Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường thpt tại quận 12 – tp. hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 112 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
o0o



NGUYỄN TẤN TÀI



THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở CÁC TRƯỜNG THPT TẠI QUẬN 12 – TP.
HỒ CHÍ MINH




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC








Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


o0o


NGUYỄN TẤN TÀI



THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở CÁC TRƯỜNG THPT TẠI QUẬN 12 –
TP. HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 60 14 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu đề tài: “Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp ở các trường THPT tại quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh” đến nay chúng tôi
đã hoàn thành luận văn.

Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến Hội đồng khoa học
chuyên ngành “Quản lý giáo dục” trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của quý Thầy, Cô và Lãnh đạo khoa Tâm lý – Giáo
dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Các Thầy, Cô đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự cộng tác giúp đỡ của tập thể các Thầy, Cô giáo đồng
nghiệp ở ba trường: THPT Võ Trường Toản, THPT Trường Chinh, THPT Thạnh Lộc.
Đặc biệt tôi xin trân trọng và bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Tiến sĩ Hồ Văn Liên
– Người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, song những
thiếu sót trong luận văn là không thể tránh khỏi, kính mong sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn
của quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp.

TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2010



MỤC LỤC
0TLỜI CẢM ƠN0T 3
0TMỤC LỤC0T 4
0TDANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN0T 7
0TMỞ ĐẦU0T 8
0T1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI0T 8
0T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU0T 9
0T3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU0T 9
0T4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC0T 9
0T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU0T 10
0T6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU0T 10
0T7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI0T 11
0T8. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU0T 11

0TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU0T 13
0T1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề0T 13
0T1.1.1. Ở một số nước trên thế giới0T 13
0T1.1.2. Ở Việt Nam0T 15
0T1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản của HĐGD NGLL0T 17
0T1.2.1. Khái niệm về HĐGD NGLL0T 17
0T1.2.2. Mục tiêu, nội dung và hình thức tổ chức HĐGD NGLL0T 18
0T1.2.3. Nguyên tắc và phương pháp tổ chức HĐGD NGLL0T 23
0T1.3. Lý luận về quản lý HĐGD NGLL ở trường THPT0T 26
0T1.3.1. Các khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục và quản lý HĐGD NGLL0T 26
0T1.3.2. Các chức năng quản lý HĐGD NGLL0T 28
0T1.3.3. Phân cấp quản lý HĐGD NGLL0T 31
0T1.3.4. Cơ sở pháp lý về quản lý HĐGD NGLL0T 32
0T1.3.5. Nội dung quản lý HĐGD NGLL0T 34
0T1.3.6. Phối hợp quản lý HĐGD NGLL0T 40
0TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HĐGD NGLL Ở CÁC
TRƯỜNG THPT TẠI QUẬN 12 – TP.HỒ CHÍ MINH
0T 42
0T2.1 Khái quát tình hình, đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội và giáo dục quận 12
TP.Hồ Chí Minh
0T 42
0T2.1.1 Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của quận 120T 42
0T2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội quận 12 năm 20090T 44
0T2.2 Đặc điểm các trường THPT quận 12 năm học 2009 – 20100T 46
0T2.2.1 Tình hình học sinh0T 46
0T2.2.2 Số lượng trường lớp0T 46
0T2.2.3 Đội ngũ giáo viên, Cán bộ quản lý (CBQL)0T 47
0T2.2.4 Kết quả học tập của học sinh0T 47
0T2.3 Thực trạng HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận 12 TP.Hồ Chí Minh0T 47
0T2.3.1 Nhận thức của Cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh về HĐGD NGLL0T 48

0T2.3.2 Chương trình và nội dung HĐGD NGLL theo chương trình của Bộ được học sinh
yêu thích
0T 54
0T2.3.3 Hình thức và phương pháp tổ chức các HĐGD NGLL0T 55
0T2.3.4 Điều kiện, phương tiện tổ chức HĐGD NGLL0T 60
0T2.3.5 Kiểm tra, đánh giá HĐGD NGLL0T 61
0T2.4 Thực trạng quản lý HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận 12 TP.Hồ Chí
Minh
0T 62
0T2.4.1 Thực hiện các chức năng quản lý HĐGD NGLL0T 62
0T2.4.2 Các hình thức áp dụng để tiết HĐGD NGLL đạt kết quả cao0T 68
0T2.4.3 Thực trạng phân cấp trong quản lý HĐGD NGLL0T 69
0T2.4.4 Thực trạng quản lý cán bộ giáo viên với việc tổ chức HĐGD NGLL0T 69
0T2.4.5 Thực trạng quản lý học sinh với các HĐGD NGLL0T 71
0T2.4.6 Thực trạng quản lý các điều kiện, phương tiện tổ chức HĐGD NGLL0T 72
0T2.4.7 Thực trạng quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả HĐGD NGLL0T 72
0T2.4.8 Thực trạng quản lý sự phối hợp tổ chức HĐGD NGLL0T 74
0T2.5 Đánh giá thực trạng0T 75
0T2.5.1 Thuận lợi0T 78
0T2.5.2 Khó khăn0T 78
0T2.6 Nguyên nhân của thực trạng0T 79
0T2.6.1 Nguyên nhân khách quan:0T 80
0T2.6.2 Nguyên nhân chủ quan:0T 81
0TCHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC QUẢN LÝ HĐGD NGLL Ở CÁC TRƯỜNG THPT TẠI QUẬN 12 –
TP.HỒ CHÍ MINH
0T 82
0T3.1. Cơ sở lý luận của các biện pháp0T 82
0T3.2. Cơ sở pháp lý của các biện pháp0T 83
0T3.3. Cơ sở thực tiễn của các biện pháp0T 85

