Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.71 KB, 25 trang )

BÀI TẬP LỚN MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến
Chính phủ trung ương do dân cử ra”

Contents
A. Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh...............................................................................................................3
I/ Giới thiệu câu nói:....................................................................................................................................3
I/ Cơ sở luận điểm......................................................................................................................................3
Cơ sở lý luận.............................................................................................................................................3
Cơ sở thực tiễn.........................................................................................................................................4
1


II/ Nội dung luận điểm...............................................................................................................................6
1. Bản chất giai cấp của Nhà nước...........................................................................................................6
2. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.............................................................................................................7
3. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân......................................................................................................9
4. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra............................................................13
5. Nghĩa vụ của nhân dân.......................................................................................................................14
III/ Giá trị luận điềm................................................................................................................................14
Giá trị lý luận..........................................................................................................................................14
Giá trị thực tiễn......................................................................................................................................15
IV/ Thực tiễn thực hiện dân chủ nước ta...............................................................................................15
Thành tựu...............................................................................................................................................15
Hạn chế...................................................................................................................................................19
Nguyên nhân..........................................................................................................................................20
Giải pháp.................................................................................................................................................21
B. Liên hệ bản thân......................................................................................................................................22

A. Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh


I/ Giới thiệu câu nói:
. Cách đây trịn 70 năm, vào ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta, đã viết bài báo “Dân vận” để giúp cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn về vị trí, vai trị, ý nghĩa của cơng tác
dân vận. Đó cũng là năm mà tồn qn, tồn dân ta, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ do Người đứng đầu, đã kết thúc thắng lợi quãng đường 4
năm đầu tiên đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh của cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược. Tư tưởng chủ đạo, “hồn cốt” của bài báo đã
toát lên nội dung chủ yếu, then chốt về dân vận và cơng tác dân vận chính là
vai trị, vị thế của dân, “dân là chủ dân làm chủ”. Một trong những câu văn
góp phần làm rõ tư tưởng ấy của Người là “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
2


nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương
do dân cử ra/Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”.
I/ Cơ sở luận điểm
Cơ sở lý luận
a) Triết học Mác – Lênin
Cơ sở lý luận đầu tiên trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước dân chủ mà chúng mình muốn nhắc đến là các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Theo đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà ở đó,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và
pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Còn về nhà nước xã hội chủ nghĩa, đây là một kiểu nhà nước mà ở
đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã
hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sử mệnh xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của

đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại
Bên cạnh chủ nghĩa Mác – Lenin thì tinh hoa văn hóa nhân loại cũng góp
phần rất quan trọng trong việc hình thành câu nói của Người. Trước tiên,
về văn hóa phương Đơng, Bác đã tiếp thu tư tưởng tích cực của Nho giáo
về dân chủ: “quốc dĩ dân vi bản”, có nghĩa là “Nước lấy dân làm gốc”.
Ngồi ra, tư tưởng của Bác về nhà nước dân chủ còn được ảnh hưởng sâu
sắc từ lòng từ bi, vị tha, yêu thương con người, đề cao quyền bình đẳng
của con người của Phật giáo.
Tiếp đó, về tinh hoa văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã kế thừa và
phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền năm 1791 của Pháp. Cụ thể, Bản tun ngơn Độc lập của Mỹ có
khẳng định: “...các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được
quyền lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của nhân dân, rằng bất cứ khi
nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân
dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính
quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi
quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn
3


và hạnh phúc của họ.” Cịn Bản Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 của Pháp cũng nhấn mạnh: “Tất cả các cơng dân đều có quyền
đóng góp, trực tiếp hay qua đại diện của họ, để tạo ra luật pháp...”
c) Giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân dân
Cơ sở lý luận cuối cùng hình thành nên tư tưởng của Bác về Nhà nước
dân chủ là truyền thống yêu nước gắn liền với yêu dân đã có từ ngàn đời
của dân tộc Việt Nam. Ở Đền Trần, Nam Định, nơi thờ phụng các vị vua
nổi tiếng nhà Trần, ngay tại cổng Ngũ Mơn cịn ghi khắc câu đối : “Dân

