Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Chuyển đổi mụ hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn Quận Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.49 KB, 70 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế như nước ta
hiện nay thì chợ đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội.
Đặc biệt khi mà đời sống người dân đang từng bước được cải thiện thì nhu
cầu tiêu dùng hàng hóa ngày càng nhiều hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Là một loại hình tổ chức thương mại hỗn hợp, Chợ đã xuất hiện từ
rất lâu và đã ăn sâu vào tiềm thức mua bán của người dân. Thông qua việc
sinh hoạt chợ và các loại hình tổ chức thương mại có nhận định được sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của một vùng, một địa phương.
Tuy nhiên trên thực tế hệ thống chợ ở nước ta còn tồn tại nhiều yếu
kém: cơ sở vật chất nhìn chung còn rất nghèo, lạc hậu. Việc đầu tư xây
dựng còn thiếu sự chỉ đạo thống nhất, việc xây dựng chợ còn vội vàng
thiếu sự tính toán điều tra khảo sát vào nhu cầu thực tế. Công tác quy hoạch
chợ còn chưa đồng nhất và chưa phù hợp với sự phát triển của từng vùng
từng địa phương. Nhiều chợ sau khi xây dựng đã đi vào hoạt động nhưng
không mang lại hiệu quả, thâm chí xây dựng xong lại không có hộ kinh
doanh tham gia buôn bán tại chợ đó ví dụ điển hình như chợ đầu mối Bắc
Thăng Long tuy đã được xây dựng với quy mô khá lớn được tính toán là
chợ đầu mối phía bắc thủ đô Hà Nội từ nhiều năm nay nhưng đến hiên nay
vẫn chưa đi vào hoat động. Măt khác Việt Nam đang trên con đường hội
nhập về kinh tế đòi hỏi hoạt đong thương mại ngày càng phải diễn ra mạnh
mẽ hơn, hệ thống chợ phải hoạt động có hiệu quả hơn, hiện đại hơn nhằm
đẩy mạnh hoạt động mua bán tại các chợ. Thêm vào đó, ngày càng có
nhiều các siêu thị, các trung tâm thương mại hiện đại mọc lên đáp ứng nhu
cầu mua sắm của người tiêu dùng tốt hơn cạnh tranh trực tiêp với hoạt động
kinh doanh tại chợ.
Thực tế cho thấy mô hình tổ chứcquản lý Chợ hiện nay còn bộc lộ
nhiều hạn chế như:
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


- Công tác quản lý còn nhiều hạn chế và yếu kém, đội ngũ cán bộ
quản lý nhiều người còn chưa qua đào tạo, hạn chế về năng lực và chuyên
môn…
- Mô hình tổ chức không thống nhất, nhiều đầu mối kinh doanh, khai
thác, quản lý chợ chưa có hiệu quả.
- Mô hình quản lý chợ hiện nay chưa huy động được các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh khai thác quản lý chợ, hàng
năm quận vẫn phải chi ngân sách khá lớn vào đầu tư xây dựng, cải tạo nâng
cấp chỉnh trang chợ.
Vì vây, điều quan trọng hiện nay để khắc phục những hạn chế trên
Quận Cầu Giấy cần xây dựng đề án: “Chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý
chợ trên địa bàn Quận Cầu Giấy”. Bài viết được dưới sự hướng dẫn của
thầy giáo Gs.Ts Đỗ Hoàng Toàn và sự giúp đỡ chỉ bảo nhiệt tình của các cô
các chú, các anh công tác tại phòng KTKH Quận Cầu Giấy. Xong với năng
lực có hạn bài viết không tránh khỏi những thiếu sót rất mong có sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô và các bạn quan tâm để bài viết này được hoàn
chỉnh hơn.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỢ
I - KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ CHỢ.
1. Khái niệm về chợ :
- Theo khái niệm thường dùng trong lĩnh vực thương mại: chợ là
loại hình thương nghiệp truyền thống phát triển khá phổ biến ở nước ta;
chợ là hiện thân của hoạt động thương mại, là sự tồn tại của không gian thị
trường mỗi vùng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xã, vùng biên
giới và tập trung nhiều nhất ở các vùng đô thị các thành phố lớn.
- Khái niệm về chợ theo quy định của Nhà nước :
Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về
phát triển và quản lý chợ :

(1) Phạm vi chợ : là khu vực kinh doanh dành cho hoạt động chợ, bao
gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như : bãi để
xe, kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường
bao quanh chợ.
(2) Chợ đầu mối : là chợ có vai trò chủ yếu, thu hút, tập trung lượng
hàng hóa từ các nguồn, sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của
ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
(3) Chợ kiên cố : là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng
trên 10 năm.
(4) Chợ bán kiên cố : là chợ được xây dựng đảm bảo có thời gian sử
dụng từ 5 năm đến 10 năm.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
(5) Điểm kinh doanh tại chợ : bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa
hàng được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có
diện tích quy chuẩn tối thiểu là 3m
2
/điểm.
2 - Đặc trưng về chợ:
- Chợ là một địa điểm công cộng mà tại đó việc mua bán, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ của dân cư, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt của
mọi người. Bất cứ ai có nhu cầu đều có thể thực hiện mua bán, trao đổi hàng
hóa mình mong muốn.
- Sự hình thành của chợ do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao
đổi hàng hoá, dịch vụ của con người. Chợ có thể hình thành một cách tự phát
hoặc quá trình nhận thức sự tự giác của con người.
- Các hoạt động mua, bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường
diễn ra theo một quy luật và chu kỳ thời gian nhất định có thể theo ngày, buổi
phiên. Thời gian và chu kỳ họp chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và sinh hoạt và tập quán của từng vùng, từng địa phương nhất định.

