Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.16 KB, 89 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng
là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới. Chính
điều này tạo ra sự phát triển và mở rộng không ngừng của các ngân hàng
hiện nay. Đây cũng là một thách thức lớn khi các ngân hàng tham gia thị
trường phải đối đầu. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt này, buộc các ngân
hàng phải tìm hướng đi mới, đưa ra dịch vụ, sản phẩm mới thu hút khách
hàng.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, các Hiệp định thương mại
giữa Việt Nam và các nước được ký kết; nền kinh tế nước ta tăng trưởng
liên tục với tốc độ cao; đời sống của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải
thiện. Điều đó tạo tiền đề thuận lợi cho các dịch vụ ngân hàng bán lẻ phát
triển. Chính vì vậy hiện nay các ngân hàng không ngừng cạnh tranh mở
rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ như về dịch vụ thẻ
ATM, cho vay tiêu dùng…
Khi nền kinh tế nước ta đang phát triển, đời sống người dân được
nâng cao, nhu cầu sử dụng và mua sắm các vật dụng đắt tiền rất lớn, nhưng
họ không thể chi trả cho tất cả nhu cầu mua sắm cùng lúc được. Vì vậy, nếu
người tiêu dùng có thể vay được tiền từ ngân hàng, thì họ có thể thỏa mãn
nhu cầu của họ ngay trong hiện tại, về phía ngân hàng thì có thể thu lợi từ
hoạt động cho vay. Không chỉ có vậy, với việc cho vay này, ngân hàng gián
tiếp thúc đẩy nền kinh tế phát triển do sự tăng tiêu dùng hàng hóa, thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh cả về số lượng và chủng loại sản phẩm, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đó, cùng với kiến thức thực tiễn thu được
trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam, em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
1
trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam”, làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần mở bài, kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:


Chương I: Những lý luận cơ bản về cho vay tiêu dùng và khả năng
cạnh tranh trong cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh tranh
trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động
cho vay tiêu dùng tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam.
Trong thời gian thực tập vừa qua tại Sở Giao Dịch Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam, đề tài đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của cán
bộ, nhân viên Phòng tín dụng và Phòng tổ chức cán bộ và đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Lê Hương Lan.

2
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY
TIÊU DÙNG VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG
CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng đóng vai
trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Lịch sử ra đời của các ngân
hàng gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá và lịch
sử phát triển của tiền tệ. Hoạt động ngân hàng ban đầu có nguồn gốc từ
hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả hộ, tiếp đến là sự phát triiển của
hoạt động cho vay và các hoạt động khác.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi
nền kinh tế. Các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, doanh nghiệp và các
cơ quan nhà nước đều có thể gửi vào món tiền mà mình đang sở hữu. Cho
nên có thể nói, ngân hàng như là người thủ quỹ của xã hội. Bên cạnh sự an

toàn khi gửi tiền vào ngân hàng thì các chủ thể còn đựoc nhận nguồn thu
nhập từ lãi suất tiền gửi.
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng cho hàng triệu hộ tiêu dùng
để phục vụ các nhu cầu trong cuộc sống như du học, mua nhà đất, ôtô
Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng
cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp cần thêm vốn để tiến
hành sản xuất kinh doanh, mua sắm trang thiết bị
Bên cạnh các hoạt động cơ bản đó, ngân hàng còn đứng ra cung cấp
một loạt các dịch vụ sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu đang phát sinh
theo xu hướng phát triển của xã hội như bảo lãnh, tư vấn tài chính
3
Ngoài ra, NHTM dưới sự chỉ đạo của ngân hàng trung ương còn tiến
hành thực hiện các chính sách tiền tệ nhằm góp phần điều tiết sự tăng
trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định của xã hội.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế. Ngân hàng có thể đuợc định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc
vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố
trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao
gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng
khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung
cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối
thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ.
Cho nên cách tiếp cận thận trọng nhất chính là xem xét ngân hàng
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, theo
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Đại học Kinh tế quốc dân: “Ngân hàng là các tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất –
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế”.
1.1.2 .Chức năng của NHTM