vi bang bản thiên niên sách – Công tại nhân tâm vạn cổ trường”, dịch ra
là “Lấy dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm - Cơng lao ở lịng người
sẽ ghi tạc mn thuở”. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trước khi
lâm chung còn nhắn gửi lại với nhà Vua và triều đình rằng: “Nên khoan
thư sức dân và lấy việc bồi bổ sức dân làm kế sách lâu bền cho xã tắc”.
Nhà quân sự lỗi lạc, đại thi hào Nguyễn Trãi từng giúp Lê Lợi dẹp tan
quân Minh xâm lược, khởi nghiệp Nhà Hậu Lê cũng bắt đầu từ tư tưởng
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Bởi theo ông: “Chở thuyền cũng là dân,
lật thuyền cũng là dân. Thuận lịng dân thì sống, nghịch lịng dân thì
chết”.
Cơ sở thực tiễn
a) Thế giới
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phần lớn các nước châu Á, châu
Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các
nước đế quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn ngày càng phát
triển gay gắt. Giành độc lập và quyền tự chủ cho các dân tộc thuộc địa trở
thành mong muốn chung của giai cấp vơ sản quốc tế; tình hình đó đã thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Cách mạng
Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, nhiều nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời như Liên
bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết, Cộng hịa Nhân dân Mơng Cổ.
Sự sụp đổ, thất bại của các nhà nước kiểu cũ đã hình thành kinh nghiệm
và tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh
- Nhà nước phong kiến: trong bộ máy nhà nước phong kiến, vua hay hoàng
đế là người nắm hết mọi quyền lực, quan lại các cấp đều là tôi tớ của vua,
dân chúng trong nước đều là thần dân của vua. Nhân dân bị bóc lột, bị
4



đối xử tàn tệ, đời sống cực khổ, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi  Nhà nước
này quá tàn bạo, không thể không tiêu diệt
- Nhà nước dân chủ tư sản: trong hành trình bơn ba tìm đường cứu
nước, Người đã có dịp tiếp xúc với nhà nước dân chủ tư sản. Kiểu nhà
nước này có nhiều ưu điểm như nền kinh tế phát triển hay cuộc cách
mạng khoa học diễn ra mạnh mẽ, tuy nhiên nó vẫn có 1 số nhược
điểm đó là tồn tại nhiều mâu thuẫn sâu sắc: Mâu thuẫn giữa tư sản và
công nhân, Mâu thuẫn giữa các nước tư bản, Mâu thuẫn giữa hai cực
giàu nghèo.
b) Việt Nam
Từ giữa thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, nhân dân Việt Nam lầm than muôn
bề, chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến. Trong khi
Thực dân Pháp ráo riết mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Nam Kì,
chuẩn bị tấn cơng đánh chiếm cả nước ta thì Triều đình Huế vẫn tiếp tục
thực hiện chính sách nội trị, ngoại giao lỗi thời, lạc hậu.
=> Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Cụ thể:
+ Chính trị: bộ máy chính quyền mục mát từ trung ương đến địa phương.
+ Kinh tế: nông nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp đình trệ, tài
chính cạn kiệt.
+ Xã hội: đời sống nhân dân khốn khổ, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn
giai cấp ngày càng gay gắt.
=> Tình hình trên làm cho các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục
bùng nổ dữ dội trong những năm cuối thế kỉ XIX.
II/ Nội dung luận điểm
1. Bản chất giai cấp của Nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng tuyệt nhiên nó khơng phải là "Nhà nước toàn dân", hiểu theo nghĩa là
nhà nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của
một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản

chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt
Nam thể hiện trên mấy phương diện:
- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền. Lời
nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông,
5


do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Ngay trong quan điểm về nhà nước
dân chủ, nhà nước do nhân dân là chú nắm chính quyền, Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh nịng cốt của nhân dân là liên minh cơng - nơng – trí,
do giai cấp cơng nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau
đây. (1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế
hóa thành pháp luật chính sách, kế hoạch; (2) Bằng hoạt động của các
tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước;
(3) Bằng công tác kiểm tra.
- Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng
nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà
nước Việt Nam mới chính là để giai cấp cũng nhân và nhân dân lao
động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nổi trên.
- Ba là bàn chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc
tổ chúc và hoạt động của nó là ngun tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí
Minh rất chú ý đến cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và
hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến
sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh
phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất
quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất
với tính nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất
thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong
cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở
Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:
- Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân
tộc. Tủ giữa thế kỷ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân
dân Việt Nam, hết thế hệ này đến đến thế hệ khác đã không quản hy
sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn,
sức mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát huy cao độ, chiến
thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam
6


Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam mới, do vậy, không phải của riêng
giai cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân.
- Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và ln
kiên trì, nhất qn mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi
của dân tộc làm nền tầng: Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí
Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai cấp cơng nhân thống nhất
với lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Nhà nước Việt
Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh khơng chỉ cho lợi ích
của giai cấp cơng nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn
dân tộc.
- Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm

vụ mà toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các
cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng
một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là
con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự
nghiệp của chính Nhà nước.

2. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân
dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngồi ra khơng có
bất cứ lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, khơng có bất kỳ
một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc
gì có cơ lợi dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng
cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh ln tâm niệm: phải
làm cho dân có ăn, có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân
được học hành.
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân
dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Điều này được Người giải thích rõ trên
các phương diện:
7


- Nhà nước phục vụ nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và
hoạt động theo một mục tiêu duy nhất không ngừng cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân. Đúng với phương châm "Việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh".
Cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân là cơ sở hàng đầu đánh
giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ

cán bộ công chức nhà nước.
- Nhà nước vì dân là nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời sống của nhân
dân, trước hết là thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có
ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân được học
hành; làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay dân mà là hướng dẫn
dân tự chăm lo đời sống của mình.
Ngay sau buổi ra mắt Chính phủ thì Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính
phủ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, Người nói: nếu dân đói
thì Đảng và Chính phủ có lỗi; dân dốt Đảng và Chính phủ có lỗi; dân
rét Đảng và Chính phủ có lỗi. Chính sách của Chính phủ chỉ có 4 điều
là: làm sao cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở;
làm cho dân được học hành.
- Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước: Trong Nhà nước Vì
dân, cán bộ vừa là đày tớ, công bộc, nhưng đồng thời phải vừa là
người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu
thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước
vì dân.
+ Là đày tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Điều đặc biệt quan
trọng mà Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh là để phục vụ tốt nhân dân,
vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu,
tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết "các ông quan cách
mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước. Người căm ghét thói cậy quyền, cậy
thế, chia rẽ, kiêu ngạo, tham ơ, lãng phí, quan liêu, móc ngoặc, tham
nhũng… vì nó “là kẻ thù của nhân dân, của dân tộc, của Chính phủ.
Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm súng, nó nằm
trong tổ chức của ta, nó là giặc nội xâm để làm hỏng công việc của
ta”. Người dạy: “Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc, vật liệu
chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy,

8


chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan
cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân khơng ủng hộ”.
+ Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng
suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như
vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải
vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những làm
những việc trực tiếp có lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc
mới xem qua như là hại đến dân”, nhưng thực chất là vì lợi ích tồn
cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.

3. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà
tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Người khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của
chúng ta, tất cả mọi quyền là lực đều là của nhân dân". Nhà nước của dân
tức là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ" khẳng định địa vị chủ thể tối cao
của mọi quyền lực là nhân dân.
- Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thông qua việc bầu cử. Bầu cử có
vai trị quan trọng, là một hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện
quyền kiểm sốt của mình đối với Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, để
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
quan trọng nhất là cơ quan quyền lực nhà nước phải được nhân dân
bầu ra một cách dân chủ và tiến bộ. Chính vì thế, ngay sau khi Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người đã đề nghị Chính
phủ lâm thời cần sớm tổ chức một cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu và xây dựng Hiến pháp.
(xem vid)

- Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thơng qua hai
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
+ Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp
quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc
và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh ln coi trọng hình thức
dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời
tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
9


+ Dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử
dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thơng qua
các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà
họ lập nên. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân
chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là "thừa ủy quyền" của nhân dân. Tự bản thân
nhà nước khơng có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân
ủy thác cho. Do vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội
ngũ cán bộ của nó đều là “cơng bộc" của nhân dân, nghĩa là “gánh vác
việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân". Ở đây, Hồ Chí
Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ
nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo
Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ
viên này ủy viên khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân
dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phản công
làm đầy tớ cho dân”. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ
nhà nước thối hóa, biến chất, từ chỗ là công bộc của dân đã trở thành

