BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP NHĨM
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nhóm 4 - Lớp học phần LLTT1101(221)_03
Giảng viên: Nguyễn Thùy Linh
Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.”
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM.............................................................................................. 2
1. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................... 2
2. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 3
3. Sự lựa chọn hình thức nhà nước của Hồ Chí Minh .............................................. 5
II. NỘI DUNG CỦA LUẬN ĐIỂM ........................................................................... 5
1. Các khái niệm ..................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm nhà nước ...................................................................................... 5
1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.................................................................. 6
1.3. Khái niệm dân chủ ........................................................................................ 6
1.4. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ................................................ 6
2. Nội dung luận điểm ............................................................................................. 7
2.1. Nhà nước vì dân: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”........................................... 7
2.2. Nhà nước của dân: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”................................ 9
2.3. Nhà nước do dân: “Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử
ra”. ..................................................................................................................... 12
III. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM ........................................................................... 15
1. Soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề Cách mạng Việt Nam.
.............................................................................................................................. 15
2. Giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. .................................... 15
3. Là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, để Đảng trở thành
người lãnh đạo đáng tin cậy của nhân dân, để xây dựng nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân. ....................................................................................................... 16
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................... 16
1. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các kỳ đại hội ...................... 16
2. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua 35 năm đổi mới.................... 19
2.1. Thực tiễn Việt Nam về mặt chính trị qua 35 năm đổi mới .............................. 19
2.1.1. Những thành tựu nổi bật ........................................................................... 19
2.1.2. Những hạn chế còn tồn đọng .................................................................... 20
2.1.3. Một số giải pháp cụ thể ............................................................................ 21
2.2. Thực tiễn Việt Nam về mặt kinh tế qua 35 năm đổi mới ................................ 23
2.2.1. Những thành tựu nổi bật ........................................................................... 23
2.2.2. Những hạn chế còn tồn đọng .................................................................... 24
2.2.3. Một số giải pháp cụ thể ............................................................................ 25
2.3. Thực tiễn Việt Nam về mặt văn hóa – xã hội qua 35 năm đổi mới ................. 27
2.3.1. Những thành tựu nổi bật ........................................................................... 27
2.3.2. Những hạn chế còn tồn đọng .................................................................... 28
2.3.3. Một số giải pháp cụ thể ............................................................................ 29
3. Một số vấn đề thực tiễn khác ............................................................................. 30
3.1. Về quyền bầu cử của nhân dân .................................................................... 30
3.2. Luật an ninh mạng 2019 .............................................................................. 31
3.3. Các chỉ thị phòng chống dịch Covid-19....................................................... 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 36
LỜI MỞ ĐẦU
Lấy dân làm gốc là bài học truyền thống trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Lịch sử phong kiến Việt Nam đã chứng minh rằng, triều đại nào
biết dựa vào dân, quan tâm, chăm lo đến đời sống của nhân dân, thì triều đại đó thịnh
trị. Ngược lại, triều đại sẽ suy vong, dễ bị ngoại xâm, mất nước. Dân chủ là khát vọng
sâu xa, cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh lâu dài của các dân tộc và của loài người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, lãnh
tụ vĩ đại của dân tộc, đã để lại cho Đảng, đất nước ta di sản tư tưởng quý báu với nhiều
nội dung cốt lõi và sinh động, trong đó có vấn đề dân chủ. Cụ thể, người khẳng định
rằng: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền
từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.”
Và trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng em sẽ phân tích luận điểm trên của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài làm khơng tránh khỏi có sai sót, rất mong nhận được
sự đánh giá, góp ý và bổ sung đến từ cô và các bạn.
Các thành viên nhóm:
1. Nguyễn Thị Thu Hà
- 11191558
2. Ngơ Thị Ngọc Ánh
- 11190653
3. Ngơ Huy Hồng
- 11192074
4. Trịnh Quốc Hưng
- 11192238
5. Hoàng Thị Mai
- 11193267
6. Nguyễn Thị Hà Mi
- 11193374
7. Dương Vũ Hương Thảo - 11194674
8. Trần Phương Thúy
- 11195049
9. Phạm Thị Huyền Trang - 11195397
10. Đồng Thị Hà Vi
- 11195756
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM
1. Cơ sở thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Dân là gốc của nước. Dân là người đã không
tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước khơng có dân thì khơng thành
nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ
của đất nước.”