0T3.4. Các biện pháp0T 85
0T3.4.1 Nâng cao nhận thức của CBQL, giáo viên và học sinh về vai trò, ý nghĩa của
HĐGD NGLL
0T 85
0T3.4.2 Đổi mới nội dung tổ chức HĐGD NGLL0T 88
0T3.4.3 Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL0T 90
0T3.4.4 Đổi mới hình thức tổ chức HĐGD NGLL0T 92
0T3.4.5 Nâng cao năng lực tổ chức HĐGD NGLL cho giáo viên và học sinh0T 93
0T3.4.6 Đổi mới công tác quản lý HĐGD NGLL0T 95
0T3.4.7 Phát triển các nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
HĐGD NGLL
0T 96
0T3.4.8 Tăng cường phối hợp các lực lượng giáo dục: Nhà trường – Gia đình – Xã hội0T 98
0T3.4.9 Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm hàng tháng0T 99
0T3.4.10 Có biện pháp động viên và khen thưởng kịp thời0T 101
0T3.5 Kết quả trưng cầu ý kiến về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề
xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý HĐGD NGLL
0T 102
0T3.5.1 Tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp0T 102
0T3.5.2 Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện các biện pháp0T 105
0TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ0T 107
0T1. KẾT LUẬN0T 107
0T2. KIẾN NGHỊ0T 109
0TDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO0T 111

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CBQL : Cán bộ quản lý

CSVC : Cơ sở vật chất
GD – ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
GV : Giáo viên
PHHS : Phụ huynh học sinh
HĐGD NGLL : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HS : Học sinh
TDTT : Thể dục thể thao
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TLTN : Trợ lý thanh niên
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
XH : Xã hội
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 – 2020 về mục tiêu có
nêu rõ: “ Trong vòng 20 năm tới, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại,
khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền
vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới
một xã hội học tập, có khả năng hội nhập quốc tế; nền giáo dục này phải đào tạo được
những con người Việt Nam có năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, có khả năng thích ứng,
hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có thể lực tốt,
có bản lĩnh, trung thực, ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công dân, gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện được mục tiêu trên, mặt bằng dân
trí phải được nâng cao nhằm cung cấp những nguồn nhân lực có đầy đủ về đạo đức và năng
lực nghề nghiệp. Những giá trị về đạo đức và năng lực nghề nghiệp của các nguồn nhân lực
được hình thành không chỉ ở những giờ học trên lớp mà còn phải được rèn luyện, củng cố
và phát triển thông qua các hoạt động giáo dục, trong đó không thể thiếu hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp.

- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGD NGLL) là một bộ phận của quá trình
giáo dục ở nhà trường phổ thông. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học
các môn văn hóa ở trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là
con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành
động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin ở học sinh. HĐGD NGLL là con đường
phát triển toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ.
- HĐGD NGLL tạo điều kiện cho học sinh phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ
động của các em trong quá trình học tập, rèn luyện toàn diện. Nó vừa củng cố kiến
thức đã học, vừa mở rộng kiến thức mới và phát triển những kỹ năng cơ bản của học
sinh theo mục tiêu giáo dục ở bậc THPT.
- Đa số học sinh các trường THPT ở quận 12 thuộc gia đình làm nông, buôn bán nhỏ,
điều kiện rất khó khăn. Vì cuộc sống mưu sinh nên rất nhiều phụ huynh chưa quan tâm
đến việc học tập của con em mình. Mặc khác, quận 12 còn nhiều tệ nạn xã hội sẽ lôi
kéo các em vào con đường bỏ học, hư hỏng …Do vậy, việc tổ chức tốt HĐGD NGLL
là một trong những biện pháp bảo đảm một sân chơi lành mạnh cho các em, duy trì
phong trào thi đua học tập, hạn chế tình trạng bỏ học.
- Năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho triển khai chương trình HĐGD NGLL vào
nhà trường trung học phổ thông. Năm đầu tiên chỉ áp dụng cho học sinh khối 10 và tới
năm 2008 áp dụng được cả ba khối 10, 11, và 12, tới ngày nay đã thực hiện được 4
năm, chúng ta đã thu được kết quả rất khả quan từ công tác giáo dục này, tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế đòi hỏi chúng ta phải có sự tổng kết, kiểm tra, rút
kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn cho những năm kế tiếp.
- Vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh chưa nhận thức đúng về
vai trò, vị trí và ý nghĩa của HĐGD NGLL, nên nhiều ý kiến còn coi nhẹ tác dụng của
HĐGD NGLL.
- Trong công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo còn lỏng lẻo, thiếu kỷ luật, nề nếp, thiếu kế
hoạch cụ thể, việc kiểm tra, đánh giá chưa chặt chẽ công bằng, công tác tổng kết đúc
rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức.

Từ những tầm quan trọng đó tôi chọn đề tài “ Thực trạng quản lý HĐGD NGLL ở các

trường THPT tại quận 12 – TP.HCM.” để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản lý HĐGD NGLL ở
các trường THPT tại quận 12 – TPHCM, phân tích nguyên nhân và đề xuất các biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.1 Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động sư phạm ở trường THPT quận 12-TP.HCM.

3.2 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng quản lý HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận 12 – TP.HCM.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

- HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận 12 TP. Hồ Chí Minh đã được quan
tâm nhưng vẫn còn có một số hạn chế nhất định. Nên việc tổ chức HĐGD NGLL
còn gò bó, mang tính hình thức, nội dung, hình thức tổ chức còn nghèo nàn, đơn
điệu, không lôi cuốn, hấp dẫn học sinh tham gia.
- HĐGD NGLL là hoạt động nối tiếp của hoạt động dạy học trên lớp. Nếu đánh giá
thực trạng đúng, xây dựng được các biện pháp quản lý HĐGD NGLL một cách
khoa học, hợp lý sẽ tạo môi trường tích cực cho việc rèn luyện, phát triển năng
lực và hoàn thiện nhân cách của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện ở các trường THPT.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

 Hệ thống hóa cơ sở lý luận về HĐGD NGLL và quản lý HĐGD NGLL.
 Khảo sát thực trạng HĐGD NGLL và công tác quản lý HĐGD NGLL ở các
trường THPT tại quận 12 - Thành phố Hồ Chí Minh.