“quan cách mạng”, đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế”
thế với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
Trước đòi hỏi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, để giữ vững địa
vị cầm quyền, khẳng định năng lực lãnh đạo, xây dựng các giá trị của
đảng cầm quyền thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, để bảo vệ thành
quả của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm
vấn đề kiểm sốt quyền lực khi trao cho cán bộ, đảng viên của Đảng.
Người chỉ rõ: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm
là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Quyền
lực này là do Đảng hoặc Chính phủ, đồn thể “ủy cho họ quyền lãnh
đạo” mà có. Xét cho cùng, quyền lực đó cũng đều do nhân dân “ủy
thác”
- Nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những
thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên
10


quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó
có quyền lực nhà nước, ln nằm trong tay dân chúng. Một nhà nước
thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, ln “mong đồng bào giúp đỡ,
đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là
người đầy tớ trung thành tận tuy của nhân dân…; trong Nhà nước đó,
“nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dẫn nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”, thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi Chính phủ”. Người chỉ rõ: “Chính phủ ta là Chính phủ
của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân
dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê

bình để làm trịn nhiệm vụ của mình là đầy tớ trung thành tận tụy của
nhân dân”, và với “...hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần
chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho
tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu cịn chỗ ẩn nấp”. Hồ Chí Minh cho rằng
phê bình và bày tỏ ý kiến là những cách quần chúng kiểm soát những
người lãnh đạo, đồng thời phải dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa
chữa cán bộ và tổ chức của ta. Người khẳng định: “Để cho dân chúng
phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định
không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng.
Đồng thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến
bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đồn kết chặt chẽ thêm”. Do đó,
“Trách nhiệm của cán bộ chính quyền và đồn thể là phải xem trọng
những phê bình và những đề nghị của quần chúng. Những cán bộ
(hoặc cơ quan, đồn thể) được phê bình cần phải thật thà và cơng khai
tự phê bình, ra sức sửa chữa”.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt
Nam mới với luật pháp của các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó
phản ảnh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật
pháp đó là của nhân dân, là cơng cụ thực thi quyền lực của nhân dân,
là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
Pháp luật là công cụ để thực hiện dân chủ:
+ Pháp luật thực hiện dân chủ trong kinh tế biểu hiện ở chính sách
phân phối thu nhập công bằng và hợp lý, dân chủ và công khai, minh
bạch, nếu làm ngược lại sẽ làm mất lòng tin của nhân dân. “Không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng. Khơng sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân
11


khơng n”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời của Khổng Tử để nhấn

mạnh vấn đề dân chủ trong thực hiện pháp luật. Theo Người, dân chủ
và bình đẳng trong kinh tế thể hiện ở bốn chính sách cơ bản để phát
triển nền kinh tế nước ta là: công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công
nông giúp nhau, lưu thơng trong ngồi. Biểu hiện cao nhất về vai trị
của pháp luật để thực hiện dân chủ trong kinh tế là nhân dân phải
được sở hữu tư liệu sản xuất, là người cày có ruộng, vì chỉ khi đó:
“mới có thể chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân”,
“bao giờ ở nông thôn, người dân làm chủ ruộng đất thì lúc đó mới có
dân chủ thực sự…, bao giờ ở nhà máy, công nhân làm chủ nhà máy, tư
liệu sản xuất thì lúc đó mới có dân chủ thực sự”.
+ Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
pháp luật có vai trị rất quan trọng để nhân dân tổ chức ra các tổ chức
xã hội, các hình thức tự quản của nhân dân, trong đó nhân dân đồng
thời là các thành viên và kiểm soát viên, bảo đảm cho nhân dân được
thực hiện quyền tự do cá nhân, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội
họp, quyền tự do đi lại..., đồng thời xem đó là một hình thức không
thể thiếu trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các sắc lệnh,
Người đã ký ban hành nhiều đạo luật về tự do, dân chủ cho nhân dân
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội như Luật về quyền tự do hội họp, Luật
về quyền lập hội. Vai trò của pháp luật trong việc nâng cao dân trí
được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là điều kiện tiên quyết cho việc
bảo đảm dân chủ và nâng cao dân chủ, bởi dân làm chủ có hồn tồn
hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan của người làm
chủ. Người khẳng định: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, vì vậy
“đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Để chống nạn thất
học và nâng cao dân trí, thực chất là nâng cao ý thức làm chủ và năng
lực làm chủ của nhân dân, Người nêu rõ: “Chính phủ đã ra hạn trong
một năm, tất cả mọi người Việt Nam đều phải biết chữ quốc ngữ.
Chính phủ đã lập một Nha Bình dân học vụ để trơng nom việc học của
dân chúng

4. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra

12


Ý này một lần nữa khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân trong việc
lập ra bộ máy nhà nước. Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn,
bầu ra những đại biểu của mình. Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây
dựng, giúp đỡ. Vì thế, Bác Hồ yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là
phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm sốt của nhân dân. Nếu chính phủ làm hại dân, khơng đáp
ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn
nó.
Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề
cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để
quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống,
cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế thực hiện.
Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các
tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là
người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm
sốt tồn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó.
Nhân dân có quyền tham gia bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, thông qua
Quốc hội để bầu ra Chính phủ, nhân cũng có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân nếu những người đó khơng xứng đáng.
Như vậy, quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở việc nhân dân tham gia
vào bầu đại diện thay mình điều hành chính quyền các cấp, tổ chức các
đồn thể các cấp tham gia xây dựng chính quyền, tham gia các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội, tham gia các hoạt động quản lý nhà nước.
 Như vậy, ý nghĩa sâu xa toát lên từ luận điểm nêu trên của Người là ở

chỗ, Đảng cũng ở trong xã hội, ở trong dân, chỉ vì dân mà tồn tại, mà
hoạt động, mà tranh đấu cho quyền lợi của dân. Đảng không thể ở
bên ngồi xã hội, khơng thể đứng trên dân, khơng thể xa dân. Sức
dân, lực lượng đồn kết của dân là cơ sở xã hội bền chặt nhất của
Đảng, quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân làm cho Đảng bền vững.
Đảng cũng do dân tổ chức nên là vì vậy. Và có thuận lịng dân, hợp ý
dân thì Đảng mới có uy tín trong dân, mới được dân ủng hộ. Có thuận
lịng dân thì dân vận mới vào được lòng dân, thành niềm tin và hành
động của dân, làm cho trách nhiệm của dân, công việc của dân trong
xây dựng đất nước, kiến thiết kinh tế và văn hóa đem lại kết quả để
13


dân thụ hưởng. Tóm lại, Nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực,
còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra, được ủy quyền,
thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, trở thành cơng bộc của
nhân dân. Họ là người lắng nghe, thấu hiểu được lịng dân, giải quyết
những u cầu, nguyện vọng chính đáng của dân. Do đó, quyền bầu
cử chính là quyền cao cả của mỗi cơng dân, đó cịn là nghĩa vụ, trách
nhiệm cơng dân trong việc góp phần xây dựng hồn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể xác định quyền bầu cử
của cơng dân chính là việc lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ
quan quyền lực nhà nước, quyền này thể hiện ở việc giới thiệu người
ứng cử và bỏ phiếu bầu cử để lựa chọn người đại diện cho mình tại
Quốc hội và HĐND các cấp.
5. Nghĩa vụ của nhân dân
Mở rộng luận điểm của Hồ Chí Minh, bên cạnh những quyền lợi to lớn do
Đảng và Nhà nước trao, nhân dân cũng cần phải nhận thức nghĩa vụ của
mình. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ,
thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công

dân”. Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo
kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung đóng góp (nộp thuế) đúng kỷ, đúng số
để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia cơng việc chung, bảo vệ tài sản
công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v..
III/ Giá trị luận điềm
Giá trị lý luận
Tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh đã bao quát toàn diện các
vấn đề cơ bản của đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam, con đường phát triển của Việt Nam trong xu thế phát triển của cách
mạng thế giới, của thời đại. Bên cạnh đó, câu nói của Người đã góp phần bổ
sung, phát triển kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ được đặt trên cơ sở hiện thực của Việt Nam nhưng có ý
nghĩa lớn đối với các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới
Giá trị thực tiễn
14


Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân, trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết về củng cố và
tăng cường xây dựng bộ máy nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực
tiễn lãnh đạo cách mạng đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát triển
sáng tạo tư tưởng của Người qua các kì đại hội nhằm mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu xuyên suốt, mục tiêu cao cả và là điểm tựa về
đường lối, chủ trương, chính sách để đồn kết tồn dân thực hiện thành cơng
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Gần đây nhất, Đại hội Đảng lần thứ 13 đã bổ sung nội dung, phương châm
thực hiện dân chủ, như thêm “dân giám sát, dân thụ hưởng” trong phương
châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ

hưởng”. Bên cạnh đó, Đảng xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng
cốt” để nhân dân làm chủ, khẳng định “vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của
nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong tồn bộ q trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đồng thời yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ
chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên
chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã
hội” trong thực hành dân chủ, trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Trên
cơ sở đó: “Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân
chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ,
làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”
IV/ Thực tiễn thực hiện dân chủ nước ta
Thành tựu
a) Dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng, như công tác
lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra,
v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
- Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30
năm qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng
đắn của Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có
dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng
triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân.
15


- Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng
cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động
quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở
chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được
biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cùng với việc dân biết, dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về
nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần
chúng nhân dân.
- Thứ ba, cơng tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực:
Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện
toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan
điểm, giải pháp về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành
các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu
đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ
chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
- Thứ tư, cơng tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ thống
chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;
kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian qua,
công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng.
- Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội bộ
Đảng. Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong các
hoạt động của Đảng, mà cả trong quan hệ nội bộ đảng mà chủ yếu là
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực hành dân
chủ trong quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong nội bộ đảng thể
hiện: (1) Sau khi có nghị quyết Đại hội và các hội nghị Trung ương,
các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh, gọn hơn trước; (2) Nhìn
chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động, năng động cao hơn
trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết và đưa nghị quyết vào
cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để báo cáo lên cấp trên; (4)

Cấp trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến đóng góp của cấp dưới; cấp
16


dưới đã mạnh dạn đóng góp ý kiến phê bình, xây dựng với cấp trên;
(5) Cùng với việc kiểm tra từ trên xuống, đã bắt đầu có sự kiểm tra từ
dưới lên; (6) Khắc phục được một bước tình trạng cấp trên quan liêu,
độc đoán, chuyên quyền, dọa nạt cấp dưới, đồng thời khắc phục được
phần nào tình trạng cấp dưới hối lộ, nịnh bợ cấp trên.
b) Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước. Nói về
những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Đảng cũng
tức là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Nhà
nước. Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục
hành chính giải quyết các cơng việc liên quan với nhân dân, biết được
quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết
toán ngân sách, v.v.. Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn
bạc nhiều việc quan trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ
sở hạ tầng ở địa phương, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới hành chính, phương án đền bù giải
phóng mặt bằng, v.v.. Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân.
Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số
mặt, dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ
chức và hoạt động, thích ứng và tổ chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã có những tiến bộ nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác
lập pháp, đã thông qua một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với
chất lượng ngày càng được nâng cao, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
quản lý nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng cường một bước tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng
kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền hà
trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan trọng là
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
17


nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta đang xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ luật,
kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà
nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân.
c) Dân chủ trong xã hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ trong xã
hội có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong Đảng có ý
nghĩa quyết định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì dân chủ trong Nhà
nước và trong xã hội cũng chưa thể tốt được.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể chế
hóa của Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong xã hội đã
có những bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
- Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn
trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý
kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời,
tích cực tham gia cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt
vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương.

- Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong
xã hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế,
chính trị đến văn hóa và xã hội. Quyền cơng dân, quyền con người
được khẳng định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, một
trong thành tựu quan trọng của đổi mới là nền dân chủ đang được hình
thành, đang đóng vai trị là động lực của sự phát triển xã hội.
Hạn chế
a) Dân chủ trong Đảng
- Công tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến
đấu còn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Các thông tin
chưa được cung cấp thường xuyên để dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong tự do ngôn luận, lắng
nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói nhiều, làm ít hoặc
nói nhưng khơng làm.
- Công tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, cịn một số biểu
hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng,
18


chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ
chế vận hành và nhiều quan hệ còn bất hợp lý. Chưa thực sự lắng
nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và
đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong công tác tổ chức, cán
bộ, chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc tuyển chọn và
bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ thực sự để tạo ra
môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện cơng khai
hóa, minh bạch hóa các khâu trong cơng tác cán bộ để nhân dân được
biết và có điều kiện theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện;

- Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng cịn nhiều hạn chế, đặc biệt là
chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ
tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan
kiểm tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo
hoặc báo chí nêu.
- Trong Đảng vẫn cịn tệ gia trưởng, độc đốn, dân chủ hình thức, đồng
thời vơ tổ chức, vơ kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp ủy bàn bạc,
nhưng chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Vì
người đứng đầu khơng thật sự mở rộng dân chủ, không tôn trọng lắng
nghe ý kiến trái với mình, thậm chí thành kiến, trù dập một cách khơn
khéo, nên cấp dưới khơng dám nói thẳng, nói thật. Nguyên tắc “tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình
thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa cấp
trên và cấp dưới, giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm
khơng ai chịu trách nhiệm.
b) Dân chủ trong Nhà nước
- Vẫn còn sự lộng quyền, lạm quyền, vẫn cịn tình trạng quan liêu, cửa
quyền, phiền hà đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ơ,
lãng phí, v.v... Ví dụ, gần đây nhất là vụ án ông Nguyễn Đức Chung,
từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XII, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đã bị bắt về tội đánh cắp bí
mật nhà nước năm 2020. Hay trước đó là vụ Đinh La Thăng, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Ủy viên Bộ Chính trị
khóa XII, Ủy viên Trung ương Đảng khóa X, XI về tội Cố ý làm trái
quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
năm 2017.
19


- Nhà nước cịn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ

thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào
cuộc sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
c) Dân chủ trong xã hội
- Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển
khai thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Thứ hai, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa
được thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực
hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân dân chưa
được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của nhân
dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực
hành dân chủ cịn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ
để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật
tự, an toàn xã hội.
- Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận,
lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc
giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước cịn nhiều bất cập. Tình trạng
tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp
luật cịn xuất hiện ở khơng ít người. Trong xã hội cịn khơng ít hiện
tượng vừa chun quyền, độc đốn, mất dân chủ hay dân chủ hình
thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực đoan.
- Thứ tư, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ,
khơng thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành
pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong
xã hội.
Nguyên nhân
Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về lý
luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều đó
gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa
làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Mặc dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn
có sự chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và
chưa có cơ chế rõ ràng.
20


Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực,
nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân chủ
với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy được
động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa
dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa được
phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều vừa
thiếu lại vừa yếu.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên việc
thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai
trò giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép
xây dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội.
Điều này ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội.
Ngồi ra, cịn có nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng những nguyên nhân
nói trên là những nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế dân chủ ở nước ta.
Giải pháp
- Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Để phát huy dân chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ
và toàn diện hơn nữa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy
dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận về phát huy quyền làm chủ; giải quyết tốt mối quan hệ
hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”;

tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả.
- Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối
của Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng
cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội
phát huy vai trị, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn
bản pháp luật để thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội,
nhất là những vấn đề liên quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi
ích của các thành viên, đồn viên, hội viên.
21


- Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy;
chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị
về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến
về nhận thức trong các tầng lớp nhân dân.

B. Liên hệ bản thân
Ngày hơm nay, Tư tưởng của Bác vẫn cịn ngun giá trị và sẽ mãi là kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ta sau này. Trong hơn 30 năm tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện đất nước, thực hành dân chủ, nước ta đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử của sự nghiệp đổi mới trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và
xã hội, đặc biệt là dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy và mở
rộng. Từ đó, mỗi sinh viên chúng ta – thế hệ trẻ tương lai của đất nước cần nhận
thức được trách nhiệm của mình với vận mệnh đất nước, cần phải học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
a. Học tập theo tấm gương trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
- Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thông anh hùng của dân
tộc là lương tâm, trách nhiệm của mỗi học sinh chúng ta và mỗi người Việt
Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, nền
văn hố, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích
của đất nước. Thế hệ trẻ chúng ta cần nâng cao tinh thần yêu nước, hiểu biết về
truyền thống anh hùng của dân tộc, kế thừa và phát huy những truyền thông quý
báu mà ông cha ta đã để lại như: Uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, lá
lành đùm lá rách,…Như bác đã từng nói:” Dân ta phải biết sử ta, cho từng gốc
tích nước nhà Việt Nam”. Chúng ta phải hiểu lịch sử hào hùng của dân tộc, ý
chí chiến đấu và quyết tâm bảo vệ tổ quốc của ông cha ta để từ đó lấy làm tự
hào, làm động lực để phấn đấu đạt được những mục tiêu đề ra.
- Tin tưởng, ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tăng cường
khối đại đồn kết dân tộc vì sự nghiệp chung của đất nước. Ở xã hội hiện tại,
sinh viên chúng ta phải luôn vững tin vào Đảng và nhà nước, luôn đi theo ánh
22