1.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu
là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và
tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi
tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ
là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu
cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
4
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với
ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ
(1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối
quan hệ tài chính của hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải
quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì
đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và
tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị giới hạn do sự không phù hợp về quy
mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển
và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hóa, trung
gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Như vậy trung gian tài
chính đã tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết
kiệm, đồng thời giảm phí tổn cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người
đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các
người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín
dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh
chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và
giảm chi phí giao dịch.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh

toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ
vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách
hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở
thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như
vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền
kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế,
dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện
lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
5
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có
thể chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu.
1.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu
hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá
rị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán
như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua
ngân hàng Trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ
thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công
nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua
ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều
hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa
các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được
thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân
hàng trở thành trung tâm thah toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc
lực cho nền kinh tế toàn cầu.

1.1.3. Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các
dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách
có hiệu quả.
6
1.1.3.1. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao
đổi ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay,
mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì
những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải yêu
cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
1.1.3.2. Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã
tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là
các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở
dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả
đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gủi,
các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về
việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng
sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi
suất, chẳng hạn các ngân hàng Huy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu
hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa
Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lần lãi suất tiết kiệm.
1.1.3.3. Cho vay
• Cho vay thương mại
Ngay ở thời kì đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà
thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản
phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ

chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là
người mua). Giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất
kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng
7
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cục cho vay
đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu
dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng
và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín
dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
• Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng
càng trở lên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc
biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng
này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu
tư vào đất.
1.1.3.4. Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác
cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho
khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả
năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã
được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi
ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện
thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng
gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là
hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách
khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
1.1.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán

Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của
họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
8
mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ
cần viết giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang
giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không
dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp
phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh
nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở
rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã
khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển
đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh
toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi
mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công
nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều
thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh
toán bằng điện, thẻ…
1.1.3.6. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh
nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt
chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệp trong quản lí ngân quỹ và khả
năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng
dịch vụ quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và
chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt
tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã

trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và
thường là cấp bách trong khi thu không đủ. Chính phủ các nước đều muốn
9
tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân
hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ
thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân
hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách
tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có các khoản tín dụng lớn. Ngày nay,
Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam
kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ
cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ
lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc
phải cho vay với điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
1.1.3.8. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn
và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy
tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ
bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo
lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị.
Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng
thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền
lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hựp đồng thuê
mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng
cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá

10
trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều
điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có nhiều
chuyên gia về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã
nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ
uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát
hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được
uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách
công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi
ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn
về đầu tư, về quản lí tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp.
1.1.3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính
cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đầu là một trong những lý do
chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán,
cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng
khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong
một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc
công ty môi giới chứng khoán.
1.1.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hành bị chết, bị tàn
phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
1.1.3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lí
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân
11

hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
1.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.1.Khái niệm và phân loại cho vay
1.2.1.1.Khái niệm cho vay
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế như tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, đặc biệt là hoạt động cho vay.
Cho vay là một hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng
đầu của Ngân hàng, giúp Ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Theo QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay được hiểu như sau: “Cho
vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và trong thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
1.2.1.2.Phân loại cho vay
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm
dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay thích hợp và cơ
sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng
cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ
sau đây:
• Theo mục đích:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại dịch vụ.
12
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.

- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu…
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính…
- Cho vay cá nhân là cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản vay để trang trải các chi phí
thong thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
• Theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia ra làm 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: theo qui định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Cho vay
trung hạn chủ yếu sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh…
- Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn
tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp
ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận
tải có quy mô lớn, xây dựn xí nghiệp mới.
• Theo tài sản đảm bảo
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
13
• Theo phương pháp hoàn trả
Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ
thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:

- Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ ( hay còn gọi là phí trả góp ) là
loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thỏa thuận.
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả
góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định
kỳ.
- Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể,
mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: đối với loại cho vay có thời hạn
thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả bất cứ lúc
nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này sẽ được thỏa
thuận trong hợp đồng
• Theo cách thức tài trợ
Dựa vào căn cứ này cho vay tín dụng chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu
cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời gian
thanh toán.
1.2.2. Cho vay tiêu dùng của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng của NHTM
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài
chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng
gia đình và xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế
và du lịch… cũng có thể được tài trợ bở cho vay tiêu dùng.
14
Cho vay tiêu dùng không có một định nghĩa chuẩn, nhưng nó có
những đặc điểm sau:
• Khách hàng vay: Chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình có nhu
cầu tiêu dùng tại thời điểm hiện tại nhưng chưa có khả năng thanh toán.