- Chợ là một loại hình kinh doanh hỗn hợp, bao gồm nhiều loại hàng
hóa được bày bán, giá rẻ hơn các trung tâm thương mại lớn. Chợ thể hiện
nhiều nét văn hóa truyền thống của người dân từ xa xưa đặc biệt là ở các
vùng quê hơn nữa loại hình sinh hoạt chợ nó đã ăn sâu vào tâm lý mua bán
của người dân từ xưa đến nay.
II – PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG
KINH TẾ XÃ HỘI.
1- Phân loại chợ theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng
của chợ:
Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về
phát triển và quản lý chợ, có các loại chợ như sau :
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Loại 1 : là chợ có trên 400 điểm kinh doanh
(*)
, được đầu tư xây dựng
kiên cố, hiện đại theo quy hoạch; được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế
thương mại quan trọng của tỉnh, thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành
hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức thường xuyên; có mặt bằng phạm
vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ
tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo
lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm và
các dịch vụ khác.
- Loại 2 : là chợ có trên 200 điểm kinh doanh(*), được đầu tư xây dựng
kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch; được đặt ở trung tâm giao lưu kinh
tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường
xuyên; có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động chợ và tổ
chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ : trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo
quản hàng hóa, dịch vụ đo lường.
- Loại 3 : là các chợ dưới 200 điểm kinh doanh(*) hoặc các chợ chưa

được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố ; chủ yếu phục vụ nhu cầu
mua bán hàng hóa của nhân dân trong xã, phường và địa điểm phụ cận.
2- Phân loại chợ theo tính chất mua bán:
Dựa theo tiêu thức này người ta có thể chia chợ ra làm hai loại là chợ
bán buôn và chợ bán lẻ.
Chợ bán buôn : Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao
trên 60-70%, đồng thời vẫn có bán lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ. Thường tập trung
bán buôn ở các chợ cấp vùng và cấp thành phố, thị xã, thị trấn, có phạm vi
hoạt động lớn tập trung khối lượng hàng hoá lớn, hoạt động mua bán chủ yếu
là thu gom hàng hoá và phân luồng hang hoá các nơi. Các chợ này thường là
nơi cung cấp hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, cho chợ bán lẻ và ngoài khu
vực, nhiều chợ là nơi thu gom hàng xuất khẩu.
(*)
Điểm kinh doanh ≥ 3m
2
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chợ bán lẻ : là những chợ thuộc cấp xã, phường (liên xã, liên phường),
cụm dân cư hàng hoá qua chợ chủ yếu là bán lẻ, bán chủ yếu cho người tiêu
dùng trực tiếp hàng ngày.
3 - Phân loại theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh:
Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.
Chợ tổng hợp: Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều
ngành khác nhau. Trong chợ, tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng
(quần áo, giày, dép, các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia dụng...),
công cụ lao động nông nghiệp (cuốc, xẻng, liềm, búa...), cây trồng, vật
nuôi...chợ đáp ứng nhu cầu toàn bộ của khách hàng.Hình thức chợ tổng hợp
này thể hiện những đặc trưng của chợ truyền thống, ở nước ta hiện nay loại
hình này vẫn chiếm ưu thế về số lượng cũng như về thời gian hình thành và
phát triển.

Chợ chuyên doanh : là chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính
yếu, mặt hàng này thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời có bán một số
mặt hàng khác, các loại hàng khác có doanh số dưới 40% tổng doanh thu.
Nhiều chợ chỉ chuyên doanh một hoặc một nhóm mặt hàng nhất định, như
chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ cá biển, chợ rau quả, chợ cây cảnh,
chợ tôm, chợ giống, chợ bò sữa…
4 - Theo địa giới hành chính:
Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chọ đô thị và chợ nông
thôn.
Chợ đô thị: Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã,
thị trấn. Do ở đây, đời sống văn hóa có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên
các chợ ở thành phố có tốc độ đô thị hóa cao hơn ở nông thôn, văn minh
thương mại cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường
bổ xung và hoàn chỉnh. Phương tiện để phục vụ mua bán, hệ thống truyền
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thông và dịch vụ ở chợ này thường tốt hơn các chợ ở nông thôn. Tuy nhiên,
như thế đồng nghĩa với việc các chợ ở đô thị sẽ mang tính hiện đại của một
loại hình thương mại mới và tính truyền thông trong chợ sẽ dần dần bị mai
một.
Chợ nông thôn: là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung
tâm cụm xã. Hình thức mua bán đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng
núi người dân tộc thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ),
các quầy, sạp có quy mô nhỏ, lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông thôn thể
hiện đậm đà bản sắc truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, các vùng lãnh
thổ khác nhau.
5 - Phân loại theo tính chất và quy mô xây dựng:
Theo tiêu thức này có ba loại chợ là: chợ kiên cố, bán kiên cố và chợ
tạm.
Chợ kiên cố: là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đầy đủ các yếu tố

của một công trình kiến trúc, có độ bền sử dụng cao. Chợ kiên cố thường là
chợ loại I có diện tích đất hơn 10.000 m
2
và chợ loại II có diện tích đất 6.000
m
2
đến 9.000 m
2
. Các chợ kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh thành phố lớn,
các huyện lỵ, thị trấn và có thời gian tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và
là trung tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
Chợ bán kiên cố: là chợ chưa hoàn chỉnh, bên cạnh những hạn mục
xây dựng kiên cố (cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạn mục xây dựng tạm
như lán, quầy bán hàng... độ bền sử dụng không cao và thiếu tiện nghi. Chợ
bán kiên cố thường là chợ loại III, có diện tích đất 3.000m
2
– 5.000m
2
. Chợ
này chủ yếu phân bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa xôi, chợ liên xã,
liên vùng, các khu vực ngoài thành phố lớn.
Chợ tạm: là chợ mà những quầy sạp bán hàng là những lều quán được
làm có tính chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chóng và ít tốn kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã,
các thôn, có chợ được dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định
(như tết, lễ hội...).
6 - Vai trò của chợ đối với đời sống kinh tế xã hội:
6.1 - Về mặt kinh tế:

- Chợ là bộ phận quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư
thương trong các hoạt động buôn bán hàng hóa.
- Vị trí vai trò của chợ đối với sinh hoạt của dân cư ở khu vực nội
thành: Đối với khu vực nội thành, chợ hiện nay vẫn có vai trò quan trọng đối
với các loại hàng hóa như thực phẩm tươi sống, trái cây, đồ gia vị và nhiều
loại hàng hóa khác. Tuy nhiên hiện nay ở thành phố xuất hiện khá nhiều loại
hình kinh doanh cạnh tranh với hoạt động kinh doanh tại chơ. Mặc dù mạng
lưới siêu thị, cửa hàng bán lẻ xuất hiện nhiều nhưng chưa thể thay thế được
vai trò của chợ đối với những mặt hàng này.
Mặt khác, tổng mức hàng hóa bán ra ở các chợ nội thành vẫn chiếm tỷ
trọng lớn, góp phần quan trọng vào việc tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra cũng
như đóng góp cho ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, hạn chế phát sinh
các chợ tự phát. Hơn nữa, siêu thị chưa tỏ ra thích hợp với một bộ phận lớn
dân cư có thu nhập thấp, hàng ngày phải đi chợ mua thực phẩm. Chợ ở các
khu vực nội thành còn là nơi hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước đến
tham quan, mua sắm. Như vậy, chợ còn là nơi góp phần tạo nên bản sắc văn
hóa truyền thống của thành phố.
- Vị trí, vai trò của chợ đối với sinh hoạt dân cư ở khu vực ngoại
thành:Đối với khu vực ngoại thành và các quận ven, mạng lưới thương mại
dịch vụ chưa thật sự phát triển; chợ là địa điểm chính diễn ra các hoạt động
mua bán, trao đổi hàng hóa quan trọng nhất của nông thôn, nông dân ngoại
thành. Mặt khác, khu vực ngoại thành, các quận ven sẽ là nơi tập trung các
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chợ đầu mối quan trọng nhất của thành phố, cung cấp hàng hóa cho toàn
thành phố và phục vụ xuất khẩu.
- Hình thức buôn bán tại chợ làm tăng nhận thức của người dân về
kinh tế hàng hóa. Đặc biêt là ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng
cao hoạt động chợ làm thúc sản xuất phát triển, tiêu dùng làm tăng kênh
thông tin cho sự câp nhật thông tin, tăng vốn hiểu biết của người dân về các

vấn đề xã hội. Trong các phiên chợ, buổi chợ là cơ hội cho người dân làm
tăng khả năng phản ứng của người dân với thị trường, với sự thay đổi của xã
hội và tự mình có thể làm chủ được công việc làm ăn buôn bán của chính
mình trong công cuộc đổi mới.
- Chợ là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Các khoản thu
tại các chợ đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách của nhà nước. Các
nguồn thu chủ yếu là từ thuế kinh doanh buôn bán tại chợ, lệ phí chỗ ngồi và
tiền thuê mặt bằng kinh doanh tại chợ. Tuy nhiên hiện nay nhà nước vẫn
chưa thục sự quan tâm sâu sắc vào loại hình kinh doanh tại các chợ nhằm
nâng cao dịch vụ chợ.
- Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển của các ngành
nghề sản xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất
nước đến tập trung làm ăn buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các
khu trung tâm thương mại và không ít số đó đã trở thành những đô thị sầm
uất.
6.2 - Về việc giải quyết việc làm.
Chợ là nơi giải quyết việc làm cho nhiều người lao động đặc biệt là
những người lao động phổ thông không có trình độ học vấn cao, khó hoặc
không thể xin việc tại các doanh nghiêp đòi hỏi có trình độ về tri thức. Chỉ
với phep tính đơn giản sau; nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến
2 người giúp việc, những nhân viên bán hàng, người phục vụ tổ chức nguồn
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng để đưa về chợ... thì số người lao động tại chợ sẽ tăng lên đến 2 hoặc 3
lần so với số lượng người chỉ buôn bán trực tiếp ở chợ. Chính vì điều này chợ
đã giải quyết được một số lượng công việc lớn cho người lao động. Ngoài
những người tham gia buôn bán trực tiêp tai chợ chúng ta còn phải nói đên
một số lượng Cán bộ công nhân viên phục vụ tại các chợ đê đảm về mặt an
ninh chợ và công tác quản lý chợ. Dưới đây là bản số liệu tổng số CBCNV
phục vụ tai các chợ trên địa bàn quận.

Bảng tổng hợp số lượng Cán bộ công nhân viên quản lý, phục vụ tại
các chợ.
6.3 - Về việc giữ gìn bản sắc dân tộc và đối với người dân.
Có thể nói, chợ là bộ mặt kinh tế xã hội của một địa phương và là nơi
phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của một vùng
dân cư. Tính văn hóa của chợ được thể hiện rõ nhất là các chợ ở miền núi,
vùng cao, vùng sâu, vùng xa hơn là các chợ tại các đô thị lớn hay ở thành
phố. Ngoài mục tiêu mua bán còn đến chợ là nơi giao tiếp, trao đổi công việc.
Chợ còn là nơi hò hẹn của các đôi trai gái, vì vậy người dân miền núi thường
gọi là đi “chơi chợ” thay cho từ đi chợ mua sắm như người dưới xuôi thường
gọi. Các phiên chợ này nó tồn tại từ lâu đời và nó là những bản sắc văn hóa
vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
Ở miền núi vùng cao, vùng sâu vùng xa, chợ là điểm duy nhất hội tụ
đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, nhiều thôn bản và nhiều các
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Tên chợ Nghĩa
Tân
Đồng
Xa
Cầu
Giấy
Nhà
Xanh
Quan
Hoa
Nông
Sản
Dịch
Vọng
Xe

máy
Dịch
vọng
Hợp
Nhất
Trần
Duy
Tổng số
CBCNV
(người)
26 29 15 11 07 18 26 06 10
Số biên
chế
05 05
Số hợp
đồng
21 24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dân tộc người thiểu số. Vì thế đã từ lâu chính quyền địa phương đã biết lấy
chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử
xuyên tạc đường lối của Đảng. Hình ảnh khá quen thuộc đối với công tác vận
động nhân dân tham gia chiến đấu giành chính quyền tại các cùng đó “giải
truyền đơn” của Đảng.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ HÌNH THÀNH
CHỢ.
1 - Sự phát triển của sản xuất và nhu cầu tiêu dùng xã hội.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, năng suất lao động ngày
càng được nâng lên, sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều, khi đó nhu cầu
giao lưu trao đổi mua bán sảy ra kèm theo đó là sự phát triển chuyên môn hóa

