Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tư tưởng hồ chí mình TIỂU LUẬN Chủ đề 1: Trong văn bản “Cần, Kiêm, Liêm, Chính” Viết năm 1947, Hồ Chí Minh viết : “Lười biếng là kẻ địch của Cần, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.47 KB, 8 trang )

SEMINAR LẦN 1
Mơn tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ đề 1: Trong văn bản “Cần, Kiêm, Liêm, Chính” Viết năm 1947, Hồ
Chí Minh viết : “Lười biếng là kẻ địch của Cần, lười biếng cũng là kẻ
địch của dân tộc”. Hãy phân tích nhận định trên. Liên hệ với thực tế.

Cần cù, siêng năng là nguồn gốc của văn minh và tiến bộ xã hội. Để sinh tồn và phát
triển, dân tộc nào cũng phải cần cù nhưng do điều kiện sống khó khăn, cần cù trở
thành một giá trị đạo đức cơ bản của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đưa ra một hệ
thống quan điểm sâu sắc về cần: Từ khái niệm, vai trò, nội dung biểu hiện đến
phương pháp tu dưỡng. Đặc biệt, Hồ Chí Minh khơng chỉ nói nhiều, nói hay về cần
mà cịn là tấm gương thực hành chữ cần một cách bền bỉ, trung thực nhất.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng bàn nhiều về đạo đức và bản
thân Ngườilà biểu tượng cao quý của đạo đức cách mạng. Hiện nay, khi đất nước
đang đứng trước yêu cầu “chấn hưng” về đạo đức, phẩm chất hàng đầu mà mỗi
người cần có, người cán bộ, đảng viên càng phải có chính là sự cần cù, siêng năng.
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Cần và về sự Lười biếng.
Khi nói về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đề cập đến cần nhiều nhất.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, ở mục“Tư cách một người cách mệnh”, Người
đặt phẩm chất cần, kiệm lên đầu tiên. Năm 1947, trong tác phẩm Đời sống mới, Hồ
Chí Minh khẳng định: Thực hiện đời sống mới chính là thực hiện Cần, Kiệm, Liêm,
Chính. Năm 1949, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn rất cam go mà
một số cán bộ mắc những căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đã viết tác
phẩm Cần Kiệm Liêm Chính, trong đó có một mục riêng bàn về chữ cần để giáo dục
cán bộ. Trong Di chúc, Người cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực sự cần,
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Người còn đặt tên cho một số cán bộ gần gũi ở bên
là “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”như gửi vào đó thơng điệp chính trị và niềm mong mỏi.
1.Định nghĩa “Cần” và định nghĩa “ Lười biếng”.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, cố gắn, dẻo dai.lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,



khơng ỷ lại, khơng dựa dẫm.Nói đến cần là nói đến thái độ nghiêm túc trong công
việc và hiệu quả do cần mang lại thì vơ cùng to lớn, nếu con người ta biết cần “thì
việc gì, dù khó đến mấy cũng làm được” Theo Bác, con người có đức Cần thì việc gì
, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười
biếng. Bác cho rằng nếu có một người, một địa phương, hoặc một ngành mà lười
biếng thì khác nào tồn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường
ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vây, người lười biếng là có tội với
đồng bào, với tổ quốc.
Lười biếng là trạng thái chán nản, khơng muốn làm một việc, một thói hư tật
xấu vô cùng tệ hại mà con người cần phải loại bỏ, khơng nên ni dưỡng nó để nó
sinh sơi nảy nở, trưởng thành thì nó sẽ giết chết con người chúng ta. ... Nó chính là
những thói hư tật xấu của con người.
Tiếp đó, Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung biểu hiện của cần trong thực tiễn. Trong
xã hội lồi người, do sự phân cơng lao động, mỗi con người đảm đương những cơng
việc khác nhau nhưng muốn hồn thành tốt nhiệm vụ của mình thì ai ai cũng phải
siêng năng, chăm chỉ.
2,Vai Trò Của Cần.
Trước hết, con người ta phải cần cù, chăm chỉ trong lao động. Hồ Chí Minh
định nghĩa: “Cần là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều”(3). Nói đến cần cù
là nói đến lao động. Sinh sống trên mảnh đất hẹp, thiên nhiên khắc nghiệt, con người
Việt Nam luôn ý thức rõ “tay làm, hàm nhai, tay quai miệng trễ”và từ đó, họ ý thức
về chữ cần như một phẩm hạnh thiết yếu nhất của con người. Những câu tục ngữ
như “Có cơng mài sắt, có ngày nên kim”,“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”đã ca ngợi tinh
thần lao động bền bỉ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: cần khơng có nghĩa là làm cho có, cứ làm mà khơng
quan tâm đến kết quả. Sự miệt mài một cách vô thức, không hiệu quả chưa phải là
cần. Cầnphải đi đôi với kế hoạch khoa học. Mọi vấn đề như việc gì làm trước, các
bước tiến hành ra sao, đặt ai vào việc gì để người lao động phát huy được hết sở
trường của mình... đều phải được trù tính và phân cơng hợp lý. Kế hoạch tốt sẽ giúp