 Đề xuất một số biện pháp quản lý HĐGD NGLL ở các trường THPT quận 12 –
TP.HCM.
6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Cơ sở phương pháp luận
6.1.1 Quan điểm hệ thống – cấu trúc:
Trong trường THPT, quản lý là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố có
mối quan hệ mật thiết với nhau như quản lý công tác giảng dạy, quản lý cơ
sở vật chất, quản lý nhân sự, quản lý HĐGD NGLL… trong đó quản lý
HĐGD NGLL có mối quan hệ mật thiết và có tác động qua lại với các yếu tố
khác. Vì vậy, các biện pháp quản lý HĐGD NGLL phải được xem trong một
hệ thống các tác động quản lý của Hiệu trưởng đến các lĩnh vực quản lý
nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra. Ngoài ra, người nghiên cứu còn xem
thực trạng quản lý HĐGD NGLL gồm những yếu tố như: mục tiêu quản lý,
nội dung quản lý, chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, kết quả quản lý.
6.1.2 Quan điểm thực tiễn
Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý HĐGD NGLL ở các trường
THPT quận 12 TP.HCM còn nhiều tồn tại, khó khăn trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả HĐGD NGLL ở các trường trung học phổ
thông.

6.1.3 Quan điểm lịch sử
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của HĐGD NGLL trên Thế
giới cũng như ở Việt Nam. Thực trạng HĐGD NGLL ở các trường THPT quận
12 TPHCM trong những năm qua để khắc phục những khó khăn và phát huy
những thành tựu đã làm được .

6.2 Phương pháp nghiên cứu
6.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phân tích, tổng hợp, hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên
cứu.


6.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: dùng cho học sinh (404 học
sinh), giáo viên (181 giáo viên) và cán bộ quản lý giáo dục (32 người)
cấp trung học phổ thông.
6.2.2.2 Phương pháp quan sát.
6.2.2.3 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: phỏng vấn trực tiếp 15 người gồm
CBQL, giáo viên và học sinh.

6.2.3 Phương pháp toán thống kê
7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Trong phạm vi đề tài, tác giả chỉ tập trung khảo sát thực trạng công tác quản lý
HĐGD NGLL theo chương trình phân ban mới ở các trường THPT công lập: Võ
Trường Toản, Thạnh Lộc, Trường Chinh, quận 12 trong những năm gần đây, đặc biệt
năm học 2009 – 2010.
8. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A. Mở đầu.
B. Nội dung.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trang công tác quản lý HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận
12 – TP.Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý HĐGD
NGLL ở các trường THPT tại quận 12 – TP.Hồ Chí Minh.
C. Kết luận và kiến nghị.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở một số nước trên thế giới
Trong quá trình nghiên cứu lịch sử phát triển giáo dục thế giới, hoạt động dạy – học
được nghiên cứu một cách có hệ thống từ thời Nguyên thủy cho đến nay chúng ta nhận thấy

có rất nhiều nhà giáo dục đã đưa ra các phương pháp giáo dục mà đến ngày hôm nay chúng
ta thấy vẫn còn giá trị và các phương pháp này có liên quan đến các HĐGD NGLL như:
Trong thời kỳ văn hóa Phục hưng đã xuất hiện hàng loạt các nhà giáo dục Phục hưng
– đó chính là những nhà giáo dục đã lý giải các vấn đề giáo dục một cách mới mẻ theo
khuynh hướng khoa học, không ràng buộc lễ giáo phong kiến và triết lý nhà thờ, tư tưởng
của họ đã đặt tiền đề cho thời kỳ giáo dục mới: giáo dục cận đại. Tiêu biểu cho các nhà giáo
dục Phục hưng là Thomas More (1478 – 1535), Ông đề cao: “ phương pháp quan sát, thí
nghiệm, thực hành trong dạy học và giáo dục, theo Ông lao động là nghĩa vụ của mọi
người, song mỗi ngày chỉ làm việc 6 giờ, thời gian còn lại để học văn hóa và sinh hoạt xã
hội, giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt ở trẻ em: về thề chất, đạo đức, trí tuệ và kỹ năng
lao động” [33, trang 80]. Đây chính là tiếng nói tiến bộ của loài người về lĩnh vực giáo dục
trong thời kỳ văn hóa Phục hưng, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa nhân văn mà Thomas
More đề xuất lý luận và có ý định thực thi một chế độ giáo dục mới tiến bộ để thay cho trật
tự đương thời của phong kiến về giáo dục.
Thế kỷ XIX, có ông Pétxtalôdi (1746 – 1827) là một trong những nhà giáo dục thời
kỳ Tư bản chủ nghĩa, ý đồ kết hợp giáo dục với lao động sản xuất là một trong những luận
điểm quan trọng nhất trong lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục của ông, theo ông trong
trường học cần có đất đại để trồng trọt, chăn nuôi và trẻ em được học một nghề thủ công.
Ông đánh giá rất cao vai trò của lao động trong việc hình thành nhân cách trẻ em, ông muốn
rằng qua lao động để: “….sưởi ấm trái tim và phát triển khối óc của trẻ em”, học sinh được
đi tham quan các trại, xưởng thủ công mỹ nghệ để học tập [33, trang 121]. Điều này cho
chúng ta thấy việc giáo dục trong nhà trường không đủ, ta cần phải mở rộng giáo dục ngoài
trường, ngoài giờ lên lớp để học sinh vừa lĩnh hội được tri thức trên lớp, vừa có thời gian
thực hành để củng cố kiến thức.
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, người có ảnh hưởng lớn đến triết học thực dụng
ở Âu – Mỹ, và không chỉ là triết gia lý thuyết mà còn là triết gia thực hiện trên mọi lĩnh vực
giáo dục là John Dewey (1859 – 1952), ông là giáo sư trường Đại học Côlômbia (New
York), ông đề ra khẩu hiệu “Giáo dục bằng việc làm” là phương thức của thực hiện nhà
trường tiến bộ, điều đó có nghĩa là thay cho việc tiếp thu những tri thức của nhân loại bằng
việc nắm vững những thói quen thực tiễn với các hình thức đa dạng của cuộc sống và được