về sản xuất, mỗi người mỗi đợn vị sản xuất chỉ sản xuất ra một loại hàng hóa
hiệu quả, mà tiêu dùng của con người ngày càng tăng do đó nhu cầu trao đổi
càng tăng lên. Và khi đó, nơi nào là trung tâm, đảm bảo các điều kiện thuận
tiện (là trung tâm người mua, trung tâm của người bán, thuận tiện trong việc
đi lại vận chuyển...) nó sẽ trở thành địa điểm trao đổi mua bán, và được hình
thành tồn tại với sự chấp nhận của người bán cũng như người nua.
2 - Hệ thống chính sách pháp luật về chợ và quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội.
Chợ được hợp pháp hóa khi có đủ điều kiện mà pháp luật đề ra. Tuy
nhiên đối với các chợ truyền thống đã tồn tại từ lâu đời thì hầu như đã được
pháp luật đương thời, cũng như trong quá khứ chợ đã đủ điều kiện tồn tại và
phát triển. Khi có một chợ nào đó xuất hiện làm đảo lộn trật tự địa phương,
an ninh xã hội làm ảnh hưởng tới các công trình phúc lợi, cũng như ảnh
hưởng tới mỹ quan đô thị, ảnh hưởng tới việc quy hoạch tổng thể của các địa
phương, quận huyện, thành phố và không phù hợp với mục tiêu đường lối
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của các chính sách kinh tế xã hội đối với từng vùng từng địa phương, không
đúng pháp luật thì sẽ bị loại bỏ. Còn những chợ phù hợp và thỏa mãn những
điều kiện bức thiết mà dân cư mong muốn sẽ được nhà nước và địa phương
đầu tư xây dựng chỉnh trang cải tạo, phát triển.
3 - Sự xuất hiện và phát triển của các trung tâm thương mại lớn.
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế thị trường trong nước, hơn
một thập niên trở lại đây, các thành phố lớn rầm rộ với sự tăng lên một cách
mạnh mẽ về số lượng các trung tâm thương mại (đặc biệt là siêu thị, sau đó là
các hội chợ thương mại, cửa hàng bán lẻ, các doanh nghiệp, công ty thương
mại...), chủ yếu là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Siêu thị là một
trong những loại hình thương mại mới, nó đang được người dân thành thị tiếp
nhận một cách nhanh chóng và số lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, tại sao
các chợ bán lẻ vẫn tồn tại, phát triển và có một thị phần lớn ở nước ta hiện

nay. Để hiểu thêm về vấn đề này, ta có thể xem xét một số nét của siêu thị:
Một số đặc trưng nổi bật về siêu thị.
Theo Từ điển kinh tế thị trường thì: “Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ
bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng
như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và một số loại vật dụng khác”.
Tuy vậy, càng ngày siêu thị càng phát triển về số lượng cũng như quy
mô, chất lượng các loại mặt hàng, dịch vụ phục vụ... chứ không còn bó hẹp ở
một số mặt hàng như trên nữa. Ta có thể thấy được những nét đặc trưng cơ
bản của siêu thị là:
- Siêu thị là một cửa hàng bán lẻ.
- Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ.
- Siêu thị thường chú trọng ở nghệ thuật trưng bày hàng hóa.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Siêu thị áp dụng các hình thức quản lý, bán hàng và thanh toán bằng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ (tin học, điện tử, khoa học xã hội
trong bán hàng...) hơn hẳn các chợ hiện đang tồn tại.
So sánh giữa chợ và siêu thị:
Đối với siêu thị:
- Điểm mạnh: Hàng hóa trong siêu thị thường là các hàng hóa có rõ
nguồn gốc xuất xứ, giá cả được niêm yết rõ ràng, hợp lý (giá cả trong siêu thị
thường chỉ đăt hơn 2% so với giá bán ở các đại lý bán lẻ), măt bằng xây dựng
có thể tuy theo diện tích có, không gian chiếm ít phù hợp với tình trạng thiếu
thốn đất như ở các thành phố lớn. Hơn nữa, vệ sinh môi trường ở các siêu thị
rất tốt, khách hàng thoải mái lựa chọn hàng hóa mà không bị bắt phải mua
như ở một số chợ, sự bố trí hàng hóa mang tính khoa học dễ tìm kiếm và lựa
chọn măt hàng mà khách hàng muốn...
- Điểm yếu: Chi phí cho đầu tư xây dựng ban đầu là lớn và rất tốn
kém, các khách hàng đến siêu thị mua hàng thường là các khách hàng có thu
nhập cao trong khi đó ở nước đa số người dân có mức thu nhập trung bình và

thấp. Vì thế,sự phát triển của siêu thị thường là các đô thị lớn của thành phố.
Trong khi đó phần lớn người dân của nước ta lại chưa có thói quen mua sắm
tại các siêu thị và nó chưa phù hợp với tâm lý người tiêu dùng có mức thu
nhập trung bình và thấp.
Đối với chợ :
- Điểm mạnh: Số lượng hàng hóa đa dạng nhiều chủng loại, giá cả,
phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng mà đa số là người dân lao động, nó
là một loại hình truyền thống ăn sâu vào tiềm thức của người dân, sự giao lưu
mua bán thuận tiện...
- Điểm yếu: Ảnh hưởng tới vệ sinh môi trường, hàng hóa không đảm
bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, an ninh lộn xộn, tranh cãi lấn
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chiếm, hoat động kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún, ... hàng hóa thì không rõ
nguồn gốc xuất xứ, giá cả bất thường không chính xác mất thời gian mặc cả.
Hàng hóa bày bán trong chợ thường lộn xộn không phân định rõ ràng
về địa điểm bày bán các loại hàng hóa khác nhau.
4 - Sự gia tăng dân số trên địa bàn quận:
Năm 2005 tỷ suất sinh trên địa bàn Quận Cầu Giấy là là 13%o, giảm
0,1%o so với năm trước (Nghị quyết HĐND là giảm 0,1%o), tỷ lệ sinh con
thứ 3+ là 2,99%, giảm 0,06% (UB Dân số - Gia đình và Trẻ em Thành phố
giao là giảm 0,03%, Nghị quyết HĐND là không quá 2,6%) (Theo báo cáo
năm 2005 về kinh tế Quận Cầu Giấy). Tuy có nhiều cố gắng trong công tác
kế hoạch hóa gia đình, tuyên truyền vận động để giảm bớt sự gia tăng tư
nhiên, nhiều điều không thể không nói đến đó là sự gia tăng cơ học. Khi mà,
với qua trình đô thi hóa nhanh như hiện nay thì hàng năm quận phải đón tiếp
hàng nghìn lao động từ ngoại tỉnh đến làm ăn kiếm sống và cùng sự di dân từ
nông thôn ra thành thị đã làm cho Quận có số lượng dân cư khá đông. Hơn
thế nữa khi dân số tăng cao thì nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng cao lại càng
thúc đẩy hoạt động mua bán dẫn đến hình thành các chợ tự phát ngay trên các

