Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Biện pháp chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn Q. Cầu Giấy hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.45 KB, 67 trang )

Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế, các
hình thức kinh doanh, các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú. Khi đời sống
của người dân ngày càng cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngày càng
tăng. Do đó các hoạt động mua, bán các hình thức tổ chức thương mại diễn ra
tấp nập hơn và ngày càng mở rộng.
Là một loại hình tổ chức thương mại hỗn hợp, chợ ra đời và phát triển cùng
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tính chất và trình độ xã hội hoá nền
sản xuất ngày càng cao, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc thì nhu
cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn và chợ với tư cách là nơi trao đổi hàng hoá,
dịch vụ giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người
tiêu dùng ngày càng phát triển. Thông qua bộ mặt và tình hình sinh hoạt chợ có
thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống dân cư
của một vùng, địa phương.
Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống chợ nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu
kém như cơ sở vật chất nhìn chung còn nghèo nàn, lạc hậu, việc đầu tư xây dựng
chợ mới chỉ do Nhà nước làm, chưa thực hiện xã hội hoá trong công tác đầu tư
xây dựng chợ theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nhiều chợ
chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm, văn minh thương mại.
Công tác quản lý chợ còn nhiều hạn chế và yếu kém, đội ngũ cán bộ quản lý còn
nhiều người chưa qua đào tạo và hạn chế về năng lực chuyên môn... Trên cở sở
đó ta thấy được sự cần thiết phải phát triển mạng lưới chợ theo hướng nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Một trong những biện pháp nhằm tạo ra sự phát triển đột biến mạng lưới
chợ là chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ, cho phép các tổ chức, cá nhân
tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh chợ. UBND quận Cầu Giấy đã lên kế
hoạch và đề án để thực hiện việc chuyển đổi này. Tuy nhiên, việc triển khai có
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, mới chỉ dừng lại ở giai đoạn thí điểm
bước đầu. Vì thế đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng có những biện pháp để tạo
môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức,
cá nhân đầu tư, kinh doanh chợ, từ đó làm cho việc chuyển đổi được triển khai


nhanh chóng trong thực tế.
Xuất phát từ thực tiến đó, em xin chọn đề tài "Phương hướng và biện pháp
chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong giai
đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho mình.
Mục đích của đề tài: Hệ thống các cơ sở lý luận về chợ và các mô hình tổ
chức quản lý chợ ở nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng về phát triển và
quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy, đưa ra phương hướng, giải pháp và
kiến nghị nhằm nhanh chóng chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa
bàn quận trong giai đoạn hiện nay.
Bố cục của đề tài bao gồm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý
chợ.
- Chương II: Thực trạng phát triển và tổ chức quản lý chợ trên đại bàn
quận Cầu Giấy hiện nay.
- Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình tổ
chức quản lý trên đại bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay.
Với trình độ còn hạn chế, đề tài hoàn thành có thể còn nhiều thiếu sót nhất
định, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và toàn thể các
bạn để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Văn Bưu cùng các cô,
chú trong phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy đã tận tình giúp đỡ em hoàn
thành đề tài nghiên cứu này.
Chương I
Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ
I. Chợ và vai trò của chợ trong nền kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay
1. Khái niệm, đặc trưng của chợ
1.1. Khái niệm:
Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều khái niệm khác
nhau về chợ:
- Theo định nghĩa trong các từ điển tiếng Việt đang được lưu hành: "Chợ

là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày hoặc
những buổi nhất định"
(1)
; "Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người
bán để trao đổi hàng hoá, thực phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc
từng phiên nhất định (chợ phiên)...
- Theo Thông tư số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương
Mại hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương
nghiệp được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh
tế xã hội".
- Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về
phát triển và quản lý chợ "Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được
hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một
địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá
và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư".
(1) Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao
gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe,
kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao
quanh chợ.
(1)
Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Từ điển Bách Khoa - 2003 (tr.138)
(2) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá Thông tin - 2004 (tr.155)
(2) Chợ đầu mối: là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng
hoá lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành
hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
(2) Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng
được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích
quy chuẩn tối thiểu là 3 m
2
/điểm.

Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa, ta có thể rút ra kết luận:
Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính
truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông người
mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu cầu của
sản xuất, lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ
thời gian nhất định.
1.2. Đặc trưng của chợ:
Chợ có những đặc trưng sau:
- Chợ là một nơi (địa điểm) công cộng để mua bán, trao đổi hàng hoá,
dịch vụ của dân cư, ở đó bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đến mua, bán
và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau.
- Chợ được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi
hàng hoá, dịch vụ của dân cư, chợ có thể được hình thành một cách tự
phát hoặc do quá trình nhận thức tự giác của con người. Vì vậy trên thực
tế có nhiều chợ đã được hình thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ
chức, quản lý chặt chẽ của các cấp chính quyền và các ngành quản lý
kinh tế kỹ thuật. Nhưng cũng có rất nhiều chợ được hình thành một cách
tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá của dân cư, chưa được
quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ.
- Các hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường được
diễn ra theo một quy luật và chu kỳ thời gian (ngày, giờ, phiên) nhất
định. Chu kỳ họp chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ
và tập quán của từng vùng, từng địa phương quy định.
1.3. So sánh chợ với siêu thị:
Theo từ điển Kinh tế thị trường: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán
nhiều mặt hàng đáp ứng tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực
phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác".
Như vậy, những nét đặc trưng cơ bản của siêu thị khác với chợ là:
- Siêu thị là một cửa hàng bán lẻ.
- Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ.

- Giá ở siêu thị được niêm yết công khai.
- Siêu thị thường chú trọng ở nghệ thuật trưng bày hàng hoá.
- Siêu thị áp dụng các hình thức quản lý, bán hàng và thanh toán bằng
những tiến bộ của khoa học, công nghệ (tin học, điện tử, khoa học xã
hội trong bán hàng…).
2. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta
Hiện nay ở nước ta tồn tại rất nhiều các loại chợ khác nhau, dựa theo những
tiêu thức khác nhau ta có những cách phân loại sau:
2.1. Theo địa giới hành chính:
Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô thị và chợ nông thôn.
2.1.1. Chợ đô thị:
Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị trấn. Do ở đây,
đời sống và trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên các chợ
thành phố có tốc độ hiện đại hoá nhanh hơn, văn minh thương mại trong chợ
cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, bổ sung và
hoàn chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ thống phương tiện truyền thông
và dịch vụ ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở khu vực nông thôn.
2.1.2. Chợ nông thôn:
Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung tâm cụm xã. Hình thức
mua bán ở chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng núi, người dân tộc
thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ), các quầy, sạp có quy
mô nhỏ lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông thôn thể hiện đậm đà bản sắc
truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, của các vùng lãnh thổ khác nhau.
2.2. Theo tính chất mua bán:
Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai loại là chợ bán buôn
và bán lẻ.
2.2.1. Chợ bán buôn:
Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ của thành phố, thị
xã, thị trấn, có phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối lượng hàng hoá lớn.
Hoạt động mua bán chủ yếu là thu gom và phân luồng hàng hoá đi các nơi. Các

chợ này thường là nơi cung cấp hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, các chợ bán
lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn là nơi thu gom hàng cho xuất khẩu.
Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao (trên 60%), đồng thời vẫn
có bản lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.
2.2.2. Chợ bán lẻ:
Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên phường), cụm dân
cư, hàng hoá qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng.
2.3. Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh:
Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.
2.3.1. Chợ tổng hợp:
Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều ngành hàng khác nhau.
Trong chợ tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng (quần áo, giày dép,
các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia dụng…), công cụ lao động nông
nghiệp (cuốc, xẻng, liềm búa…), cây trồng, vật nuôi…, chợ đáp ứng toàn bộ các
nhu cầu của khách hàng. Hình thức chợ tổng hợp này thể hiện khái quát những
đặc trưng của chợ truyền thống, và ở nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm
ưu thế về số lượng cũng như về thời gian hình thành và phát triển.
2.3.2. Chợ chuyên doanh:
Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu, mặt hàng này
thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán một số mặt hàng khác,
các loại hàng này có doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Hình thức chợ này
cũng tồn tại ở nước ta như chợ vải, chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ rau
quả, chợ giống cây trồng…
2.4. Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ:
Dựa theo cách phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của
Chính phủ về phát triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại
1, chợ loại 2 và chợ loại 3.
2.4.1. Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
- Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố,
hiện đại theo quy hoạch;

- Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh,
thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và
được tổ chức họp thường xuyên;
- Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ
chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho
bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng
hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
2.4.2. Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
- Là chợ có trên 200 diểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc
là bán kiên cố theo quy hoạch;
- Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp
thường xuyên hay không thường xuyên;
- Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ
chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho
bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường.
2.4.3. Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
- Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư
xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố;
- Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã,
phường và địa bàn phụ cận.
2.5. Theo tính chất và quy mô xây dựng:
Theo tiêu chí này, chợ được chia thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ
tạm:
2.5.1. Chợ kiên cố:
Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của một công trình
kiến trúc, có độ bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10 năm). Chợ kiên cố
thường là chợ loại 1 có diện tích đất hơn 10.000 m
2
và chợ loại 2 có diện tích đất
từ 6000-9000 m

2
. Các chợ kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh, thành phố lớn, các
huyện lỵ, trị trấn và có thời gian tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung
tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
2.5.2. Chợ bán kiên cố:
Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh những hạng mục xây
dựng kiên cố (tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạng mục xây dựng
tạm như lán, mái che, quầy bán hàng…, độ bền sử dụng không cao (dưới 10
năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán kiên cố thường là chợ loại 3, có điện tích đất
3000-50000 m
2
. Chợ này chủ yếu phân bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa
xôi, chợ liên xã, liên làng, các khu vực ngoài thành phố lớn.
2.5.3. Chợ tạm:
Là chợ mà những quầy, sạp bán hàng là những lều quán được làm có tính
chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh chóng và ít tốn
kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã, các thôn, có chợ
được dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định (như tết, lễ hội…).
3. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu
của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương
mại chưa hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của
các doanh nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy
nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
3.1. Về mặt kinh tế
Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp
xã hội :
- Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập
trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho

các thị trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng
hàng công nghiệp tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn.
- Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng,
lương thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên hiện
nay đã xuất hiện khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp
với chợ, vì thế bên cạnh việc mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ
chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất lượng hoạt động của chợ và đầu tư
nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.
Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân,
rõ nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần
tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các
phiên chợ, các buổi chợ là cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu
thông hàng hoá của mình, cập nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả
năng phản ứng của người dân với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý
thức được công việc làm ăn buôn bán của mình trong công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà
nước chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm
đầu tư phát triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà
nước khoảng 300.000 triệu đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực
tiếp).
Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản
xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung
để làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương
mại và không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.
3.2. Về giải quyết việc làm
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao
động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong
các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.
Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ

việc bán hàng, tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ
theo yêu cầu của khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp
ba lần số lượng người chỉ buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một
số lượng lớn công việc cho người lao động khi hoạt động.
3.3. Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi
phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng
dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng
sâu, vùng xa.
- Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy
chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc,
kể cả việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa
đôi, vì vậy người dân miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ
đi chợ mua sắm như là người dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này
thường tồn tại từ rất lâu đời, và nó là những bản sắc văn hoá vô cùng
đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
- Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là
địa điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa
tuổi, tất cả các thôn bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền
địa phương đã biết lấy chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác
và đấu tranh với những phần tử xuyên tạc đường lối của Đảng. Từ
phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật
nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều có thể được phổ biến một cách hiệu quả
ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được bố trí ở
trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí
trung tâm làm công tác tuyên truyền.
Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một
địa điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam
Định…). Nếu được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm

quản lý của Nhà nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch
trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia.
Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã
hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt
của người dân, nhưng không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói
chợ đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính
là sự hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó
là siêu thị và trung tâm thương mại.
II. Một số mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay ở nước ta
1. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý
1.1. Khái niệm:
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản
lý chợ: "Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí hoạt
động thường xuyên, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và có tài khoản riêng
tại Kho bạc Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ
chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ theo quy định của pháp luật".
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của chợ, Uỷ Ban Nhân Dân các
cấp có thẩm quyền quyết định lập và giao cho Ban quản lý chợ quản lý một hoặc
một số chợ (liên chợ) trên địa bàn theo phân cấp quản lý. Trường hợp lập Ban
quản lý liên chợ thì ở từng chợ có thể lập Ban hay tổ điều hành chợ.
Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước và các hoạt động
trong phạm vi chợ của một hoặc một số chợ; thực hiện ký kết hợp đồng với
thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ;
tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh
trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ trình
Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ
chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ
hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt
động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước
theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý chợ:
Trưởng BQL chợ
Phó BQL Bộ phận tổng hợp
Đội
bốc
xếp
vận
chuyển
Đội
bảo
vệ
Các
tổ dịch
vụ
Tổ
kiểm
tra
Tổ
điện
nước
Tổ vệ
sinh
môi
trường
Tổ
quản lý
ngành
hàng
Tổ kiểm
định số