• Mục đích vay: Ngân hàng cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải là nhu cầu kinh doanh.
• Qui mô khoản vay: Mỗi khoản vay thường có qui mô tương đối
nhỏ so với các khoản cho vay kinh doanh. Cho vay bất động sản có thể có
giá trị lớn hơn, nhưng giá trị so sánh vẫn nhỏ hơn các món vay khác tại
Ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu do khách hàng chỉ vay tiêu dùng khi đã
có một lượng vốn tương đối, chỉ vay ngân hàng để bổ sung số tiền còn
thiếu (so với vay kinh doanh, có thể chủ đầu tư vay toàn bộ số tiền cần thiết
cho dự án). Mặt khác, do cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao hơn nên Ngân
hàng cũng thường thận trọng hơn trong việc quyết định số tiền cho vay, căn
cứ vào khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo của khách hàng.
• Số lượng các khoản cho vay tiêu dùng lại là rất lớn do đối
tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội với nhu cầu
tiêu dùng đa dạng. Khi chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng
cao, người dân càng có nhu cầu vay Ngân hàng để cải thiện và nâng cao
mức sống. Do đó, nền kinh tế càng phát triển, số lượng các khoản vay tiêu
dùng sẽ càng nhiều.
• Thời hạn vay: Các khoản cho vay tiêu dùng thì thời hạn thường
là ngắn và trung hạn do món vay có giá trị nhỏ và độ rủi ro cao đối với
Ngân hàng. Tuy nhiên, đối với cho vay bất động sản lại thường có thời hạn
dài do người dân phải tích lũy thu nhập một thời gian tương đối mới có thể
đủ tiền trả Ngân hàng.
• Nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng
chính là thu nhập của người đi vay, do đó Ngân hàng thường xem xét mức
thu nhập thường xuyên của khách hàng để quyết định xem có cho vay
15
không. Đây cũng là một điểm khác biệt so với cho vay kinh doanh -nguồn
trả nợ chủ yếu của món vay này là lợi nhuận khi thực hiện phương án kinh
doanh đó.
• Lãi suất. Khi vay tiền, khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi

suất mà họ quan tâm tới khoản tiền phải trả hàng tháng, thời gian được giải
ngân và khả năng trả nợ của mình. Nguyên nhân chủ yếu là người tiêu
dùng thường coi vay mượn là công cụ để đạt đươc một cuộc sống thoải mái
hơn chứ không phải là một lựa chọn dùng trong tình trạng khẩn cấp hoặc để
tạo ra lợi nhuận.
• Rủi ro. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao.
Sau đây là một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này.
o Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường khó đầy đủ
và rõ ràng như thông tin về doanh nghiệp (công khai thông qua báo cáo tài
chính), dẫn đến rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không cân xứng. Các cá
nhân có thể tìm cách trốn tránh không trả các khoản vay cho dù có khả
năng thanh toán.
o Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại
của người vay. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc
làm hay gặp các biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến thu nhập hàng tháng, ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong thu hồi nợ. Đây là rủi ro khó lường trước, khác
với món vay kinh doanh ta có thể hạn chế được thông qua nâng cao chất
lượng thẩm định dự án.
o Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi nền
kinh tế mở rộng, người dân lạc quan về tương lai thì họ sẽ vay ngân hàng
nhiều hơn, và khi nền kinh tế suy thoái, tình trạng thất nghiệp tăng thì họ sẽ
hạn chế vay mượn ngân hàng.
• Chi phí: Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi
phí lớn nhất trong danh mục cho vay của Ngân hàng. Do trong cho vay tiêu
dùng số lượng món vay nhiều, khách hàng đông và đa dạng nhưng mỗi
16
khoản vay số lượng lại nhỏ, ngân hàng phải huy động nhiều nhân lực cho
công việc cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết
định cho vay, giải ngân cũng như kiểm soát và thu nợ đối với khách hàng
sau khi cho vay. Mặt khác, Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn để quản