con người lao động “khơng hao thì giờ, tốn lực lượng, mà việc lại mau thành”(9).
Cần cù cũng phải đi liền với sáng tạođể đạt được năng suất cao. Cần mà khơng có trí
tuệ, “lao động chân tay khơng có trí óc thì đó là người lao động bán thân bất
toại”(10). Mặt khác, chính sự cần cù, siêng năng, chuyên tâm sẽ là mảnh đất màu mỡ
để tài năng, sáng kiến trong mỗi con người nảy nở. Vì thế, theo Người, cần cù và kế
hoạch, cần cù và trí tuệ, cần cù và hiệu quả là những vấn đề không thể tách rời.


3, Tạc hại của lười biến.
Lười biếng có tác hại vô cùng nguy hiểm to lớn với cuộc sống con người. Nó
sẽ biến chúng ta thành người vơ dụng ỉ lại, như một người tàn phế, chỉ có thể sống
dựa vào người khác. Dần dần như thế nó sẽ khiến cho mỗi cá nhân ngừng trệ
4,Vì sao “ Lười biếng là kẻ địch của Cần, lười biếng cũng là kẻ địch của dân
tộc”.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam trước hết là lịch sử của các cuộc chiến tranh
giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Nếu các dân tộc khác chỉ cần siêng năng làm lụng,
tích cóp làm giàu thì người Việt Nam buộc phải cần cù, siêng năng, kiên nhẫn cả
trong chiến đấu. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh kêu gọi
nhân dân kiên quyết “đánh bao giờ địch bại, địch cút”(11); trong kháng chiến chống
đế quốc Mỹ, Người khẳng định ý chí sẵn sàng chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa... Khi Hồ Chí Minh tun bố “hễ cịn một tên xâm lược trên đất
nước ta thì ta cịn phải tiếp tục chiến đấu, qt sạch nó đi”thì đó chính là tinh thần
cần cù và kiên quyết trong chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc của mỗi con người Việt
Nam. Đối với bộ đội, chiến sỹ - những người phải trực tiếp cầm súng chiến đấu thì
sự cần cù trong luyện tập rất quan trọng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bộ đội cũng ví như
con dao, cái súng, khơng lau chùi luôn sẽ hỏng. Chăm tập luyện sẽ tiến bộ”(12).
Nguyên tắc “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường đỡ đổ máu” là môi trường rèn
luyện sự cần cho chiến sĩ.
5,Biện pháp thực hiện chữ cần.
Hồ Chí Minh ln u cầu mọi cán bộ, nhân dân phải cần cù trong học tập.

Người nói: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Khơng ai có thể tự cho mình
đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến
bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(13). Vì thế,
mỗi con người đều phải có ý thức học suốt đời, học ở mọi nơi: Học ở trường, học
trong sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Trong cuộc sống, ai muốn trở thành
người hiểu biết, tinh thơng nghiệp vụ thì đều phải cần cù học tập nhưng đặc biệt,
“người cách mạng phải học suốt đời, học lý luận, học quần chúng, học thực tế.
Người khơng học thì như đi ban đêm khơng có đèn, khơng có gậy, dễ vấp té”(14).
Tức là với người cán bộ, cần họcvà cần chínhhịa quyện làm một. Họ phải học để
làm gương cho nhân dân và học để có đủ tri thức phục vụ nhân dân.
Đối tượngthực hành chữ cần trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng. Xưa kia, do nền
sản xuất tiểu nơng mang tính riêng lẻ và manh mún, ông cha ta chỉ nhấn mạnh chữ
cần trong phạm vi cá nhân. Ngày nay, Hồ Chí Minh yêu cầu “mọi người đều phải