tiến hành ở mọi nơi như ở vườn trường, xưởng trường, dưới nhà bếp, ngoài công xưởng và
được trang bị bằng những công cụ lao động với các phương tiện hiện đại [33, trang 140].
Qua đó ông khẳng định rằng học phải đi đôi với hành để rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Đến thế kỷ XX, A.S Makarenco (1888 – 1939) – Vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo dục
Xô Viết lỗi lạc đã nói về tầm quan trọng của công tác giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp:
“Tôi kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, phương pháp giáo dục không thể hạn chế trong
các vấn đề giáo dục, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp
học, mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước chúng ta…Nghĩa là trong bất kỳ
hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành
trong lớp. Công tác giáo dục chỉ đạo toàn bộ cuộc sống của trẻ” [19, trang 63].
Vào năm 1952, Trung Quốc bắt đầu học tập Liên Xô một cách đâi quy mô, giáo dục
đi ở phía trước, Trung Quốc học tập mô hình giáo dục Liên Xô – từ chế độ đến phương
pháp, từ nội dung đến hình thức cải tạo giáo dục. Trung Quốc đã áp dụng biện pháp cải cách
giáo dục quan trọng như: đưa giờ lao động vào khóa trình chính khóa, giáo viên và học sinh
tham gia lao động sản xuất, nhà trường mở công xưởng, nông trường; công xưởng, hợp tác
xã nông nghiệp mở nhà trường vừa học vừa làm. Thực hiện chế độ giáo dục vừa học vừa lao
động công nghiệp, vừa học vừa lao động công nghiệp, với biện pháp này nhằm kết hợp biên
pháp giáo dục trên lớp và giáo dục ngoài giờ lên lớp để rèn luyện và đào tạo con người “vừa
hồng vừa chuyên” [28, trang 74].
Trong tác phẩm Tư bản, Mác khẳng định: “Học tập kết hợp với lao động sản xuất là
phương pháp tổng quát của sản xuất xã hội và là phương pháp duy nhất để hình thành con
người toàn diện. Lao động tạo ra nhân cách con người. Nhà trường phải giáo dục, đào tạo
ra những con người lao động chân chính và có nhân cách tốt. Mục tiêu tổng quát của giáo
dục là phải phát triển con người toàn diện; đối với xã hội, phát triển con người toàn diện để
phát triển kinh tế xã hội, đối với từng người – để có năng lực nghề nghiệp, để sống và đóng
góp cho gia đình, cho cộng đồng…”[36, trang 38].
Cho đến những năm 60, 70, đất nước Liên Xô đang trên con đường xây dựng CNXH,
việc giáo dục con người phát triển toàn diện được Đảng và Nhà nước quan tâm. Các nghiên
cứu về lý luận giáo dục nói chung và HĐGD NGLL nói riêng được đẩy mạnh, hiện nay các
nước trên thế giới rất quan tâm đến các chương trình ngoại khóa, các HĐGD NGLL để qua

đó rèn luyện, đào tạo được những con người đầy đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được
nhu cầu lao động của thị trường Quốc tế.
1.1.2. Ở Việt Nam
Qua quá trình nghiên cứu lịch sử giáo dục Việt Nam, về HĐGD NGLL đã được rất
nhiều nhà giáo dục nghiên cứu, nhưng trước năm 80 của thế kỷ XX HĐGD NGLL chưa
được chú ý nhiều, mãi đến những năm sau 80 hoạt động này mới được chú ý nhiều và có
nhiều nghiên cứu hơn để đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường.
Trong hai cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950) và lần thứ hai (1956) HĐGD
NGLL có đề cập đến nhưng chưa định hình tên gọi như ngày hôm nay, tuy nhiên nó đã
được nhiều người nhắc đến và áp dụng trong quá trình giáo dục. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường xuyên nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải luôn chú ý giáo dục toàn
diện cho học sinh, phải kết hợp chặt chẽ “học đi đôi với hành”, và trong thư gửi học sinh
nhân dịp khai trường tháng 9/1945 Bác viết: “….các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường,
tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp
đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”, trong thư gửi Hội nghị các cán
bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc Bác có viết: “…trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui,
trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, trong trường, trong xã hội chúng
đều vui, đều học” [20, trang 101].
Trong Điều lệ nhà trường phổ thông ban hành tháng 6/1976, tại điều 7 có nêu: “Việc
giảng dạy và giáo dục được tiến hành thong qua các hoạt động giảng dạy trên lớp, lao động
sản xuất và hoạt động tập thể. Các mặt hoạt động đó phải cùng tiến hành, bổ sung cho nhau
theo một kế hoạch thống nhất, trong đó phải coi trọng hình thức giảng dạy trên lớp”. Và tại
khoản 3 điều 7 viết về hoạt động tập thể: “ Hoạt động tập thể của học sinh do nhà trường
phối hợp với Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh và Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh tổ chức, bao gồm các hoạt động văn hóa, chính trị, xã hội của Đoàn và Đội và các
hoạt động ngoại khóa về khoa học, kỹ thuật, văn nghệ, thể dục thể thao của nhà trường và
của địa phương”. Qua đó chúng ta nhận thấy nhờ có hoạt động tập thể góp phần giáo dục ý
thức chính trị, khả năng công tác độc lập của học sinh, góp phần củng cố, mở rộng kiến
thức, phát triển năng khiếu, giúp hình thành và phát triển toàn diện nhân cách thế hệ trẻ.
Trong cuộc cải cách giáo dục lận thứ ba (1979), điều lệ trường phổ thông tháng