lý các khoản cho vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn do đối
với khách hàng cá nhân, thông tin về tình hình tài chính thường không công
khai minh bạch như ở các công ty lớn. Tất cả những điều này kiến chi phí
tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay cao hơn so với các loại hình cho vay
khác.
• Lợi nhuận: Lợi nhuận của cho vay tiêu dùng thường cao do cho
vay tiêu dùng có rủi ro cao, chi phí cao và tâm lý người vay “kém nhạy
cảm với lãi suất”. Các khoản vay tiêu dùng thường được định giá cao, đến
mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng
phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không
mang lại lợi nhuận.
• Tính chu kì: Khác với các khoản vay thương mại, nhu cầu phát
sinh theo chu kì kinh doanh lặp đi lặp lại, trong cho vay tiêu dùng, người
vay thường ít vay nhiều lần.
1.2.2.2. Vai trò hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM
• Đối với ngân hàng
Ngoài hai nhược điểm lớn của cho vay tiêu dùng là rủi ro và chi phí
cao, cho vay tiêu dùng có những lợi ích và vai trò quan trọng để ngân hàng
thúc đẩy cho vay tiêu dùng như:
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng
huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
- Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao
thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
17
• Đối với người tiêu dùng
Nhờ cho vay tiêu dùng họ hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ
tiền và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi
cá nhân có các chi tiêu có tính cấp thiết, cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho
giáo dục và y tế.
• Đối với nhà sản xuất

Tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua hàng hoá nhiều hơn và
nhanh hơn là đã giúp nhà sản xuất bán được sản phẩm, quay vòng vốn
nhanh hơn, mở rộng sản xuất, do đó lợi nhuận cũng tăng lên. Đây cũng là
nguyên do khiến càng ngày càng nhiều nhà sản xuất mong muốn hợp tác
với Ngân hàng để mở rộng cho vay tiêu dùng.
• Đối với nền kinh tế
Nếu cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng
hóa và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động trong xã hội.
Chính vì lợi ích như vậy NHTM một mặt cho vay để tạo nên sự hòa
hợp giữa cung và cầu tiêu dùng, mặt khác lại có thể giải quyết tốt được
nhiệm vụ kích cầu tiêu dùng của nền kinh tế.
1.2.2.3. Các loại cho vay tiêu dùng của NHTM
Việc phân loại cho vay tiêu dùng được dựa trên nhiều tiêu thức khác
nhau:
a. Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, cho vay tiêu dùng được chia ra làm hai loại:
• Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân
hoặc hộ gia đình.
18
• Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc
trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành,
giải trí du lịch…
b. Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả
Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể chia làm ba loại:
• Cho vay tiêu dùng trả góp: đây là hình thức cho vay tiêu dùng
trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều
lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn vay. Phương thức này

thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng
định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay.
• Cho vay phi trả góp: theo phương thức này tiền vay được khác
hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các
khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá
trị nhỏ với thời hạn không dài.
• Cho vay tuần hoàn: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc
được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này,
trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu
và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực
hiện vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín
dụng.
c. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ, cho vay tiêu dùng gồm:
• Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình
thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những
công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
19
• Cho vay trực tiếp: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
người này.
1.3. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.3. Khả năng cạnh tranh trong
cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm
Cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực
chất nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất
hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công

lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều
kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường
tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển nhằm giảm
mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần
thiết để thu được nhiều lãi.
Theo M.Porter 1980: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần, bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà hãng đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ
quả giá cả có thể giảm đi”
Khái quát lại: “Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ
thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi
ích nhất cho mình”.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng
(Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người
tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người
sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều
20
biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá ) hoặc phi giá cả (quảng
cáo ).
Trong lĩnh vực ngân hàng, khả năng cạnh tranh là một chỉ tiêu rất
tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ
khác biệt và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ở thị trường
mục tiêu, đồng thời phải làm cho khách hàng thấy được lợi ích thực tế từ
những sản phẩm dịch vụ đó. Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng cũng
được biểu hiện cụ thể qua thị phần của Ngân hàng đó trên thị trường.
Vậy khả năng cạnh tranh của ngân hàng là gì, theo TS. Hà Thị Ngọc
Oanh tại Viện nghiên cứu thành phố Hồ Chí Minh thì: “ Năng lực cạnh
tranh của ngân hàng được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần,