Cần, cả nước đều phải Cần”(15),bởi nếu có một người lười biếng, một địa phương
lười biếng, một ngành lười biếng thì cơng việc chung của hàng ngàn, hàng vạn người
khác đều bị ảnh hưởng. Ngược lại, nếu “cả nước siêng năng thì nước mạnh
giàu”(16). Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đối tượng thực hành chữ cần là
tồn dân nhưng trước hết cán bộ phải làm gương. Khi căn dặn cán bộ thực hành chữ
cần, Hồ Chí Minh nói rõ: “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả
lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”(17), là “ăn trên
ngồi chốc”trên mồ hôi, nước mắt của dân, là vô cảm trước nỗi thống khổ của nhân
dân.
Phương pháp thực hiện cần:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh cho rằng “cầnvà chuyênphải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa
là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cầnmà mười ngày không cầnthì
cũng vơ ích”(18). Cũng như trong việc tu thân, tốt một ngày, một tháng, một năm
chưa làm nên cái tốt một đời nhưng cái tốt một đời dễ dàng bị hủy diệt bởi cái không
tốt trong một ngày, một tháng, một năm nếu cái khơng tốt đó là trầm trọng. Vì thế,

nếu khơng “chun”, tức là khơng bền bỉ thì “chẳng khác gì một tấm vải phơi một
hơm mà ngâm nước mười hơm, thì ướt hồn ướt”(19). Để cần một cách thực sự, con
người phải hết sức tránh căn bệnh “lửa rơm”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh lưu ý “Cầnkhơng phải là làm xổi”, không làm quá sức để đến
nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc. Người khôn ngoan phải biết ni dưỡng tinh thần và
sức lực để duy trì “sức bền” của mình trong suốt cuộc đời; nhà lãnh đạo thì phải biết
ni dưỡng sức dân, khơng để sức dân bị cạn kiệt.
Thứ ba, khi đạo đức là kết quả của cuộc đấu tranh giữa thiệnvà ác, giữa cái caocả và
cái bản năng thấp hèn thì việc tu dưỡng phẩm chất cần cù, siêng năng phải đi liền
với việc chống lại căn bệnh lười biếngtrong mỗi con người. Nếu con người lười
biếng thì “bờ xơi, ruộng mật”cũng thành đất chết; nếu có bàn tay siêng năng thì “sỏi
đá cũng thành cơm”. Hồ Chí Minh đúc kết: “Lười biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì
vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc... Người lười biếng là có tội với đồng
bào, với Tổ quốc”. Chống lại sự lười biếng cũng chính là rèn luyện phẩm chất cần cù
trong mỗi con người.
Sự sâu sắc của Hồ Chí Minh khi bàn về chữ cần còn ở chỗ: Người đã đặt chữ Cần
vào một tổng thể các phẩm chất không thể tách rời là, “Cần kiệm liêm chính” và đặt
chữ Cần lên trên hết. Quả thật, cần mà khơng kiệmthì chẳng khác nào “gió vào nhà
trống”, “nước đổ vào thùng khơng đáy”, rốt cuộc “khơng lại hồn khơng”. Quả thật,
có cầnmới có cái để kiệmvà có cầnmới biết kiệm; có kiệmmới có thể liêm;


cóliêmmới có thể chính. Ngược lại, nếu khơng cầnsẽ khơng thấy giá trị của thành
quả lao động, sẽ hoang phí, xa hoa. Mà đã xa hoa, ăn chơi hưởng lạc thì phải làm
chuyện bất liêm, bất chính. Tức là trong quan điểm của Hồ Chí Minh, cầnthẩm thấu,
chi phối và là tiền đề của các phẩm chất khác. Cầnchính là gốc của đạo đức. Do đó,
những ai đi ngược lại chữ cầnđều dẫn đến sự băng hoại về đạo đức, nhân cách; ai
muốn tu dưỡng đạo đức thì trước hết hãy bắt đầu bằng việc thực hiện chữ cần thật
nghiêm túc, trung thực.
6, Tấm gương rèn luyện chữ Cần trong học tập và trong đời sống của Hồ Chí

