15% so với năm 2008. Trong đó tiền gửi thanh toán ước đạt 2756 tỷ
đồng, tăng 120,48% so với năm 2008. Tiền gửi tiết kiệm 5459 tỷ đồng, tăng
92,63% so với năm 2008. Về cơ cấu vốn huy động, tỷ trọng tiền gửi thanh toán
là 33,55%, tiền gửi tiết kiệm là 66,45%. Từ những con số trên cho thấy GP
Bank ngày càng chú trọng đến công tác huy động vốn, uy tín của ngân hàng
cũng không ngừng tăng lên với khách hàng.
Qua bảng 2.1 ta nhận thấy nguồn vốn huy động tăng trưởng khá mạnh
qua các năm. Tiền gửi cá nhân và các tổ chức kinh tế tăng trưởng khá đều và ổn
định. Năm 2008, tiền gửi của khách hàng đạt 2311 tỷ đồng, tăng 34,98% so với
năm 2007. Đến cuối năm 2009, tiền gửi của khách hàng đạt 5239 tỷ đồng, tăng
126,7%. Tuy nhiên, trong cơ cấu nguồn vốn thì nguồn vốn huy động được từ
các tổ chức tín dụng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Cụ thể, năm 2008 tiền gửi của
các TCTD là 1773 tỷ đồng, chiếm 43,42% tổng nguồn vốn, tăng 81,84% so với
năm 2007. Đến cuối năm 2009, tiền gửi của các TCTD ước tính 2976 tỷ đồng,
chiếm 36,23% tổng nguồn vốn, tăng 67,85% so với năm 2008. Việc tiền gửi của
các TCTD chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn và tăng trưởng khá
mạnh có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bởi đây
là một nguồn vốn có tính ổn định kém.
Tổng nguồn vốn huy động tăng qua các năm, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm
tăng nhanh chóng. Đây được đánh giá là thành tích của ngân hàng trong việc
huy động vốn. Đồng thời với việc mặt bằng lãi suất gần đay có xu hướng tăng

cùng với sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các NHTM, cũng là nguyên nhân thu hút
nguồn tiền gửi vào ngân hàng tăng nhanh.
Trong cơ cấu huy động vốn, nội tệ luôn chiếm tỷ trọng cao hơn ngoại tệ.
Nguyên nhân của hiện tượng này cũng là do tác động của nền kinh tế trong
những năm qua khiến tỷ giá đồng USD biến động mạnh. Việc duy trì tỷ lệ ngoại
tệ thấp nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.1.3.2. Hoạt động cho vay.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh mang lại nguồn thu chính cho ngân
hàng. Đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vững, ngân hàng luôn đặt ra mục
tiêu mở rộng quy mô cho vay để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng cao của
DNV&N đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro tới mức thấp
nhất.
BẢNG 2.2. DƯ NỢ CHO VAY THEO KỲ HẠN
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 2008/2007 2009/2008
Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Tuyệt
đối
% Tuyệt
đối
%
Tổng dư nợ 1941 100 3110 100 5963 100 1169 60,23 2853 91,74
Dư nợ ngắn
hạn
1102 56,77 1963 63,12 3216 53,93 861 78,13 1253 63,83
Dư nợ trung
dài hạn
893 43,23 1147 36,88 2747 46,07 308 36,71 1600 139,49
( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của GP Bank 2007 – 2009 )
Từ bảng 2.2 ta có thể thấy hoạt động cho vay của ngân hàng đã đạt được
những thành tích không nhỏ. Năm 2007, tổng dư nợ là 1941 tỷ đồng, trong đó