thu lợi nhuận của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài
nước. Vì vậy năng lực cạnh tranh NHTM là sự tổng hợp của các yếu tố từ
công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ uy tín và thương
hiệu của ngân hàng”.
1.3.2. Sự cần thiết năng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng cho vay tiêu dùng thu được lợi ích rất lớn vì khoản lãi thu
được cao, chính vì thế các ngân hàng không ngừng mở rộng và nâng cao
hoạt động cho vay tiêu dùng của mình, dẫn đến có quá nhiều ngân hàng
cùng tham gia vào một thị trường cho vay tiêu dùng, nếu các ngân hàng
không ngừng nâng cao chất lượng về sản phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng
thì sẽ không thu hút được khách hàng, chính vì vậy cạnh tranh buộc Ngân
hàng phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao nguồn nhân lực, cải tiến
kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng
cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Từ những khái niệm trên có thể
nhận thấy cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động
lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các ngân hàng phát triển.
21
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh trong cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng thương mại
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh trong kinh doanh
của một ngân hàng, trong đánh giá về khả năng cạnh tranh cho vay tiêu
dùng người ta sử dụng 4 chỉ tiêu chính sau:
1.3.3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng
trong hoạt động cho vay tiêu dùng
- Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ: Đây là một
trong những chỉ tiêu cơ bản quan trọng trong việc đánh giá mức độ phát
triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng so với các hoạt động cho
vay khác. Khi tìm hiểu về cho vay tiêu dùng, nếu chỉ chú ý đến dư nợ cho
vay tiêu dùng riêng mà không đặt trong mối tương quan với tổng dư nợ thì

sự đánh giá sẽ không được chính xác.
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng =
- Tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng so với thu lãi từ hoạt động cho
vay nói chung: cho biết hoạt động cho vay tiêu dùng đóng góp bao nhiêu
vào tổng lãi từ hoạt động cho vay. Nó phản ánh hiệu quả trong hoạt động
cho vay tiêu dùng. Nếu dư nợ cho vay tiêu dùng tăng rất khả quan, nhưng
thu lãi từ cho vay tiêu dùng lại có xu hướng tăng chậm hoặc giảm sút thì
NH phải xem xét lại chính sách lãi suất của mình. Tỷ trọng này còn giúp
việc xây dựng định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng.
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Tỷ trọng thu lãi cho vay tiêu dùng =
- Thị phần cho vay tiêu dùng của Ngân hàng so với các ngân hàng
khác cùng thị trường: Chỉ tiêu này cho biết sức cạnh tranh về cho vay tiêu
dùng của ngân hàng so với các ngân hàng khác, khả năng chiếm lĩnh thị
trường mục tiêu cũng như hướng phát triển trong tương lai.
22
1.3.3.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng
- Mức độ sử dụng vốn vay trên tổng vốn huy động: chỉ tiêu này cho
phép xác định khả năng cho vay nói chung và khả năng cho vay tiêu dùng
nói riêng trong tương lai của Ngân hàng, từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh trong hoạt động này.
Mức độ sử dụng vốn để cho vay =
- Tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng: Như đã phân
tích ở trên, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có nhiều rủi ro, do đó
cũng có tỉ lệ nợ quá hạn cao hơn so với tỉ lệ nợ quá hạn chung của toàn
Ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng của một Ngân hàng được coi là
phát triển và hiệu quả khi tỉ lệ nợ quá hạn nằm trong giới hạn cho phép và
có xu hướng giảm so với các năm trước hoặc đã thu hồi được nhiều khoản