Quay ngược lại dòng lịch sử, từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, sau khi bị thực
dân Pháp đô hộ, dưới ngọn cờ “Cần Vương” - tức là giúp vua cứu nước, các phong trào
đấu tranh yêu nước liên tục mở ra trên phạm vi toàn quốc, như ở miền Nam, ta các
cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực,...; ở miền Trung có Phan Đình
Phùng, Đặng Như Mai,…; ở miền Bắc có Đinh Cơng Tráng, Hoàng Hoa Thám,… Tuy
đấu tranh anh dũng kiên cường, nhưng các cuộc khởi nghĩ đều lần lượt thất bại.
Đến đầu thế kỉ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách của cách
mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam ta
dần xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn
dắt của các sĩ phu yêu nước, như: Phong trào Đông du theo khuynh hướng bạo động
do Phan Bội Châu khởi xướng (1906 - 1909), Phong Trào Duy Tân theo khuynh hướng
cải cách do Phan Châu Trinh phát động (1906 - 1908), Phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác (3/1907 – 11/1907).
Nhưng rồi kết cục của các phong trào này cũng đều là thất bại.
Những thất bại của con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản
đã dẫn đến cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. “Tình hình
đen tối như khơng có đường ra” – đó là đánh giá của Bác về thời kỳ này trong bài phát
biểu Kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về nguyên nhân thất bại, một là do thiếu cương lĩnh đúng đắn để giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản, thiếu phương pháp đấu tranh thích hợp và tổ chức chặt chẽ;
hai là thiếu lực lượng, bởi lẽ các cuộc khởi nghĩa đều chỉ mang tính bộ phận, chưa tập
hợp được lực lượng của toàn dân tộc, đặc biệt là hai lực lượng xã hội cơ bản là nông
dân và công nhân. Trải qua các cuộc chiến tranh khốc liệt những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, cho thấy nhân dân ta có một lịng nồng nàn u nước, một ý chí đồn
kết đứng lên chống lại giặc ngoại xâm. Nhân dân chính là lực lượng xây dựng đất nước,
là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có
quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
2
2. Cơ sở lý luận
Một là, về giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến với lịch sử mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, tự hào và tự tôn dân tộc.
Tư tưởng xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ được phản ánh trong các bộ sử
lớn của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí...; trong những
bộ luật nổi tiến như Bộ luật Hồng Đức (đời Lê) .... phản ánh những tư tưởng pháp
quyền; hay là những tác phẩm xuất sắc như “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Lý Thường
Kiệt), “Bình Ngơ đại cáo” (được coi là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc) thể hiện sự
tự hào dân tộc mà Nguyễn Trãi đã viết nên. Những yếu tố tích cực của nhà nước thân
nhân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc: “nước lấy dân làm gốc”, tiếp
thu nho giáo … là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường
cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc
lập, đó là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hai là, về tinh hoa văn hóa nhân loại:
Cùng với những nhận thức về mặt lý luận, Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên
cứu, khảo sát thực tiễn để hình thành nên quan niệm về nhà nước.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân
dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý
đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các quyền
tự do, dân chủ của nhân dân, kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con người.
Trên hành trình cứu nước, Người đã nghiên cứu, khảo sát các loại hình nhà nước
tiêu biểu lúc bấy giờ:
Một là, nhà nước thực dân phong kiến
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu mơ hình này trên tất cả các mặt văn hố, kinh tế,
chính trị, tư tưởng và đi đến kết luận: Nhà nước thực dân phong kiến là một nhà nước
phản văn hoá, phản tiến bộ, cần phải đập tan và tiêu diệt, thay vào đó một nhà nước
khác tiến bộ hơn.