tuyến phố, ngõ có diện tích đủ để bày bán.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ QUẢN VÀ CÁC
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CHỢ HIỆN NAY TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY.
I – SƠ LƯỢC VỀ SỐ LƯỢNG VÀ SỰ PHÂN LOẠI CÁC CHỢ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY.
1 – Về số lượng.
Toàn quận có 10 chợ đang hoạt động, trong đó có 3 chợ loại II (Cầu
Giấy, Nghĩa Tân, Đồng Xa); 7 chợ loại III, có 3 Ban quản lý chợ do quận
quản lý, mỗi Ban quản lý chợ quản lý 2 chợ như BQL chợ Cầu Giấy quản lý
thêm chợ Quan Hoa, BQL chợ Nghĩa Tân quản lý thêm chợ Nhà Xanh;
BQL chợ Đồng Xa quản lý thêm chợ đêm nông sản Dịch Vọng.
Có 3 chợ do HTX (HTX dịch vụ nông nghiệp Trung Hoà, HTX dịch
vụ nông nghiệp Hợp Nhất, HTX dịch vụ nông nghiệp Dịch Vọng) quản lý và
khai thác (chợ Trung Hòa, chợ Hợp Nhất và chợ xe máy - đồ cũ Dịch Vọng,
chợ 337 Dịch Vọng). Và một số chợ tạm do phường khai thác như: Nghĩa
Tân, Nghĩa Đô, Yên Hoà …Hiện đang chuẩn bị đầu tư xây dựng chợ Bái Ân
(Nghĩa Đô). Dưới đây là điều tra sắp xếp phân loại các chợ trên địa bàn Quận
Cầu Giấy năm 2004.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
BẢNG TỔNG HỢP ĐIỀU TRA PHÂN LOẠI CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU
GIẤY NĂM 2004
Ngoài hệ thống chợ còn có hệ thống các Siêu thị tại các khu đô thị mới
và một trung tâm thương mại BigC, trung tâm thương mại Cầu Giấy.
Ngoài hệ thống chợ được hình thành do đầu tư xây dựng theo kế hoạch
phát triển mạng lưới chợ ở trên, trên địa bàn còn hình thành một số loại hình
chợ tạm, chợ cóc và các chợ tự phát ở các khu đông dân cư và các khu dân cư

mới.
Sau đây là một số đặc điểm về sự hình thành và nguyên nhân hình
thành chợ tạm cũng như những ảnh hưởng của loại chợ này đối với đời sống
kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Cầu Giấy.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
TT
Tên
chợ
Diện tích (m2)
Tổng
diện
tích
D/tích
xây
dựng
Số
điểm
kinh
doanh
tại
chợ
Số Hộ kinh
doanh
Quy mô kiến trúc Dịch vụ tại chợ
Tổng
số hộ
kinh
doanh
Hộ
kinh

doanh
cố
định
Số
tầng
Kiên
cố
Bán
k/cố
Vệ
sinh
Bảo
vệ
đêm
Trông
giữ
xe
Kiến
nghị
xếp
loại
chợ
1.
Cầu
Giấy
1639 2000 204 157 157 2 x x x x x III
2.
Quan
Hoa
942 555 94 88 68 x x x III

3.
Nhà
Xanh
1470 170 220 157 x x x III
4.
Nsản
Dịch
Vọng
3964 898 x x x II
5.
Đồng
Xa
9739 3320,
4
456 456 456 x x x x II
6.
Nghĩa
Tân
5517 3142,
8
512 558 476 1 x x x x II
7.
Xe máy
D/Vọng
5900 2200 195 195 195 1 x x x x III
8.
Trần
Duy
Hưng
1500 800 185 185 170 x x x x III

9.
Hợp
Nhất
3203 873 194 170 150 x x x x III
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2 - Về đặc điểm hình thành chợ tự phát:
Do sự bùng nổ phát triển dân cư trên địa bàn Quận Cầu Giấy trong
những năm gần đây, nhất là các khu đông dân cư, khu dân cư mới. Trên địa
bàn quận đã hình thành và phát triển nhiều chợ tự phát không phù hợp với
quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Quận, không đảm bảo lộ giới, lấn
chiếm lòng lề đường, gây ách tắt giao thông, không đảm bảo vệ sinh môi
trường, vệ sinh thực phẩm, an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy. Đến cuối
năm 2005 trên địa bàn quận Cầu Giấy đã có 25 tụ điểm chợ tự phát, chợ tạm
chợ cóc các loại.
- Chợ tự phát hình thành bằng hai cách :
+ Chợ tự phát hình thành xuất phát từ nhu cầu khách quan ở những
khu vực không có chợ, như các khu dân cư mới , khu dân cư quá đông chợ
trước đây được xây dựng quá xa so với vùng dân cư mới phát triên.
+ Chợ tự phát hình thành ở những khu vực chung quanh chợ chính
thức (ăn theo chợ chính thức, bày bán lề đường vào chợ chính). Hầu hết các
chợ chính thức đều có chợ tự phát hình thành. Việc hình thành các chợ tự
phát ăn theo chợ chính thức chủ yếu xuất phát từ vấn đề quản lý nhà nước
chưa thật sự hiệu quả. Điều này đặt ra vấn đề là muốn xử lý chợ tự phát
không phải chỉ xây thêm chợ là đủ mà phải tăng cường công tác quản lý ở
những khu vực có chợ chính thức đang hoạt động.
- Nguyên nhân hình thành chợ tự phát :
Thứ nhất, do tốc độ đô thị hóa trên địa bàn quân rất nhanh. Những
người không có công ăn việc làm ở các tỉnh đổ xô về thành phố sinh sống
bằng đủ loại nghề khác nhau. Vì vậy, chợ và các khu dân cư mới hình thành,
các công sở, trường học, bệnh viện,… là những nơi mà dân nhập cư tìm đến