quá hạn của kỳ trước. Tỷ trọng này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
=
- Mức độ đa dạng các hình thức cho vay tiêu dùng: Số lượng sản
phẩm cho vay tiêu dùng ngân hàng cung cấp càng đa dạng thì ngân hàng
càng đáp ứng và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó
phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng mạnh mẽ hơn.
- Chất lượng dịch vụ cho vay: Đây là tiêu chí dựa trên những nhân tố
vô hình như: thái độ phục vụ của nhân viên khách hàng, thời gian xét duyệt
khoản vay, mức độ hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ được cung
cấp
1.3.3.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tính đổi mới trong hoạt động cho vay
tiêu dùng của Ngân hàng
Với tốc độ phát triển kinh tế cũng như thu nhập bình quân đầu người
tăng lên thì nhu cầu về các sản phẩm cho vay tiêu dùng không ngừng phát
23
triển. Một ngân hàng khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác nếu
không biết đổi mới, phát triển, đa dạng các sản phẩm cho vay tiêu dùng của
mình. Sự đổi mới có thể đo lường qua các con số sau:
- Chiến lược cho vay ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói
riêng, thị trường mục tiêu: Chiến lược cho vay là một phương tiện mà theo
đó Ngân hàng có thể gia tăng lợi nhuận, quản lý rủi ro tín dụng trong giới
hạn có thể và tiếp tục đáp ứng các nhu cầu tài chính của khách hàng. Chiến
lược cho vay của Ngân hàng phải phù hợp với chiến lược chung của Ngân
hàng đó, phù hợp với khách hàng và thị trường mục tiêu, phù hợp với qui
trình quản lý rủi ro tín dụng.
- Chiến lược xây dựng sản phẩm mới: Thông thường mỗi Ngân hàng
sẽ có một ban riêng để xây dựng phát triển các sản phẩm Ngân hàng mới
cho toàn hệ thống. Ban này sẽ kết hợp với các phòng ban nghiệp vụ (ví dụ

như phòng bán lẻ) nhằm tìm ra sản phẩm mới cho Ngân hàng mình dựa
trên qui trình phát triển sản phẩm mới đã được qui định. Một chiến lược
phát triển sản phẩm mới tốt với qui trình phù hợp sẽ giúp Ngân hàng có thể
xây dựng nhiều sản phẩm mới tốt hơn, phù hợp hơn với nhu cầu khách
hàng.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
TRONG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
Ngân hàng thương mại chịu mọi tác động của môi trường cạnh tranh
như một doanh nghiệp. Theo lý luận về quản trị và cạnh tranh trong doanh
nghiệp thì các nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh của một doanh nghiệp có
thể đến từ nhiều phía của môi trường kinh doanh mà ta có thể chia làm 2
loại: Môi trường vĩ mô, môi trường vi mô. Ta cũng có thể gọi là nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan.
24
1.4.1. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan là những nhân tố nằm ngoài sự quản lý của
Ngân hàng nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới toàn bộ hoạt
động của Ngân hàng. Những thay đổi và xu thế của những nhân tố này có
thể tạo ra những cơ hội hoặc gây ra những rủi ro đối với Ngân hàng.
Tóm lại, có 7 nhân tố khách quan chính sau:
• Dân số:
Với tỉ lệ tăng dân số, những thay đổi về cấu trúc dân số, xu hướng di
chuyển dân cư, chính sách dân số của vùng, khu vực hay quốc gia. Đây là
một nhân tố quan trọng, bởi nó không chỉ tạo thành nhu cầu và kết cấu nhu
cầu của dân cư về dịch vụ ngân hàng, cho phép ngân hàng xác định được
thị trường tiềm năng của hoạt động cho vay tiêu dùng, là căn cứ trong việc
hình thành hệ thống phân phối của ngân hàng một cách hiệu quả để có thể
nâng cao năng lực của ngân hàng so với các đối thủ cạnh tranh để chiếm
lĩnh thị phần.

• Môi trường địa lý:
Các vùng địa lý khác nhau có những đặc điểm rất khác nhau về điều
kiện giao thông, sông núi, tài nguyên,…điều này hình thành những tụ điểm
dân cư, trung tâm thương mại, sản xuất khác nhau. Vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng
tới việc mở rộng mạng lưới Ngân hàng (như việc mở chi nhánh, phòng giao
dịch…). Ngân hàng sẽ phải xem xét việc mở rộng mạng lưới ở đâu là tốt
nhất, thuận tiện nhất, chi phí thấp, người dân có thu nhập tốt để đặt chi
nhánh. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng.
25

×