sáng của chủ nghĩa xã hội soi đường, không để bất cứ thế lực thù địch nào có
thể làm lung lay được tư tưởng ấy. Để làm được điều đó, mỗi sinh viên cần tích
cực tham gia các hoạt động, các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, sự ra đời
và truyền thống của Đảng, nghiên cứu những môn lý luận như Đường lỗi cách
mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh,…
b. Học tập theo tấm gương Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Cả cuộc đời Bác luôn sống giản dị, khiêm tốn với tất cae những gì mình
có, ln ln vì nước vì dân. Sinh viên chúng ta cần phải học tập và làm theo

tấm gương của Người:
- Kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, cần suy
nghĩ đến lợi ích tập thể, giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn, chấp nhận hi
sinh bản thân vì mục tiêu chung của tập thể
- Làm cán bộ phải gương mẫu, không làm dụng quyền lợi quyền hạn.
- Không tham gia vào tổ chức lừa đảo, tín dụng đen, đa cấp,… Chúng ta
phải luôn cảnh giác với những việc làm sai trái để bảo vệ chính bản thân mình
và bảo vệ trật tự xã hội
- Chi tiêu có kế hoạch, khơng lãng phí. Tiết kiệm là một đức tính tốt, nó
giúp chúng ta hiểu được giá trị của đồng tiền, cơng sức của mọi người bỏ ra, từ
đó chúng ta biết q trọng những gì đang có xung quanh chúng ta.
c. Học tấm gương về ý chí và nghị lực, tinh thần to lớn quyết tâm vượt
qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục tiêu trong cuộc sống.
- Cuộc đời Hồ Chí Minh đã trải qua bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy nhưng
nhờ có ý chí và nghị lực phi thường, khơng chịu khuất phục trước khó khăn,
kiên trị theo đuổi mục tiêu đến cùng nên bác đã đạt được những thành cơng to
lớn trị cuộc đời. Trong cuộc sống, khó khăn và thử thách ln tồn tại xung
quanh chúng ta, những những thử thách đó là nơi rèn luyện con người, chúng ta
khơng vượt qua thì khơng thể thành công được. Ngày nay chúng ta sống trong
xã hội hồ bình, chúng ta phải cố gắng rèn luyện, mỗi sinh viên cần tự trau dồi
kiến thức, kĩ năng học tập, nghiên cứu để xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật,
phát triển khoa học cơng nghệ.
Bên cạnh đó, học ngoại ngữ trong thời đại hiện nay là một việc rất cần
thiết. Học ngoại ngữ không chỉ là đủ điều kiện ra trường mà còn là học một nền
23


văn hoá khác. Hiểu những nền văn hoá khác nhau là một xu hướng tất yếu trong
nền văn hoá hội nhập và toàn cầu hiện nay.
Số phận hay cuộc sống của mình là do minh quyết định, dù cho đường đi

có khó khăn đến mấy, chỉ cần mình kiên trì thì ắt sẽ có thành cơng
“ Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
d. Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh nhân dân, sức mạnh đồn kết,
lịng nhân ái và vị tha với con người.
Đã là con người Việt Nam thì phải tin tưởng vào sức mạnh dân tộc Việt
Nam. Đặc biệt là hiện nay, khi đại dịch Covid 19 đang hoành hành gây thiệt hại
về người và tài sản thì chúng ta phải tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và tồn thể
nhân dân có thể đồng lịng cùng nhau đẩy lùi dịch bệnh. Chúng ta phải biết yêu
thương đồng bào, cùng nhau “nhường cơm sẻ áo”, tham gia các hoạt động
thiện nguyện, tình nguyện, qun góp giúp đỡ các vùng dịch bệnh gặp khó
khăn. Hãy cho đi để nhận lại những điều tốt đẹp hơn.

-=>Kết luận:
Như vậy, chính như lời Bác nói: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra”. Học tập và làm theo tư tưởng HCM về dân chủ và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, các cấp chính quyền chính
quyền mà còn là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ chức.

24


25


×