lượng
chất
lượng
Tổ cung
cấp thông
tin thị
trường
Tổ
y tế
Tổ trông
giữ bảo
quản tài
sản
Theo thông tư số 06/2003/TT-BTM ngày 15 tháng 8 năm 2003 hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban quản lý chợ, Ban quản lý
chợ có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:
- Trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý chợ
quyết định:
• Phê duyệt Phương án sử dụng địa điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp
các ngành nghề kinh doanh tại chợ.
• Quy định cụ thể việc sử dụng, thuê, thời hạn với các biện pháp quản lý
điểm kinh doanh tại chợ.
• Phê duyệt Nội quy chợ.
• Phê duyệt Phương án bảo đảm Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi
trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
• Phê duyệt Kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển
các hoạt động của chợ khi có nhu cầu.
- Quyết định việc tổ chức đấu thầu theo quy định của Pháp luật để lựa
chọn thương nhân sử dụng hoặc thuê địa điểm kinh doanh tại chợ theo
Phương án đã được duyệt. Trong trường hợp số thương nhân đăng ký ít

hơn số điểm kinh doanh hiện có, Ban quản lý chợ được quyền quyết
định việc lựa chọn thương nhân, không phải tổ chức đấu thầu.
- Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại
chợ theo Phương án đã được duyệt.
- Tổ chức quản lý, điều hành chợ hoạt động, tổ chức thực hiện Nội quy
chợ và xử lý các vi phạm Nội quy chợ.
- Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn tổ
chức đảm bảo phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự
và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
- Tổ chức kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ như: trông giữ phương
tiện vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, cho thuê kho bảo quản cất giữ hàng
hoá, cung cấp thông tin thị trường, kiểm định số lượng, chất lượng hàng
hoá, vệ sinh môi trường ăn uống, vui chơi, giải trí và các hoạt động khác
trong phạm vi chợ phù hợp với các quy định của pháp luật và theo
hướng ngày càng văn minh hiện đại.
- Tổ chức thu, nộp tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh của thương nhân
và các loại phí, lệ phí về chợ theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đoàn thể tổ chức
thông tin kinh tế - xã hội, phổ biến hướng dẫn việc thực hiện các chính
sách, các quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của
thương nhân kinh doanh tại chợ; tổ chức các hoạt động văn hoá xã hội
tại chợ.
- Chịu trách nhiệm quản lý tài sản và kết quả tài chính của Ban quản lý
chợ theo quy đinh của pháp luật.
- Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ
cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại.
1.3. Về tổ chức
Ban quản lý chợ có Trưởng ban và có một đến hai Phó trưởng ban. Trưởng
ban, Phó trưởng ban do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.

Trưởng Ban quản lý chợ chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền về toàn bộ hoạt động của chợ và của Ban quản lý chợ. Phó trưởng
ban có trách nhiệm giúp trưởng ban và chịu trách nhiệm trước Trưởng ban thực
hiện một hoặc một số nhiệm vụ do Trưởng ban phân công.
Căn cứ tính chất, đặc điểm, khối lượng công việc và khả năng tài chính,
Trưởng ban quản lý chợ quyết định việc tổ chức các bộ phận chuyên môn
nghiệp vụ giúp việc quản lý, điều hành chợ hoạt động và tổ chức các dịch vụ tại
chợ; ký hợp đồng tuyển dụng lao động, các hợp đồng khác với các cơ quan,
doanh nghiệp về đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh
trật tự… trong phạm vi chợ theo quy định của pháp luật.
1.4. Các khoản thu từ hoạt động của chợ
Ban quản lý chợ được thu các khoản sau:
1. Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch
vụ, hàng hoá:
- Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng,
thuê điểm kinh doanh;
- Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ
hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác;
- Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí,
thu tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh
tại chợ); thu tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ
chức, cá nhân tham gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định
trong hợp đồng kinh tế ký kết với Ban quản lý chợ.
2. Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8
năm 2001, bao gồm:
- Phí chợ;
- Phí trông giữ xe;
- Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài

chính
- Phí phòng cháy, chữa cháy.
1.5. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ
Ban quản lý chợ được sử dụng các khoản thu ở trên để chi cho các nội dung
sau:
1.5.1. Đối với chợ loại 1 và loại 2:
- Chi hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ.
- Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, các khoản
phụ cấp lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn theo quy định.
- Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc,
họp bàn, hội nghị tổng kết, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà
cửa, máy móc, thiết bị…
- Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả thu theo hợp đồng uỷ nhiệm
thu).
- Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu
hao tài sản cố định).
- Chi khác.
Ban quản lý chợ được thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự
nghiệp có thu
1.5.2. Đối với chợ loại 3:
- Chi trả hoàn vốn đầu tư xây dựng chợ.
- Chi tiền công cho người lao động.
- Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc,
sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc, thiết bị…
- Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả các hoạt động thu theo hợp
đồng uỷ nhiệm thu).
- Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, khấu hao
tài sản cố định).
- Chi khác.