4/1979, điều 10 có viết: “Công tác giáo dục ở trường phổ thông tiến hành thống nhất theo
đúng nội dung và trình tự qui định trong chương trình, kế hoạch đào tạo và sách giáo khoa
do Bộ giáo dục ban hành và được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục: học tập văn
hóa, lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học và các hoạt động xã hội”.
Cũng tại khoản 3 điều 10 xác định: “Các hoạt động xã hội do nhà trường tổ chức cho
học sinh tham gia với mức độ thích hợp, là nhằm củng cố những tri thức đã học được, bồi
dưỡng tình cảm đối với nhân dân lao động, xây dựng thái độ tích cực tham gia công tác xã
hội, góp phần xây dựng địa phương và rèn luyện học sinh về ý thức và năng lực làm chủ tập
thể, hình thành nhân sinh quan cách mạng. Ngoài các hoạt động trên đây, cần tổ chứcthêm
những hoạt động ngoại khóa khác như thể dục thể thao, văn nghệ để công tác giáo dục thêm
phong phú”.
Và từ đó HĐGD NGLL dần dần được coi trọng và ngày càng chú ý nhiều hơn trong
việc giáo dục học sinh, tên gọi HĐGD NGLL được nêu rất rõ trong điều lệ trường trung học
ban hành vào ngày 11/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, thay thế cho điều lệ
trường trung học tháng 4/1979, tại điều 24 có nói: “HĐGD NGLL do nhà trường phối hợp
với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức, bao gồm hoạt động ngoại khóa về
khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao nhằm phát triển năng lực toàn diện của học
sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao
lưu văn hóa; các hoạt động giáo dục môi trường; các hoạt động lao động công ích; các
hoạt động xã hội; các hoạt động từ thiện phù hợp với đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh”.
Tầm quan trọng của HĐGD NGLL ngày càng được đề cao hơn từ khi Bộ Giáo dục
và Đào tạo chính thức đưa môn “Giáo dục ngoài giờ lên lớp” vào chương trình phân ban lớp
10 từ năm học 2006 – 2007, cho đến hôm nay đã áp dụng đầy đủ cho cả 3 khối lớp: 10, 11
và lớp 12. Hàng năm tài liệu hướng dẫn và công tác bồi dưỡng cho cán bộ chỉ đạo HĐGD
NGLL luôn luôn được chú trọng, gần đây trong tài liệu phân phối chương trình THPT và
HĐGD NGLL năm học 2009 – 2010 có hướng dẫn: ”HĐGD NGLL là hoạt động trong kế
hoạch giáo dục của nhà trường. Cần phân công Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng phụ
trách HĐGD NGLL của trường. Toàn thể giáo viên, các tổ chức, đoàn thể và học sinh có
trách nhiệm tham gia HDGD NGLL theo kế hoạch của trường. Giáo viên chủ nhiệm lớp
trực tiếp phụ trách HĐGD NGLL của lớp. Sở Giáo dục và Đào tạo cần phân công một cán

bộ phụ trách HĐGD NGLL. Kết quả HĐGD NGLL là một trong những tiêu chí đánh giá thi
đua của các tập thể và cá nhân trong mỗi năm học”.
Đã có nhiều luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục nghiên cứu đề tài
HĐGD NGLL ở các trường THPT như:
 Luận văn “Các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý HĐGD NGLL của Hiệu trưởng
một số trường THPT phía Nam”, tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trâm, năm 2003.
 Luận văn “Thực trạng việc quản lý HĐGD NGLL ở các trường THCS bán công
TP.Hồ Chí Minh”, tác giả Trần Thị Minh Thi, năm 2005.
 Luận văn “Một số biện pháp quản lý HĐGD NGLL của Hiệu trưởng các trường THPT
Huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Nguyễn Như Ý, năm
2005.
 Luận văn “Các biện pháp quản lý HĐGD NGLL của Hiệu trưởng các trường THPT
tỉnh Đồng Tháp”, tác giả Nguyễn Đức Điền, năm 2007.
 Luận văn “Các biện pháp quản lý thực hiện chương trình HĐGD NGLL ở trường
THPT Đại Từ - Thái Nguyên”, tác giả Phan Vĩnh Thái, năm 2008.
Hiện nay qua quá trình tìm hiểu, chưa có tác giả nào nghiên cứu về thực trạng và
tổng kết kinh nghiệm về lãnh vực quản lý HĐGD NGLL theo chương trình phân ban cho cả
3 khối 10, 11, và 12 tại quận 12 – TP.Hồ Chí Minh. Bản thân là người trực tiếp chỉ đạo công
tác này được 4 năm, tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu kỹ HĐGD NGLL hiện nay để có
những biện pháp áp dụng vào nhà trường THPT đạt hiệu quả, do đó tôi chọn đề tài nghiên
cứu “Thực trạng quản lý HĐGD NGLL ở các trường THPT tại quận 12 – TP.Hồ Chí
Minh” là cần thiết và phù hợp.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản của HĐGD NGLL
1.2.1. Khái niệm về HĐGD NGLL
- Tác giả Đặng Vũ Hoạt quan niệm: “HĐGD NGLL là việc tổ chức giáo dục thông
qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học – kỹ thuật, lao động công ích,
hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn nghệ, thẫm mĩ, thể dục thể
thao, vui chơi giải trí v.v…để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách (đạo
đức, năng lực, sở trường…)” [12, trang 7].
- Theo chương trình trung học cơ sở của Bộ Giáo dục và Đào tạo có trình bày:

“HĐGD NGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học của các môn học ở
trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy – học trên lớp, là con đường
gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động
của học sinh” [3, trang 99].
- Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên về HĐGD NGLL lớp 10 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo năm 2006: “HĐGD NGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ
học các bộ môn văn hóa. HĐGD NGLL có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động dạy
học tạo điều kiện gắn lý thuyết với thực hành, thống nhất giữa nhận thức với hành
động, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển các kỹ năng, tình cảm,
niềm tin, tạo cơ sở cho sự phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh trong giai
đoạn hiện nay”.
Như vậy, HĐGD NGLL là hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài thời gian học tập
trên lớp. Đây là một trong hai hoạt động giáo dục cơ bản, được thực hiện một cách có tổ
chức, có mục đích theo kế hoạch của nhà trường; là hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ
với hoạt động trên lớp, nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo
mục tiêu đào tạo, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ.
HĐGD NGLL do nhà trường tổ chức và quản lý với sự tham gia của các lực lượng xã
hội. Nó được tiến hành tiếp nối hoặc xen kẽ hoạt động dạy – học trong nhà trường. HĐGD
NGLL diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục,
làm cho quá trình này được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.
1.2.2. Mục tiêu, nội dung và hình thức tổ chức HĐGD NGLL
1.2.2.1. Mục tiêu của HĐGD NGLL
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường THPT. Đó là
những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các bộ môn văn hóa có trong thời khóa biểu
qui định. Theo sách giáo viên về hướng dẫn thực hiện HĐGD NGLL ở trường THPT của
Bộ Giáo dục và Đào tạo [6, trang 3], HĐGD NGLL có mục tiêu giúp cho học sinh:
- Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như những giá trị tốt
đẹp của nhân loại ; góp phần củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến thức đã học trên lớp ;
có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội ;
bước đầu có ý thức định hướng nghề nghiệp.

- Củng cố vững chắc các kỹ năng cơ bản được rèn luyện từ các cấp học trước, trên cơ sở
đó tiếp tục hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu như: năng lực tự hoàn thiện,
năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực hoạt động chính trị - xã hội, năng lực
tổ chức quản lý, năng lực hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết phân biệt đánh giá để tự
điều chỉnh và hoàn thiện bản thân mình, hướng tới mục tiêu: chân, thiện, mỹ.
1.2.2.2. Nội dung của HĐGD NGLL
HĐGD NGLL ở trường THPT rất đa dạng và phong phú về nội dung, thể hiện nhiều
hình thức hoạt động khác nhau và có thể phân chia nội dung HĐGD NGLL như sau:
 Theo thông tư số 32/TT ngày 15/10/1988 của Bộ Giáo dục và Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, có 5 nội dung:
• Hoạt động chính trị - xã hội.
• Hoạt động phục vụ học tập, tìm hiểu khoa học.
• Hoạt động lao động công ích xã hội.
• Hoạt động văn hóa – nghệ thuật.
• Hoạt động thể thao quốc phòng, tham quan du lịch.

 Theo Điều 26 của Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành ngày 2/4/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có
qui định HĐGD NGLL có các nội dung sau:
• Hoạt động ngoại khóa về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an
toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp
luật.
• Hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hóa, giáo dục môi
trường.
• Hoạt động xã hội, từ thiện phù hợp với đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh.

 Theo tài liệu phân phối chương trình THPT năm học 2009 – 2010 về HĐGD
NGLL của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn, HĐGD NGLL được thực hiện theo quỹ thời
gian là 2 tiết/tháng, nội dung HĐGD NGLL gồm 6 vấn đề chủ yếu sau:

- Lý tưởng sống của thanh niên trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Tình bạn, tình yêu và gia đình.
- Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng ; bảo vệ di sản văn hóa.
- Thanh niên với vấn đề lập thân, lập nghiệp.
- Những vấn đề có tính toàn cầu như: bảo vệ môi trường ; hạn chế sự bùng nổ dân số ;
chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên ; thực hiện Công ước Liên hiệp quốc về
quyền trẻ em.
Những vấn đề trên được cụ thể hóa thành 10 chủ đề hoạt động trong 12 tháng, đó là:
• Tháng 9: Thanh niên học tập, rèn luyện vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
• Tháng 10: Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình.
• Tháng 11: Thanh niên với truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo.
• Tháng 12: Thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
• Tháng 1: Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
• Tháng 2: Thanh niên với lý tưởng cách mạng.
• Tháng 3: Thanh niên với vấn đề lập nghiệp.
• Tháng 4: Thanh niên với hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
• Tháng 5: Thanh niên với Bác Hồ
• Tháng 6
RR-7-8: Mùa hè tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.

 Căn cứ vào mục tiêu, nội dung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình
hình thực tế , cụ thể ở mỗi trường, tài liệu tham khảo, có thể chia HĐGD NGLL theo các
nội dung chính sau:
Hoạt động chính trị, xã hội, đạo đức, pháp luật:
Xã hội nào cũng xây dựng cho mình một mẫu người lý tưởng, mẫu người lý tưởng
là mẫu người mang tư tưởng tiên tiến của thời đại và hành động theo lý tưởng ấy. Mục
đích của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng ta là đào tạo học sinh thành người lao

động thành thạo về nghề nghiệp, năng động đáp ứng nền kinh tế nhiều thành phần, những
người công dân tốt. Vì vậy, giáo dục thế giới quan, tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức
là nhiệm vụ hang đầu trong nhà trường. Trong các giờ dạy thông qua bài giảng để liên hệ
giáo dục thái độ và giá trị, còn HĐGD NGLL thì trực tiếp giáo dục tư tưởng chính trị cho
học sinh qua các hoạt động. Đây là nội dung quan trọng nhưng khó khăn vì chúng ta
không thể tập trung các em lại để phổ biến các chỉ thị, nghị quyết,… mà để đạt hiệu quả
cao cần phải qua các hoạt động văn hóa, xã hội, đoàn thể, có thực hiện được như vậy học
sinh mới tham gia nhiệt tình và hiệu quả đạt được rất cao. Một số hình thức tiến hành
như:

- Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động chính trị ở địa phương.
- Chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, giúp đỡ gia đình neo đơn, giúp đỡ học
sinh nghèo vượt khó.
- Tham gia các chương trình từ thiện để giáo dục lòng nhân ái cho học sinh.
- Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, bài trừ mê tín dị đoan.
- Tuyên truyền pháp luật qua các cuộc thi, nói chuyện chuyên đề, tìm hiểu lịch sử
địa phương.
- Tham gia công tác phụ trách Đội, Đoàn tại địa phương.