dư nợ ngắn hạn là 1102 tỷ đồng, chiếm 56,77% trong tổng dư nợ. Dư nợ trung
dài hạn là 839 tỷ đồng, chiếm 43,23% tổng dư nợ. Năm 2008, tổng dư nợ là
3110 tỷ đồng, tăng 60,23% so với năm 2007. Trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 1963
tỷ đồng, tăng 78,13% so với năm 2007. Dư nợ trung dài hạn đạt 1147 tỷ đồng,
tăng 36,71% so với năm 2007. Về cơ cấu, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm
63,12% tổng dư nợ, trong khi đó, dư nợ trung dài hạn chiếm 36,88% tổng dư
nợ.
Đến cuối năm 2009, tổng dư nợ đạt 5963 tỷ đồng, tăng 91,74% so với
năm 2008. Dư nợ ngắn hạn 3216 tỷ đồng, tăng 63,83% so với năm 2008. Dư nợ
trung dài hạn 2747 tỷ đồng, tăng 139,49% so với năm 2008. Như vậy tổng dư
nợ không ngừng tăng lên qua các năm, cho thấy quy mô hoạt động tín dụng của
ngân hàng đang được mở rộng, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trên thị trường
ngày càng cao.
Sự tăng trưởng của tổng dư nợ, đặc biệt là của dư nợ trung dài hạn tại GP
Bank phù hợp với nhu cầu về vốn trên thị trường và xu thế pfát triển của nền
kinh tế. Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự gia nhập
của những doanh nghiệp nước ngoài càng làm cho môi trường cạnh tranh giữa
các DNV&N trở nên khắc nghiệt hơn. Để có thể tồn tại được các DNV&N phải
không ngừng cải tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì thế nhu cầu vay vốn
trung dài hạn để tiến hành đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng, mở rộng sản
xuất kinh doanh của các DNV&N ngày càng lớn. Việc đáp ứng nhu cầu vay vốn
trung dài hạn giúp ngân hàng tạo được nguồn thu lớn, mở rộng quy mô tín dụng,
giảm ứ đọng vốn dư thừa dự trữ, tăng hiệu quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh
và uy tín của ngân hàng.
2.1.3.3. Các hoạt động kinh doanh khác.
Ngoài hoạt động tín dụng, GP Bank còn tham gia nhiều hoạt động kinh
doanh khác.Từ đó làm tăng doanh thu, hoàn thành kế hoạch về lợi nhuận, nâng
cao cạnh tranh và uy tín cho ngân hàng.
* Về hoạt động thanh toán quốc tế: Chức năng của phòng thanh toán quốc
tế tại ngân hàng bao gồm:

+ Mở L/C, thông báo L/C xuất khẩu, nhờ thu xuất khẩu: 30,1 triệu USD
quy đổi
+ Chuyển tiền đi, thanh toán L/C nhập khẩu, nhờ thu nhập khẩu: 89,4
triệu USD quy đổi
+ Nhận tiền về, thanh toán L/C xuất khẩu, nhờ thu xuất khẩu: 9,6 triệu
USD quy đổi
+ Dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union: 1,6 triệu USD và 3,4 tỷ
VND
Năm 2009, GP.Bank đã triển khai dịch vụ chuyển tiền Western Union tại
35 điểm giao dịch trên toàn hệ thống GP.Bank với doanh thu năm 2009 đạt 155
triệu đồng, chiếm gấp 1,24 lần so với năm 2008. Số lượng tài khoản Nostro ở
nước ngoài là 08 tài khoản với các loại ngoại tệ chủ yếu USD, EUR, JPY, SGD.
Dự kiến Ngân hàng sẽ mở thêm các tài khoản đối với các loại ngoại tệ mạnh
khác: AUD, HKD, CNY,... GP.Bank cũng đã thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý
thông qua trao đổi SWIFT với khoảng 1.250 ngân hàng cả trong và ngoài nước
(bao gồm các chi nhánh trực thuộc)
Lợi nhuận thu được từ hoạt động thanh toán quốc tế trong năm 2009 đạt
2,13 tỷ đồng (đã trừ phí sử dụng SWIFT cho toàn hệ thống khoảng 500 triệu
đồng/năm và các phí phát sinh khác), gấp 4,26 lần so với năm 2008.
* Về hoạt động thanh toán thẻ:
- Về phát hành thẻ: Tính đến 31/12/2009, số lượng thẻ phát hành đạt
13.126 thẻ (tăng 300% so với năm 2008 (3500 thẻ) trong đó số lượng thẻ active
là 12.398 thẻ, vượt kế hoạch so với chỉ tiêu đặt ra năm 2009 gần 2000 thẻ.
- Về giao dịch thẻ: Tổng số dư tiền gửi (tính tới thời điểm 31/12/2009)
trên các tài khoản (có sử dụng thẻ) đạt 21,92 tỷ VNĐ, số dư trung bình đạt 1,77
triệu VNĐ/1 thẻ; Số lượng ATM lắp đặt là 11 chiếc, POS là 23 chiếc. ATM được
phân bổ tại tất cả các tỉnh/thành phố có chi nhánh của GP.Bank
Ngoài ra, trong năm 2009 GP.Bank đã ký kết thỏa thuận tham gia kết nối
hệ thống Banknetvn với Smartlink, dự kiến trong tháng 01/2010 sẽ thông mạng
với các ATM thuộc hệ thống của BanknetVN như: Agribank, BIDV,