để kiếm sống bằng nghề buôn bán nhỏ. Ngoài ra, một bộ phận dân cư thành
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phố không có công ăn việc làm cũng tìm đến các chợ để buôn bán. Qua thời
gian các khu vực này hình thành các chợ tự phát.
Thứ hai, do thói quen sở thích của nhiều người tiêu dùng, chỉ thích
mua hàng hóa, nhất là hàng nông sản thực phẩm tươi sống (rau, quả và hải
sản...) và tiêu dùng hàng ngày bán dọc theo lòng, lề đường, vỉ hè và khu vực
chung quanh chợ, vì như vậy vừa nhanh mà lại không cần phải gửi xe mất
tiền.
Thứ ba, các cấp chính quyền địa phương, nhất là công an phường
buông lỏng quản lý, chưa xử lý nghiêm túc và triệt để việc mua bán lấn
chiếm lòng, lề đường và khu vực quanh chợ theo các văn bản quy định của
Chính phủ, UBND Thành Phố và của UBND Quận, thậm chí có địa phương
phường coi việc hình thành và phát triển chợ tự phát là nguồn thu của
phường.
Thứ tư, do yếu kém về quản lý:
+ Việc quy hoạch đầu tư phát triển chợ của các cấp chính quyền chưa
được coi trọng, dẫn đến nhiều khu vực không có chợ.
+ Đối với những khu vực đã có chợ nhưng các cơ quan chức năng
không kiên quyết xử lý các hộ kinh doanh tự phát mới chớm hình thành mà
để tồn tại một thời gian dài dẫn đến việc rất khó giải quyết sau này.
+ Các cơ quan chức năng thiếu sự phối hợp với nhau trong việc giải
quyết các chợ tự phát trên phạm vi từng phường, và các tuyến phố trên địa
bàn quận. Điều này dẫn đến tình trạng giải tỏa nơi này thì các hộ tiểu thương
chạy về nơi khác tiếp tục kinh doanh.
+ Việc giải tỏa các chợ tự phát còn thụ động, chủ yếu mang tính chất
đối phó, chưa giải quyết được vấn đề căn bản là đào tạo nghề cho những
người này để họ có thể từ bỏ nghề buôn bán tự phát lấn chiếm lòng lề đường.
Vì vậy, mặc dù có nhiều nỗ lực, nhưng việc giải tỏa chợ tự phát vẫn chưa

SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mang lại kết quả mong muốn. Điều này cho thấy, việc giải tỏa chợ tự phát là
vấn đề của toàn xã hội chứ không phải chỉ một cơ quan chức năng nào.
Thứ năm, ở một số các chợ chính thức trên địa bàn không đảm bảo
những điều kiện về cơ sở vật chất, vệ sinh môi trường, không có bãi giữ xe
làm cho người đi chợ không muốn vào chợ mua sắm.
Các nguyên nhân chủ yếu trên đưa đến hậu quả các năm gần đây trên
địa bàn Quận Cầu Giấy chợ tự phát phát triển rất nhanh, rất phức tạp, hiệu
lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các chợ tự phát còn rất thấp so với
yêu cầu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội của Quận Cầu
Giấy nói riêng và của Thành Phố Hà Nội nói chung.
- Những ảnh hưởng của chợ tự phát đối với đời sống kinh tế-xã hội
trên địa bàn Quận Cầu Giấy.
Trên thực tế, chợ tự phát góp phần đáp ứng nhu cầu mua sắm của dân
cư ở những khu vực không có chợ. Tuy nhiên, xét trên bình diện chung, chợ
tự phát có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn quận
Cầu Giấy nói chung và đối với các chợ chính thức nói riêng.
Trước hết, chợ tự phát cạnh tranh không bình đẳng với các chợ chính
thức. Hầu hết các hộ kinh doanh tự phát chung quanh chợ chính thức không
phải tốn nhiều chi phí trong kinh doanh và lại đón đầu khách hàng vào chợ
chính thức. Do đó, người đi chợ không cần vào trong chợ để mua hàng, nhất
là các loại hàng thực phẩm tươi sống phục vụ bữa ăn hàng ngày. Điều này đã
làm cho hoạt động kinh doanh ở các chợ kém hiệu quả, sức mua giảm.
Thứ hai, chợ tự phát ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tư xây
dựng chợ. Chợ tự phát làm giảm lợi nhuận của các hộ kinh doanh trong chợ
chính thức, ảnh hưởng đến việc khai thác công suất thiết kế các quầy sạp kinh
doanh. Điều này làm nản lòng các nhà đầu tư khai thác kinh doanh chợ.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Thứ ba, chợ tự phát gây mất an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường, mỹ
quan đô thị, an toàn giao thông và an toàn phòng cháy chữa cháy do các chợ
tự phát hình thành trên các tuyến đường vào chợ, các hẻm, các đường bao
quanh chợ.
Thứ tư, chợ tự phát tạo nên thói quen không tốt trong sinh hoạt và mua
sắm của một bộ phận dân cư, đi ngược lại những nỗ lực xây dựng Quận Cầu
Giấy và thành phố Hà Nội theo hướng Văn minh - Hiện đại, trong đó có văn
minh thương nghiệp và mỹ quan đô thị. Chợ tự phát tạo nên thói quen xấu
đối với con người là không tuân thủ luật lệ giao thông, không có ý thức giữ
gìn vệ sinh môi trường.
Vì vậy, nội dung giải tỏa, sắp xếp, di dời các chợ tự phát là nội dung
quan trọng của đề án quy hoạch phát triển chợ, cũng là công tác trọng tâm
của trật tự đô thị Quận Cầu Giấy giai đoạn từ năm 2006 - 2010.
II – THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TỔ CHỨC QUẢN LÝ CHỢ
SIÊU THỊ VÀ CÁC TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY
1 - Quy chế tạm thời về siêu thị, trung tâm thương mại do Bộ
Thương mại (Dự thảo) :
1.1- Siêu thị :
Siêu thị hạng I: có danh mục hàng hóa từ 20 ngàn tên hàng trở lên ;
hàng thực phẩm phải chiếm tối thiểu là 20% doanh số; diện tích mặt bằng từ
3.000m
2
trở lên ; trong đó dành ít nhất 30% diện tích cho các công trình phụ
trợ; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu lượng khách hàng; có thiết bị kỹ thuật bán
hàng hiện đại, tiên tiến; có thiết bị và tổ chức dịch vụ trong khi bán hàng và
các dịch vụ phục vụ khách hàng khác; tối thiểu là dịch vụ bảo quản hành lý
cá nhân; dịch vụ thanh toán; dịch vụ bán hàng tận nhà, bán hàng qua bưu
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