Thông qua các hoạt động trên không những giáo dục tư tưởng chính trị cho học sinh
mà còn hình thành nhiều phẩm chất khác cho các em như: Tình đoàn kết, gắn bó yêu thương
con người, tự hào về Đảng, Bác Hồ, về quê hương đất nước…

Tìm hiểu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, phục vụ học tập:
Thành lập các câu lạc bộ học tập, nghiên cứu bộ môn cho một số môn như: văn học,
sinh vật, toán học, hóa học, vật lý… để các em cùng tham gia, qua đó khắc sâu các kiến
thức các em học được trên lớp và ứng dụng vào trong thực tế cuộc sống.
Tổ chức các hoạt động đố vui để học, các câu lạc bộ sang tác văn, thơ…

Hoạt động lao động công ích, lao động sản xuất – hướng nghiệp:

Hoạt động lao động nói chung nhằm giáo dục ý thức góp phần xây dựng quê
hương, giúp đỡ các gia đình và tham gia vào các quá trình sản xuất ra vật chất cho xã hội.
Hình thức tiến hành như:
- Tham gia trồng cây xanh trong trường, địa phương, dọn vệ sinh môi trường…
- Tham gia lao động tu sửa bàn ghế trong lớp, trường, trang trí lớp học.
- Tham gia lao động tại địa phương: dọn sạch kênh, rạch, giúp ổn định trật tự an
toàn giao thông…
- Tham gia giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình
có hoàn cảnh kinh tế khó khăn…
Với những hình thức trên giúp các em hiểu rõ hơn giá trị lao động từ đó có thái độ
đúng với người lao động, tôn trọng thành quả mình làm ra và của người khác làm ra, yêu
quí lao động.

Hoạt động văn hóa – nghệ thuật:
Thực chất của hoạt động văn hóa nghệ thuật là làm phong phú thêm đời sống tinh
thần, bồi dưỡng long khát khao cái đẹp, đưa cái đẹp vào cuộc sống, biết thưởng thức cái
đẹp và sáng tạo ra cái đẹp… Hình thức có thể tổ chức các cuộc thi mang tính văn hóa
giáo dục như:
- Thi học sinh thanh lịch, nữ sinh duyên dáng.
- Thi sang tác văn thơ, nhạc, báo tường.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ, triển lãm, trưng bày về truyền thống nhà trường,
tranh ảnh học sinh…
- Tổ chức các trại truyền thống cho học sinh, các buổi dạ hội…
Hoạt động thể dục thể thao, quốc phòng, tham quan du lịch:
Thực hiện theo chỉ thị 112/CT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác thể thao trong
những năm trước mắt (9/5/1989) nhấn mạnh: Phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học
chương trình thể dục thể thao theo qui định và có biện pháp tổ chức hướng dẫn các hình
thức tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngoài giờ học.
- Tổ chức các đội thể dục thể thao: bong đá, bóng bàn, cầu lông, điền kinh, bơi lội,
võ thuật

- Tổ chức Hội khỏe phù đổng.
- Tổ chức kết nghĩa các đơn vị bộ đội, công an.
- Tổ chức tham quan du lịch, cắm trại, tham quan bảo tang, danh lam thắng cảnh,
di tích văn hóa, tổ chức cắm trại

Như vậy, các nội dung của HĐGD NGLL rất phong phú và đa dạng, chúng phục vụ
cho các mục tiêu giáo dục toàn diện, bổ sung và khắc phục những nhược điểm của hoạt
động giáo dục trong giờ lên lớp. Các nội dung giáo dục trên được tiến hành chủ yếu thông
qua tiết sinh hoạt tập thể hang tuần và sinh hoạt chủ điểm giáo dục hàng tháng. Trong thực
tế, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, điều kiện của từng đơn vị, nhà trường mà nhà quản lý có thề
tiếp cận nội dung hoạt động theo những cách khác nhau để vận dụng một cách linh hoạt và
có hiệu quả.

1.2.2.3. Hình thức tổ chức HĐGD NGLL
HĐGD NGLL ở trường trung học phổ thông rất đa dạng và phong phú, song do
những yêu cầu thực tiễn mà hoạt động này được thực hiện chủ yếu thông qua 3 hình thức tổ
chức cơ bản (đã được qui định và nhà trường dành thời gian trong kế hoạch giảng dạy) sau
đây:
(1). Tiết chào cờ đầu tuần.
(2). Tiết hoạt động tập thể của lớp hàng tuần.
(3). HĐGD NGLL theo chủ đề hàng tháng.
1.2.3. Nguyên tắc và phương pháp tổ chức HĐGD NGLL
1.2.3.1. Nguyên tắc tổ chức HĐGD NGLL
Để đạt được chất lượng và hiệu quả giáo dục mong muốn, nhà trường cần phải
tuân thủ một số nguyên tắc tổ chức HĐGD NGLL sau đây:
 Nguyên tắc về tính mục đích, tính kế hoạch
- Tính mục đích: bất cứ hoạt động giáo dục nào cũng phải đạt được những mục
đích nhất định, tuy nhiên giáo dục trong nhà trường cho thấy, mục tiêu của các
HĐGD NGLL thường bị che lấp bởi những tiêu chí mang tính thi đua,phong
trào. Do đó nhà trường cần phải xác định mục tiêu yêu cầu HĐGD NGLL cho