Ban quản lý chợ được sử dụng số thu để chi các khoản theo quy định, số
thu còn lại nộp ngân sách Nhà nước theo quy định phân cấp quản lý ngân sách
hiện hành.
1.6. Quyết toán các khoản thu, chi hoạt động của Ban quản lý chợ
- Hàng năm, Ban quản lý chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán
thu, chi kinh phí hoạt động trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo
sự phân cấp quản lý chợ.
- Ban quản lý chợ thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài
chính theo quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê áp dụng
cho các đơn vị hành chính sự nghiệp.
2. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp kinh doanh
khai thác và quản lý chợ)
2.1. Khái niệm:
Để hiều được doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là gì trước
hết cần phải định nghĩa khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là
thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một danh từ chung để chỉ
các đơn vị kinh doanh thuộc các loại hình khác nhau như doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp
vừa và nhỏ…
Theo Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua năm 1999 thì
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh.
Vậy tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (doanh nghiệp kinh
doanh, khai thác và quản lý chợ) là gì?
Ta coi chợ như một tổ chức hoạt động kinh doanh bình thường, các công
ty, các cá nhân, các tổ chức có mong muốn đều có thể tham gia đầu tư và tiến
hành xây dựng chợ, các cấp chính quyền địa phương thông báo mời thầu. Các tổ
chức, các cá nhân có khả năng có thể tham gia đấu thầu. Thông qua đấu thầu có

thể chọn ra được một tổ chức, một cá nhân có năng lực nhất để tiến hành đầu tư,
kinh doanh, khai thác, tổ chức và quản lý chợ đó. Khi đó, địa phương trên cơ sở
là chủ sở hữu đất cho thuê, có thể thu phí hàng năm, ngoài ra còn có thể thu
thêm Thuế Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (vì đây là doanh nghiệp
đầu tư để kinh doanh chợ).
Doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh chợ sẽ có doanh thu từ các khoản phí cho
thuê địa điểm chợ, các sạp chợ, các dịch vụ ở chợ… và cũng phải hoạt động độc
lập như các doanh nghiệp kinh doanh khác, vẫn chịu ảnh hưởng điều chỉnh của
Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh phải thu phí với
một mức phí hợp lý, để đảm bảo cho các hộ kinh doanh có thể buôn bán được tại
chợ. Ngoài ra còn có thể yêu cầu phía đơn vị kinh doanh lấy lao động trực tiếp ở
các địa phương nhằm giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
Vậy: Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là một doanh
nghiệp được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh
doanh chợ, đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
Giám đốc
Phó Giám đốc Phó Giám đốc
Phòng
Kinh doanh
Phòng
Kế toán
Phòng Hành
chính - tổ chức
Phòng
Quản lý chợ
Đội
bốc
xếp

Các
tổ
dịch
vụ
Tổ
kiểm
tra
Tổ
điện
nước
Đội
vệ sinh
môi
trường
Đội
bảo
vệ
Tổ
quản lý
ngành
hàng
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý
chợ
Doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ là đơn vị kinh tế hoạt
động theo Luật doanh nghiệp và các văn bản quy định của pháp luật, có trách
nhiệm và quyền hạn tổ chức thực hiện các quy định dưới sau:
- Được tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ trong phạm vi doanh
nghiệp quản lý.
- Đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh
trật tự và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi chợ.