Minh.
Ở Hồ Chí Minh ln có sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng
và hành động. Vì thế, Hồ Chí Minh nói về cần sâu sắc bao nhiêu thì Người thực hiện
chữ cần bền bỉ và thiết thực bấy nhiêu.
Ngay từ nhỏ, Người đã chứng kiến những tấm gương lao động cần mẫn của
người thân trong gia đình và bà con làng xóm, đã trực tiếp tham gia vào công việc
nên sớm nhận thấy giá trị của lao động và biết quý trọng những người lao động.
Trong 30 năm bơn ba ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã “trải qua mười hai nghề
vất vả”. Cuộc sống cần lao đã rèn luyện Người trở thành một người lao động có đầy
đủ phẩm chất, tâm lý, tình cảm của giai cấp vô sản. Dù phải làm việc vất vả để kiếm
sống, Người vẫn dành thời gian thích đáng để học tập. Người từng nói với sinh viên:
“Hồi Bác cịn đồng tuổi với các cháu ở đây thì Bác phải đi rửa bát hoặc làm nhiều
công việc khác để lấy tiền mà đi học”.
II. Liên hệ với sinh viên.
1, Những biểu hiện lười biếng của sinh viên.
a, Trong học tập.
- Khơng ai quản thúc: Tình trạng này xảy ra nhiều nhất ở những sinh viên xa
nhà. Khi học cấp 2, cấp 3, các bạn thường được nhà trường, thầy cô, bố
meh phối hợp cùng nhau để quản lý chặt chẽ chuyện học hành. Các vấn đề
về học tập và hạnh kiểm đều được nhà trường bóa lại với phụ huynh để tìm
phương pháp giải quyết và tình trạng lười học được đẩy lùi xa hơn. Tuy
nhiên khi vào đại học, các bạn phải tự lập cả trong cuộc sống, lẫn học tập và
tinh thần tự giác phải giấc cao, đặc biệt là những bạn học xa nhà. Thế nên
không phải ai cũng thích ứng và bắt nhịp được với sự thay đổi này. Thêm
vào đó là tâm lý xả hơi sau những năm tháng mài giũa kiến thức trên ghế


nhà trường và bố mẹ khơng cịn quản lý trực tiếp nữa nên khơng ít sinh viên
mãi chơi dẫn đến lười học, học kém.
- Mãi mê lao vào nhưng thú vui: Khá nhiều sinh viên thường chỉ học ki kỳ thi

gần kề cịn trong q trình học thì chỉ mải mê vui chơi và khơng chịu học
tập . Chính mơi trường mới với nhiều trị vui chơi giải trí đã kéo theo từ một
học sinh chăm chỉ, học giỏi trở thành một sinh viên lười biến với kết quả học
tập khơng thể hệ hơn. Ban đàu thì nghỉ là mình có quyền hưởng thụ sau
những ngày tháng dài chịu áp lực căng thằng từ kỳ thi nhưng dần dần dẫ đến
mất thăng bằng, không bắt nhịp được kiến thức học tập và bị bỏ lại phía sau.
- Khơng có phương pháp học tập phù hợp : Ở bậc THPT, các
bạn thường được thầy cô dẫn dắt nhiều hơn nhưng học đại học thì
khác. Vì số lượng sinh viên đơng nên các thầy cô không thể quan
tâm đến từng người. Đồng thời học đại học theo phương pháp tín
chỉ, phương pháp này đòi hỏi sinh viên phải tự học là chủ yếu.Điều
này khiến cho nhiều sinh viên khơng tìm ra được phương pháp học
tập phù hợp, dần dần mất phương hướng và có tâm lý chán nản,
học khơng vào, thậm chí là mặc kệ đến đâu thì đến.

b, Trong đời sống.
-

Ảnh hưởng từ bạn bè: Các hoạt động đi chơi, đi phượt, tình nguyện, bn
chuyện, rủ rê, chơi game thâu đêm suốt sáng… làm bạn rơi vàn quay của bận
rộn và những lời mời hấp dẫn khiến bạn khơng nỡ lịng từ chối. Lên địa học,
ảnh hưởng của bạn bè đến bạn vơ cùng lớn vì khơng có gia đình, người thân
bên cạnh thì bạn bè là những người quan trọng dối với bạn trong cuộc sông.
Nhưng đừng vội đổ lỗi cho bạn bè , chính bạn là người bạn là người tình
nguyện làm điều đó, tình nguyện cho phép mình vui vẻ, bỏ bê nhiệm vụ cao
cả mà bố mẹ đã đặt nhiều kì vọng.

- Mải mê chinh chiến và yêu đương :Khi lên đại học, chính tâm lý “phải có
người yêu cho bằng bạn bằng bè” nên nhiều sinh viên đã dành thời gian trau
chuốt, tán tỉnh, hẹn hò đến khơng cịn để ý việc học hành.Tán tỉnh, u