cả năm học, từng học kỳ, từng hoạt động ; trong đó tính đa dạng của mục tiêu
cần được định hướng nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát là giáo dục toàn diện
học sinh.
- Tính kế hoạch: kế hoạch sẽ định hướng và giúp cho việc tổ chức hoạt động có
chất lượng và hiệu quả, tính kế hoạch của HĐGD NGLL cần đảm bảo tính ổn
định tương đối, tính hệ thống và tính hướng đích, không gây sự hỗn loạn và
tùy tiện trong tổ chức các hoạt động của nhà trường. Trên cơ sở kế hoạch, nhà
trường định ra cách tổ chức chỉ đạo, nội dung, phương tiện và qui mô hoạt
động ; sự chuẩn bị kế hoạch giáo dục chu đáo sẽ đem lại chất lượng, hiệu quả
giáo dục mà nhà trường và xã hội mong muốn.
 Nguyên tắc về tính tự giác, tự nguyện tham gia hoạt động
- Nếu hoạt động học tập trên lớp là bắt buộc thì HĐGD NGLL là tự nguyện, tự
giác. Nguyên tắc này đảm bảo quyền tự chọn tham gia các hoạt động theo khả
năng, hứng thú, điều kiện sức khỏe của mỗi học sinh, chỉ có như vậy mới tạo
ra được động cơ hoạt động, phát huy được thiên hướng của từng học sinh, trên
cơ sở đó giúp nhà trường và gia đình hướng nghiệp học sinh phù hợp nhất.
- Với nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải có nhiều hoạt động phong phú, đa
dạng, phải có nhiều nhóm, nhiều câu lạc bộ khác nhau, thường xuyên tổ chức
các cuộc gặp gỡ, các buổi tham quan, các hoạt động văn nghệ, thể thao… Chỉ
khi đó học sinh mới có thể tự nguyện, tự giác và theo hứng thú của mình, lựa
chọn cho mình loại hình hoạt động phù hợp.
 Nguyên tắc tính đến đặc điểm lứa tuổi và tính cá biệt của học sinh
Nội dung và hình thức HĐGD NGLL phải được thay đổi, tùy thuộc vào sự
chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang lứa tuổi khác ở học sinh. Giáo viên phải xác
định các loại hình hoạt động và các hình thức công việc sao cho chúng phù hợp với
khả năng của lứa tuổi học sinh và hứng thú cá nhân của họ. Điều đó dòi hỏi giáo viên
phải rất hiểu học sinh của mình, nắm rõ các đặc điểm cá biệt của họ để có thể đưa
học vào các hoạt động phù hợp với hứng thú, khả năng và năng khiếu của họ.
 Nguyên tắc kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của Thầy với tính tích cực, độc lập và
sáng tạo của học sinh

- Học sinh THPT có tính tích cực hoạt động xã hội và có khả năng tự quản, tuy
nhiên các em chưa có đủ kinh nghiệm sống vì vậy cần có sự lãnh đạo sư phạm
thường xuyên.
- Nguyên tắc này đòi hỏi phát triển tính tích cực độc lập, sang tạo của học sinh.
HĐGD NGLL phải là hoạt động của học sinh, do học sinh tổ chức và quản lý.
Vai trò của người Thầy là xác định phương hướng hoạt động và giúp đỡ học
sinh tổ chức công việc, là người cố vấn của học sinh trong các hoạt động của
họ.
 Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
- Khi tiến hành bất cứ hoạt động nào cũng phải tính đến hiệu quả ; nhưng hiệu
quả giáo dục luôn được coi là hàng đầu, chủ yếu của HĐGD NGLL.
- Kết hợp hiệu quả giáo dục với các hiệu quả khác như: kinh tế, chính trị, xã
hội… thì phải lấy hiệu quả giáo dục để điều chỉnh các hiệu quả khác.

1.2.3.2. Phương pháp tổ chức HĐGD NGLL
Phương pháp tổ chức HĐGD NGLL phải phù hợp với trình độ, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của học sinh nhằm phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sang tạo của
các em. Học sinh phải thực sự giữ vai trò chủ thể của hoạt động với sự giúp đỡ, định hướng
của giáo viên chủ nhiệm để thực hiện có hiệu quả các HĐGD NGLL.
Tổ chức HĐGD NGLL phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nhà trường, của địa
phương, đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Vì vậy, phương pháp tổ chức
hoạt động phải rất linh hoạt, cần điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức hoạt động sao
cho thích ứng được với học sinh, với giáo viên và phù hợp với điều kiện cho phép.
Phải khai thác và phát huy được tiềm năng của gia đình, các lực lượng xã hội, các tổ
chức đoàn thể tham gia vào việc tổ chức hoạt động cho học sinh. Đây là quan điểm có tính
nguyên tắc, tạo tiền đề cho việc tìm tòi, xây dựng các biện pháp khai thác và phối hợp các
lực lượng xã hội để tổ chức HĐGD NGLL đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình tổ chức HĐGD NGLL có rất nhiều phương pháp để áp dụng như:
 Thảo luận nhóm: thường được sử dụng trong các hình thức hoạt động như thi
theo chủ đề, thi giải quyết tình huống, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến

thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến cuộc sống tập
thể của các em…Phương pháp thảo luận nhóm có vai trò vô cùng quan trọng, nó
có tác dung phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình hoạt động, rèn
luyện, đồng thời còn phát huy trí tuệ tập thể của học sinh trong hoạt động. Thông
qua thảo luận nhóm giúp học sinh hình thành kỹ năng hợp tác, giáo dục tinh thần,
ý thức tập thể cho học sinh, giáo dục tinh thần đoàn kết giữa các học sinh với
nhau.
 Đóng vai: thường được thể hiện trong việc trình bày các tiểu phẩm, các đoạn kịch
ngắn giúp học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong tình
huống giả định. Phương pháp đóng vai giúp các học sinh phát huy tính chủ động,
độc lập, sáng tạo, phát huy tính thông minh, hình thành và rèn luyện kỹ năng giao
tiếp, phương pháp đóng vai tạo cơ hội để học sinh có thể rèn luyện và thử nghiệm.
 Giải quyết vấn đề: thường được vận dụng khi học sinh phải phân tích, xem xét và
đề xuất những giải pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình
hoạt động tập thể. Phương pháp giải quyết vấn đề giúp học sinh phát triển năng lực

×