điện; dịch vụ bảo hành; dịch vụ quảng cáo - khuyến mãi; dịch vụ thẩm mỹ,
dịch vụ ăn uống nghỉ ngơi, giải trí và thư giãn.
Siêu thị hạng II: có danh mục hàng hóa từ 10 ngàn tên hàng đến 20
ngàn tên hàng; hàng thực phẩm phải chiếm tối thiểu là 30% doanh số; diện
tích mặt bằng từ 1.000m
2
đến dưới 3.000 m
2
; trong đó dành ít nhất 30% diện
tích cho các công trình phụ trợ; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu lượng khách
hàng; có thiết bị và tổ chức dịch vụ trong khi bán hàng và một số dịch vụ
phục vụ khách hàng khác; tối thiểu là dịch vụ bảo quản hành lý cá nhân ; dịch
vụ thanh toán; dịch vụ bảo hành; dịch vụ quảng cáo - khuyến mãi.
Siêu thị hạng III: có danh mục hàng hóa từ 5 ngàn tên hàng đến 10
ngàn tên hàng; hàng thực phẩm phải chiếm tối thiểu là 40% doanh số; diện
tích mặt bằng từ 100m
2
đến dưới 800 m
2
; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu lượng
khách hàng; có thiết bị và tổ chức dịch vụ trong khi bán hàng.
1.2 - Trung tâm thương mại :
- Trung tâm thương mại cấp vùng: là trung tâm có quy mô lớn và hội
đủ các tiêu chuẩn: có bán kính thương mại vượt ra khỏi phạm vi tỉnh, thành
phố; có diện tích mặt bằng từ 30.000 m
2
trở lên; từ 50 cửa hàng trở lên, trong
đó có ít nhất 01 siêu thị; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu lượng khách hàng; có
kinh doanh dịch vụ thương mại và thương mại dịch vụ phong phú, đa dạng
như: các dịch vụ vui chơi giải trí; nhà hàng, khách sạn; dịch vụ trưng bày

quảng cáo và biểu diễn thời trang; dịch vụ tài chính-ngân hàng; bưu chính
viễn thông; bảo hiểm; kho vận; môi giới đầu tư; hội chợ triển lãm; điện tử-tin
học; tư vấn; phân phối; dịch vụ môi trường; dịch vụ du lịch; cho thuê văn
phòng đại diện, trụ sở làm việc, hội trường, phòng họp, nơi tổ chức các hội
nghị, hội thảo, giao dịch và ký kết các hợp đồng thương mại trong và ngoài
nước,…
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Trung tâm thương mại cấp tỉnh, thành phố: là trung tâm có quy mô
trung bình và hội đủ các tiêu chuẩn: có bán kính thương mại trong phạm vi
tỉnh, thành phố; có diện tích mặt bằng từ 5 ngàn m
2
đến 30 ngàn m
2
; có từ 10
đến 50 cửa hàng, trong đó có ít nhất 01 siêu thị; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu
lượng khách hàng; có kinh doanh dịch vụ thương mại và một số lĩnh vực
thương mại dịch vụ như: tài chính - ngân hàng; du lịch; bảo hiểm; cho thuê
văn phòng đại diện, trụ sở làm việc, hội trường; bưu chính viễn thông, tư vấn.
- Trung tâm thương mại cấp quận-huyện là trung tâm có quy mô nhỏ
và hội đủ các tiêu chuẩn: diện tích mặt bằng dưới 5.000 m
2
; có dưới 10 cửa
hàng, trong đó có ít nhất 01 siêu thị; có bãi đỗ xe phù hợp với lưu lượng
khách hàng; có kinh doanh dịch vụ thương mai.
2 - Thực trạng hoạt động và tổ chức, quản lý chợ trên địa bàn
quận Cầu Giấy.
2.1 - Thực trạng về ngành hàng kinh doanh tại các chợ:
Ngoài những chợ bán buôn, chợ chuyên doanh; phần lớn trên địa bàn
là các chợ kinh doanh tổng hợp nhưng chủ yếu là hàng nông sản thực phẩm

tươi sống và hàng tiêu dùng hàng ngày. Nhiều chợ có quy mô nhỏ hầu như
chỉ kinh doanh mặt hàng thực phẩm tươi sống. Vì vậy, thời gian họp chợ của
các chợ này cũng ngắn ngủi, thường là vào buổi sáng. Mức độ đô thị hóa
ngày càng nhanh cùng với việc hình thành các siêu thị, trung tâm thương mại,
cửa hàng bán lẻ; chợ không còn là nơi mua sắm chủ yếu của người tiêu dùng.
Nhiều mặt hàng kinh doanh ở chợ bị cạnh tranh gay gắt bởi các siêu thị, trung
tâm thương mại, của hàng bán lẻ; nhất là hàng may mặc, vải sợi, kim hoàn,
mỹ phẩm, thực phẩm chế biến. Sức mua của các mặt hàng này ở các chợ có
xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Điều này cho thấy khả năng
thay thế của siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đối với nhiều
mặt hàng kinh doanh ở các chợ diễn ra ngày càng rõ nét. Trong khi đó, chợ
vẫn có ưu thế về các mặt hàng thực phẩm tươi sống. Như vậy, trong mối
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan hệ giữa chợ với siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng bán lẻ; đã
dần xuất hiện sự tái cơ cấu các mặt hàng kinh doanh phù hợp với xu hướng
phát triển kinh tế - xã hội của Quận Cầu Giấy nói riêng và của thành phố Hà
Nội nói chung. Đây là yếu tố có ý nghĩa quan trọng giúp quy hoạch lại mạng
lưới chợ trên địa bàn cũng như bố trí, sắp xếp lại mặt hàng kinh doanh ở các
chợ trong thời gian tới.
2.2 - Về hoạt động và tổ chức quản lý:
Thực hiện Quyết Định số 63/2005/QĐ-UB ngày 29/04/2005 của
UBND thành phố Hà Nội về việc “Ban hành chuyển mô hình tổ chức quản lý
chợ trên địa bàn thành phố Hà Nội”, và Đề án 178/UB-SNV ngày 04/05 của
UBND thành phố về chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Căn cứ tình hình thực tế mô hình quản lý chợ hiện nay trên địa bàn
quận Cầu Giấy. UBND Quận xây dựng đề án chuyển đổi mô hình quản lý tổ
chức trên địa bàn quận Cầu Giấy như sau:
Bảng phân loại mô hình quản lý các chợ hiện nay trên địa bàn Quận