Vietinbank…
Công tác phát triển sản phẩm dịch vụ là một trong những nội dung được
GP.Bank chú trọng trong năm 2009. Một số sản phẩm dịch vụ mới như sản
phẩm thấu chi tài khoản cá nhân, dịch vụ Email Banking đã được đưa vào áp
dụng trên toàn hệ thống GP.Bank. Một số sản phẩm khác như tiết kiệm gửi góp,
tiết kiệm lãi suất thả nổi, bảo hiểm cho chủ doanh nghiệp gửi tiền đang được
GP.Bank nghiên cứu và dự kiến đưa vào áp dụng trong năm 2010.
2.1.3.4. Kết quả kinh doanh.
BẢNG 2.3. KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA GP BANK
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
Tổng thu nhập 620 847 971 36,61 14,64
Trong đó: thu nhập từ hoạt động tín
dụng
512 799 929 56,05 16,27
Tổng chi phí 565 773 804 36,81 4,01
Lợi nhuận 55 74 167 34,54 125,67
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của GP Bank 2007 – 2009 )
Phát huy những thành quả đã đạt được từ những năm trước, hoạt động
kinh doanh của ngân hàng đã đạt được những kết quả không nhỏ. Năm 2007 lợi
nhuận của ngân hàng đạt 55 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2008, lợi nhuận của
ngân hàng đạt 74 tỷ đồng, tăng 34,54% so với năm 2007. Năm 2009, lợi nhuận
của ngân hàng cũng trên đà tăng trưởng đạt 167 tỷ đồng ,tăng 125,67% so với
năm 2008. Với tốc độ gia tăng lợi nhuận qua các năm, GP Bank đã cho thấy tính
hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dần khẳng định vị thế, uy
tín trên thị trường. Tốc độ tăng trưởng của năm 2009 khá cao so với năm 2008,
nguyên nhân là do sau khủng hoảng kinh tế năm 2007 nền kinh tế dần hồi phục
khiến cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân
hàng GP Bank nói riêng cũng trên đà phục hồi và phát triển.
Trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng, thu nhập của hoạt động tín dụng

chiếm 70% đến 90% tổng thu nhập của ngân hàng. Qua các năm tốc độ tăng thu
nhập từ cho vay giảm đáng kể, năm 2008, thu nhập từ cho vay là 799 tỷ đồng,
tăng 56,05% so với năm 2007. Năm 2009, thu nhập từ cho vay là 929 tỷ đồng,
tăng 16,27% so với năm 2008. Qua bảng trên ta cũng thấy được chi phí của
ngân hàng còn khá cao. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô các khoản cho vay
với các DNV&N thường nhỏ, mức độ rủi ro khi cho vay nhóm đối tượng này
thường cao nên chi phí để thẩm định cho vay là khá lớn. Tuy nhiên tốc độ tăng
chi phí đã giảm dần qua các năm: năm 2008 tốc độ tăng chi phí là 36,81%, đến
năm 2009 chỉ còn 4,01%. Từ đó cho thấy ngân hàng đã cố gắng kiểm soát và
quản lý chi phí góp phần làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

×