- Xây dựng Nội quy trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt
theo phân cấp quản lý chợ, tổ chức điều hành chợ hoạt động theo Nội
quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ.
- Bố trí, sắp xếp khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cầu về trật tự, vệ
sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân
kinh doanh tại chợ.
- Ký kết hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh
doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật
và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo
hướng dẫn của cơ quan chức năng.
- Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ
cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.
2.3. Các khoản thu từ hoạt động chợ
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản
giống như Ban quản lý chợ, bao gồm:
1. Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch
vụ, hàng hoá:
- Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng,
thuê diểm kinh doanh.
- Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ
hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác.
- Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí,
thu tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh
tại chợ); thu tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ
chức, cá nhân tham gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định
trong hợp đồng kinh tế ký kết với Doanh nghiệp kinh doanh khai thác
và quản lý chợ.
2. Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8
năm 2001, bao gồm:

- Phí chợ.
- Phí trông giữ xe.
- Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí nêu trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ
Tài chính.
2.4. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ:
- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản
thu nêu trên.
- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải xây dựng kế
hoạch kinh doanh và phương án tài chính cho hoạt động của mình. Việc
xây dựng phương án tài chính dựa trên cơ sở các khoản thu để sử dụng
chi cho các mục đích như hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ, các chi phí
cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Tuỳ thuộc vào loại hình tổ chức (doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã,
công ty cổ phần…) và quy mô hoạt động của các loại chợ, doanh nghiệp
kinh doanh khai thác và quản lý chợ được áp dụng với quy định hiện
hành phù hợp với mỗi loại hình để tổ chức công tác kế toán, thống kê,
quản lý và sử dụng các khoản thu, chi liên quan đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải thực hiện chế
độ quyết toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp theo quy định pháp
luật.
Nhận xét chung: Mô hình tổ chức quản lý chợ chủ yếu hiện nay ở nước ta
là Ban quản lý chợ. Một số nơi đã mạnh dạn thành lập doanh nghiệp quản lý chợ
thuộc các thành phần kinh tế như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần
Thơ, Đồng Nai, Thành phố Hà Nội. Đã có cá nhân, các Công ty cổ phần, các
Hợp tác xã tiến hành đầu tư, kinh doanh khai thác và quản lý chợ, trong đó có
một số chợ gọi là công ty chợ như Công ty cổ phần chợ Đồng Xuân - Hà Nội.
Nhìn chung, công tác quản lý chợ theo hình thức doanh nghiệp kinh doanh khai

thác và quản lý chợ có hiệu quả hơn, khai thác triệt để các nguồn thu, công tác
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự… được quan tâm và
đảm bảo hơn.
Sự xuất hiện của các loại hình quản lý (cụ thể là hai loại hình trên) có thể
thấy rõ rằng, sự quản lý chợ ở nước ta đã dần dần được chuyên nghiệp hoá và
cách bố trí cũng như sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả hơn, đó là hiệu
quả của công tác quản lý. Nó hợp lý hoá cách phân bổ lực lượng lao động quản
lý, phân cấp quản lý tạo nên sự thống nhất, gắn trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa
vụ cụ thể cho từng cá nhân, tập thể, để họ hoạt động một cách độc lập, thống
nhất và hiệu quả.
Số lượng chợ hoạt động hiệu quả ngày càng tăng bằng các hình thức quản
lý chuyên nghiệp, tạo nên sự phát triển vững mạnh của mạng lưới chợ ở nước ta.
Số lao động quản lý trong chợ ngày càng tăng, có tình chuyên môn, nghiệp vụ
hơn là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chợ tại thời điểm hiện tại và cả
trong tương lai.
Khi công tác quản lý chợ được thực hiện một cách chuyên nghiệp, mọi hoạt
động của chợ đều được lên kế hoạch một cách hợp lý, hệ thống hạch toán kinh
doanh có thể cho biết kết quả của quá trình hoạt động của chợ, từ đó có thể đưa
ra những phương án hiệu quả để xử lý và khắc phục. Các hoạt động của chợ sẽ
chủ động hơn khi chúng ta nắm bắt được quy trình quản lý chợ một cách hợp lý
(như các khâu: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, lãnh đạo, kiểm tra và đánh giá
tổng kết…)
Nói tóm lại, nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một hệ thống quản lý ở
các chợ trong nước, mỗi chợ phải có một hình thức quản lý phù hợp thì nói mới
có thể hoạt động hiệu quả và có thể phát triển được trong tương lai.
III. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số nơi ở nước ta
Trong bối cảnh chợ phải đối đầu cạnh tranh gay gắt với các kênh bán lẻ
khác như siêu thị, cửa hàng và các đội quân bán hàng di động, nếu không theo
kịp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, mô hình chợ sẽ bị thu hẹp dần. Để vực
dậy hoạt động chợ, chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ là biện pháp khả thi