Cầu Giấy
Tên chợ
Nghĩa
Tân
Đồng
Xa
Cầu
Giấy
Nhà
Xanh
Quan
Hoa
Nông
Sản
Dịch
Vọng
Xe
máy
Dịch
vọng
Hợp
Nhất
Trần
Duy
BQL do
Quận quản

x x x x x x
BQL do
phường

quản lý
x
Doanh
nghiệp quản
lý.
x x
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay là Ban quản lý chợ, thực hiện
chức năng quản lý theo quyết định số 3569/QĐ-UB ngày 16/9/1997 của
UBND thành phố nhưng tổ chức không theo một mô hình thống nhất, các
BQL chợ do quận quản lý đều quản lý 2 chợ, chợ do HTX Dịch vụ nông
nghiệp quản lý khai thác và được bố trí không đồng đều vì thế nên còn tồn tại
chợ tạm, chợ cóc như: Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Yên Hoà.
Từ ngày thành lập quận đến nay, được sự quan tâm của Thành phố, sự
lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Quận uỷ, HĐND, UBND quận, việc phát triển
mạng lưới chợ trên địa bàn được quan tâm và thực hiện có hiệu quả, bằng
nhiều nguồn vốn, toàn quận đã xây mới: Chợ Quan Hoa, chợ xe máy đồ cũ
Dịch Vọng, chợ đêm nông sản Dịch Vọng, chợ Đồng Xa, chợ Trần Duy
Hưng, chợ Hợp Nhất, chợ 337 Dịch Vọng, chợ tạm Nhà Xanh. Các BQL chợ
hiện nay duy trì hoạt động ổn định đã góp phần phát triển kinh tế, tạo việc
làm cho một bộ phận người lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho
người lao động và nộp ngân sách Nhà nước. Đặc biệt về lĩnh vực quản lý đô
thị từ 25 tụ điểm chợ cóc, chợ tạm lấn chiếm lòng đường, vỉa hè đến nay chỉ
còn 8 tụ điểm.
Hiện có trên 38.000m
2
dành cho xây dựng chợ (kể cả chợ Bái Ân), có
tổng số vốn đầu tư trên 32 tỷ đồng, trong đó vốn tự có là 10,6 tỷ đồng, vốn
huy động của nhân dân là 2,2 tỷ đồng (chợ Nghĩa Tân); Với quy mô kiên cố

và bán kiên cố đã thu hút được trên 2.700 hộ kinh doanh, trong đó gần 1.000
hộ kinh doanh vãng lai (chủ yếu là chợ đêm nông sản Dịch Vọng và người
kinh doanh vãng lai chủ yếu là nông dân từ nơi khác đến kinh doanh). Hiện
có khoảng 500 hộ là lao động hoặc con em nông dân trên địa bàn được bố trí
kinh doanh tại các chợ. Hàng năm các chợ trên địa bàn nộp cho ngân sách
Nhà nước ổn định từ 2,7 tỷ đồng đến 2,8 tỷ đồng và thu thuế của các hộ kinh
doanh trên 500 triệu đồng cho ngân sách Nhà nước.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuy nhiên với thực trạng hoạt động và tổ chức quản lý chợ như hiện
nay vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập như:
- Do dân số cơ học tăng nhanh và di chuyển đến không đồng đều (dân
cư ở nơi khác về các khu đô thị mới), trong khi đó các khu đô thị này khi
duyệt quy hoạch đều có quy hoạch bố trí chợ và siêu thị nhưng đến khi xây
dựng lại thiếu đồng bộ, không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân nên
phát sinh nhiều chợ tạm, chợ cóc hoặc quá tải.
- Mô hình tổ chức quản lý không thống nhất, nhiều đầu mối dẫn đến
việc kinh doanh, khai thác, quản lý chợ chưa có hiệu quả.
- Mô hình quản lý chợ như hiện nay chưa huy động được các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng, kinh doanh, khai thác chợ, hàng năm
quận vẫn phải chi khoản ngân sách lớn vào đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng
cấp, chỉnh trang chợ.
2.3 - Về việc lựa chọn mô hình chuyển đổi chợ trên địa bàn quận
Cầu Giấy:
Thực hiện chủ trương của Thành phố, từ tình hình thực tế ở Quận, sẽ
lựa chọn mô hình chuyển đổi chợ trên địa bàn phường Dịch Vọng (chợ 337
Dịch Vọng, chợ xe máy Dịch Vọng). Vì hai chợ này đủ điều kiện chuyển đổi
mô hình quản lý và phù hợp với chủ trương của Thành phố là khi chuyển đổi
ưu tiên cho thành phần kinh tế HTX quản lý, kinh doanh chợ.
- Hiện 2 chợ này là chợ loại 3.

- Chợ do phường làm chủ đầu tư:
+ Chợ xe máy Dịch Vọng: Do UBND phường làm chủ đầu tư, vốn
ngân sách phường, (nhưng thực chất là vốn của phường và HTX đây là
nguồn vốn đóng góp, hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị có dự án trên địa bàn
phường); Nay giao cho HTX Dịch vụ nông nghiệp Dịch Vọng quản lý, khai
thác từ năm 2002.
SV. Đào Duy Anh Lớp: Quản lý kinh tế 44B

×