đương, thất tình, tán tỉnh, yêu đương… dường như là một vịng tuần hồn
khơng bao giờ chấm dứt và nhiều bạn đã không nhận ra được thời gian dành
cho việc yêu đương quá nhiều và bỏ lỡ đi nhiều vấn đề khác.
- Bận rộn kiếm tiền :Nhiều sinh viên gia đình khó khăn nên đã lựa chọn cách
đi làm thêm để đỡ gánh nặng cho bố mẹ. Vì vậy nên thời gian học sẽ hạn hẹp.
Mặt khác đi làm thêm mệt mỏi nên khả năng tập trung học hành cũng bị giảm


sút. Bên cạnh đó, một số bộ phận gia đình có điều kiện nhưng muốn đi làm
thêm để tiếp thu kinh nghiệm hoặc vì tiêu xài quá đà nên nợ chồng nợ chất,
“khủng hoảng vì tiền” dẫn tới phân tâm, lo lắng.
- Mạng xã hội :Sống trong thời đại truyền thông, Facebook, Twitter, Tumblr…
dường như đã “ngốn” hết thời gian của bạn. Sáng ngủ dậy vào Facebook, đi
chơi check in Facebook, chụp ảnh up Facebook, viết status một ngày chục cái
đăng Facebook, trước khi học phải vào Facebook cập nhật thông tin và ngồi
vẩn vơ đến tận khi đi ngủ.
- Tâm lý “trẻ không chơi, già đổ đốn” :Các bạn ln nghĩ mình là người trẻ,
mình nên trải nghiệm, nên dấn thân vào những cuộc vui để sau này còn có…
kỷ niệm để mà nhớ. Với tâm lý đó, bạn thoải mái tham gia vào các hoạt động
của tập thể, của bạn bè mà quên dành thời gian học tập.“Trẻ khơng chơi, già
đổ đốn” nhưng trẻ khơng học thì chỉ vài năm sau thơi, lúc bạn chưa kịp già
thì bạn đã thực sự rơi vào bế tắc và đổ đốn sớm hơn bạn tưởng rồi.
2, Những biểu hiện Cần của sinh viên.
a, Trong học tập.
Học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục, đào tạo của cơ sở
giáo dục đại học; chủ động, tích cực tự học, nghiên cứu, sáng tạo và rèn luyện đạo
đức, lối sống. Tôn trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức và nhân viên của cơ sở
giáo dục đại học; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập và rèn luyện;
thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong trường học. Đóng học phí, bảo hiểm y tế đầy
đủ, đúng thời hạn.

b, Trong đời sống.
Tham gia lao động cơng ích, hoạt động tình nguyện, hoạt động xã hội vì cộng
đồng phù hợp với năng lực và sức khỏe theo yêu cầu của cơ sở giáo dục đại học. Có
rất nhiền bạn sinh viên đã nổ lực hết mình cho việc học tập. Đáng ngưỡng mộ hơn
có những bạn sinh viên suất thân trong những gia đình khó khăn nhưng biết vượt lên
hoàn cảnh để vươn lên những tầm cao của tri thức. Ngoài việc học tập, các bạn đã
làm tất cả những cơng việc để có tiền phụ giúp cha mẹ. Các bạn mãi là những bông
hoa đẹp trong vườn hoa của dân tộc Việt Nam – một tương lai tươi sáng đang chờ
các bạn ở phía trước. Các bạn cũng chính là những người tiếp thu và thực hành tốt
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vì trong trái tim các bạn luôn tâm niệm rằng “
Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy tự hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hơm
nay”.


3, Vì sao sinh viên rất cần có đức tính Cần.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa và đổi mới đất nước theo hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì
mỗi sinh viên chúng ta cần học tập rèn luyện tư tưởng đạo đức cách mạng, lối sống
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc làm hết sức quan trọng.
Bởi vì tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh ln là một nền tảng tinh thần xã
hội, là động lực vượt qua khó khăn thách thức để tiến lên. Do đó học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của người, đặc biệt đối với những bạn sinh viên là một biện pháp
quan trọng đối với mỗi người , vì đó chính là những điều quan trọng để giúp đất
nước phát triển.
Để thành công trong cuộc sống mỗi bạn sinh viên cần phải chăm chỉ học tập,
làm việc,rèn luyên bản thân ...thì mới có kết quả được như mong muốn. Trong xã
hội, thế hệ trẻ có rất nhiều người đã thành công trong học tập, lao động, công tác
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là nhờ quá trình chăm chỉ học tập, lao
động, nghiên cứu,.. Là sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải
không ngừng học tập, trau dồi kiến thức, đạo đức để tự thân lập nghiệp, đạt đưọc

thành công trong cuộc sống.
Đức tính cần là một đức tính quý báu của con người. Vì vậy ta phải cần cù,
siêng năng, chăm chỉ, nỗ lực hết sức để đạt được mục đích sống, niềm vui hạnh phúc
của cuộc đời mình, để thành đạt trong xã hội, làm đất nước phồn vinh, phát triển,
sánh ngang với các nước trên thế giới.
4. Liên hệ với từng thành viên trong nhóm.



×