mà một số nơi đang tiến hành.
1. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở Thành phố Hồ Chí Minh: tư nhân quản lý
chợ.
Mặc dù chợ là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết
yếu phục vụ cho đời sống hàng ngày của người người dân, nhưng nhắc đến chợ
nhiều người tỏ ra rất ngán ngẩm, đó là do chuyện mất vệ sinh môi trường, lối đi
thì nhỏ hẹp và lầy lội, thêm nữa là vấn nạn tiểu thương nói thách, cân thiếu và
vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác có thể nói
là rất nhiều, nhất là các loại chợ tạm, chợ cóc. Do vậy, người dân thường chọn
cách đi siêu thị, dù giá có nhỉnh hơn chút ít nhưng mua sắm thoải mái và sạch
sẽ.
Theo Báo cáo của Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố
có khoảng 120 chợ chưa phù hợp với quy hoạch (chưa kể các chợ tự phát) nằm
rải rác ở các Quận như quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh, quận 8… Nhiều chợ
không có bãi giữ xe hoặc họp chợ gần ngay lòng lề đường, gây kẹt xe, mất trật
tự trên địa bàn. Ngoài ra Ban quản lý chợ năng lực còn hạn chế nên không tổ
chức quản lý tốt và không đảm bảo được tính văn minh thương mại trong chợ.
Trong bối cảnh đó thì tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 10 năm nay,
có tới gần 50 siêu thị, chưa kể các siêu thị thực phẩm nhỏ - minimart đã ra đời,
thu hút dần lượng khách của các chợ. Trước đây, siêu thị được đánh giá là nơi
mua sắm dành cho những người có thu nhập cao, nhưng hiện tại theo thăm dò và
thống kê tại các siêu thị, đa phần khách hàng thường xuyên của siêu thị là những
người có thu nhập trung bình và khá.
Trước tình hình cạnh tranh găy gắt giữa các kênh bán lẻ truyền thống và
hiện đại, tiểu thương nhiều chợ đã lâm vào cảnh ế ẩm. Ở một số Quận, với
những chợ do Nhà nước quản lý, ngay cả chợ mới tôn tạo, phía Nhà nước cũng
phải luôn bù lỗ huồng gì nói tới việc thu nộp ngân sách.
Để thúc đẩy hoạt động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong
dân thì việc nâng cấp, thay đổi cách quản lý chợ là rất cần thiết. Chính vì vậy,
Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã khuyến khích mọi thành phần

kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng và khai thác chợ. Trước mặt tư nhân mới chỉ
đấu thầu kinh doanh chợ (do Nhà nước xây dựng, làm chủ đầu tư), chứ chưa bỏ
tiền để xây dựng toàn bộ chợ.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992, Sở Thương Mại thành phố đã
thí điểm cho tư nhân đấu thầu kinh doanh chợ, nhưng ban đầu mới chỉ đấu thầu
từng phần (bãi giữ xe, thu lệ phí…) cho tới cuối năm 2004 thì đã có 18 chợ được
đấu thầu toàn phần.
Trước khi cho tư nhân quản lý, tổng doanh thu tại các chợ thuộc một số
quận chỉ đủ bù đắp cho chi phí quản lý chợ, còn chi phí đầu tư sửa chữa đều do
Ngân sách Nhà nước bỏ ra. Nhưng sau khi tổ chức đấu thầu, tổng số thu nộp
ngân sách tăng lên, thậm chí tăng lên 10 lần so với trước.
Chợ Tân Phú (thuộc quận Tân Bình) là chợ loại 2 (quy mô 310 sạp), được
tổ chức đấu thầu vào cuối năm 2001. Người trúng thầu là một cá nhân. Trước
khi đấu thầu, chợ này nộp ngân sách chỉ khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, nhưng
hiện nay đã tăng lên gần 30 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, các chi phí sửa chữa, tân
trang chợ, thuê nhân viên đều do chợ tự lo, không phải ngân sách cấp.
Còn đối với chọ Tân Hương (quận Tân Bình) đơn vị trúng thầu là Hợp tác
xã Tân Tiến. Khi chợ còn thuộc sự quản lý của phường, việc thu chi cũng không
cân đối đủ, huống gì chuyện sửa chữa chợ, dẫn đến tình trạng chợ xuống cấp,
tiểu thương và dân cư kêu ca. Đến nay, ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước mỗi
năm chợ bỏ ra từ 50-60 triệu đồng để duy tu, sửa chữa quầy sạp.
Tư nhân trực tiếp đứng ra quản lý được chủ động hoàn toàn vấn đề tài
chính nhưng vẫn theo chủ trương của Nhà nước, được Nhà nước theo dõi và hỗ
trợ nên hiệu quả sẽ cao hơn quản lý theo kiểu bao cấp. Một khi tư nhân tự bỏ
vốn và đứng ra quản lý thì họ sẽ tìm ra phương án kinh doanh tốt nhất để thu
được lợi nhuận cho mình, nếu không họ sẽ bị phá sản.
Ngoài vấn đề tài chính, vấn đề vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy,
an ninh trật tự… cũng được quản lý sâu sát hơn. Theo Sở Thương mại Thành
phố Hồ Chí Minh, trước kia (khi chưa tư nhân hoá) các vấn đề trên do phường,
quận thực hiện, phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng khác nhau và

phải chi cho ngân sách địa phương nên chỉ được thực hiện một cách lỏng lẻo.
Tại các chợ đã giao thầu, vấn đề trên được cải thiện hơn so với chợ do Nhà nước
trực tiếp trực tiếp quản lý. Ngoài ra các quầy sạp cũng được bố trí ngăn nắp, gọn
gàng hơn nên số tiểu thương tăng đáng kể.
Sau thời gian thí điểm đạt hiệu quả, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh đã ban hành quy chế đấu thầu chợ (có hiệu lực từ ngày 30/09/2004). Trên
cơ sở đó, Sở Thương mại sẽ tiếp tục tổ chức đấu thầu nhiều chợ tiếp theo trong
thời gian tới.
Việc cho tư nhân đầu thấu chợ là cơ chế quản lý tiến bộ, tăng ngân sách
Nhà nước, giảm chi phí quản lý và nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý chợ.
Tuy nhiên, từ nay, các cá nhân không còn được tham gia đấu thầu mà phải là các
tổ chức kinh tế (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã…,
trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Một tổ chức hay doanh
nghiệp sẽ có kinh nghiệm quản lý tốt hơn cá nhân, hơn nữa, để trúng thầu còn
phải có tiềm lực tài chính mạnh và uy tín trong kinh doanh. Sở Thương mại sẽ
chọn lọc những đối tượng dự thầu đầy đủ năng lực quản lý và tổ chức đấu thầu
minh bạch, công khai.
Khi tư nhân kinh doanh chợ, trước hết họ phải tìm cách thu hút các tiểu
thương (bằng chính sách, cơ sở vật chất và an ninh tốt). Nếu hoạt động của chợ
văn minh lịch sự thì người tiêu dùng chắc chắn sẽ gắn bó với chợ, vì chợ vốn là
nét văn hoá độc đáo của dân tộc.
2. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu
Long: Hợp tác xã quản lý chợ.
Theo Thống kê thì Thành phố Cần Thơ có 88 chợ, khoảng trên 50% là chợ
loại 3. Nhiều chợ xã, phường, thị trấn tương đối kiên cố nhưng không ít nơi còn
nhếch nhác do thiếu quan tâm tổ chức, quản lý, sắp xếp ngành. Nguồn phí chợ
thu được ít địa phương trích lại một phần cho tái đầu tư phát triển chợ. Bên cạnh
đó, các Ban quản lý chợ còn yếu kém, ít kinh nghiệm, chu yếu lo tập trung vào
thu lệ phí… chứ không mấy bận tâm đến công tác thăm dò thị trường, định kế
hoạch phát triển khai thác chợ sao cho người bán thì mong muốn có một chỗ

trong chợ để buôn bán thuận lợi, còn người mua thì khi có nhu cầu cũng nghĩ
ngay đến chợ "sạch sẽ ngăn nắp, giá cả phải chăng, cân đo trung thực". Đây là
hiện trạng khá phổ biến ở Thành phố Cần Thơ. Do đó để thúc đẩy hoạt động chợ
phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của dân cư, việc thay đổi hình thức tổ
chức quản lý đã được tiến hành. Uỷ ban nhân dân Thành phố Cân Thơ đã giao
17 chợ cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, khai thác kinh doanh. Mặc dù
đến nay mới chỉ có một số chợ do Công ty Thương mại Tổng hợp Thành phố
Cần Thơ khai thác được, số còn lại bị vướng mắc ở khâu giải phóng mặt bằng
nhưng các chợ khai thác được đều kinh doanh rất tốt, nộp ngân sách tăng nhanh.
Đến nay, Liên minh Hợp tác xã Thành phố Cần Thơ đã phối hợp với Sở
Thương mại khảo sát mạng lưới chợ, chủ yếu là các chợ laọi 3 trên toàn thành

×