Hai là, nhà nước dân chủ tư sản
Trên hành trình khảo sát, tìm kiếm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp
xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và các hình thức,
bản chất nhà nước của Pháp, Mỹ. Hình thức nhà nước mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn để
áp dụng vào điều kiện của Việt Nam, tiêu chí đầu tiên là nhà nước đó phải đại diện cho
đa số, mưu cầu cho lợi ích của đa số. Từ nhận thức chung như vậy, Hồ Chí Minh nói:
3
“Ta làm cách mạng ta sẽ không xây dựng mô hình nhà nước như của Mỹ, của Pháp,
mà ta sẽ xây dựng mơ hình nhà nước khác”.
Ba là, nhà nước Xơ viết
Sau khi đến Liên Xơ, Người đã tìm thấy mơ hình nhà nước kiểu mới: “… phát
ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới, để
thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ
được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng năm 1930.
Ba là, về chủ nghĩa Mác – Lênin:
Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ
Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý luận cách mạng tiên tiến nhất của
thời đại. Được soi sáng bởi phương pháp luận biện chứng mácxít, thơng qua hoạt động
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phát hiện vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận
hành, trên cơ sở phân tích, so sánh và đặt chúng trong dịng chảy liền mạch của tiến bộ
lịch sử. Q trình tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất là “chặng
đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai
lầm dẫn tới ngõ cụt”.
Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
(1920), Nguyễn Ái Quốc đã “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng... vui mừng đến
phát khóc...” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính Luận cương
của V.I. Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân
tộc. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hồi bão được ấp ủ từ lâu, nay
đang trở thành hiện thực. Người viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết
kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”; “Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến
đấu và giành được thắng lợi to lớn”.
4
3. Sự lựa chọn hình thức nhà nước của Hồ Chí Minh
Ngay từ khi cịn trẻ chứng kiến cảnh đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than,
chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được sự phản nhân tính của nhà nước
thực dân phong kiến, Người ln đau đáu tìm kiếm một con đường cách mạng để làm
tấm gương soi sáng cho con đường đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho nhân dân Việt
Nam. Ngày 5-6-1911, Người quyết định lên đường ra đi trên con tàu Amiral Latouche
Tréville từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), đến với vùng đất phương Tây vốn
được coi là thiên đường tự do dân chủ để tìm kiếm con đường cứu nước ta thốt khỏi
cảnh nơ lệ.
Tuy nhiên, trong những năm tháng ở Mỹ và Pháp, người nhận thấy nhà nước
dân chủ tư sản ở hai nước này mặc dù đã xác lập một hệ thống giá trị theo các chuẩn
mực dân chủ và nhân đạo nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của tầng lớp
quyền lực vì lợi ích của thiểu số, Người đã kiên quyết không lựa chọn con đường cách
mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “khơng đến nơi”, khơng
triệt để vì nó khơng hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động
khỏi sự áp bức, bóc lột, bất cơng.
Bằng những khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo, vào
những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách
mạng Tháng Mười, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin. Câu hỏi về con đường
xóa bỏ nhà nước thực dân phong kiến và lấy gì để thay thế đã tìm được lời giải xác
đáng. Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận động của lịch sử, Hồ Chí Minh dựa
trên hai cơ sở chính. Đó là tính chất nhân dân và khả năng của nhà nước trong việc bảo
đảm cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần thế” của nhân dân
và con người. Ở Hồ Chí Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục
tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Đây là kết quả 15 năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân ta;
kết quả tất yếu của sự phát triển về nhận thức, sự sáng tạo trong thử nghiệm các hình
thức chính quyền từ thấp đến cao của Đảng. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
nhà nước dân chủ thực sự, tất cả cán bộ, đảng viên là “công bộc của dân”.
II. NỘI DUNG CỦA LUẬN ĐIỂM
1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm nhà nước
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực
hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ
địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
5
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật thì tương đương với một quốc gia, là một
tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm
thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp.
1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
1.3. Khái niệm dân chủ
Các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại dùng cụm “demoskratos” để nói đến dân chủ.
Dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này các nhà chính trị gọi là quyền lực của
nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người
chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ thể
của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh
giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân: “Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là dân làm chủ”. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ dành
về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thơng qua đấu tranh
cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân.
Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là
một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; có q trình ra đời, phát triển
cùng với lịch sử xã hội nhân loại.
1.4. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân
nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là
kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan
điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác – Lênin. Kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư
tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn
sâu sắc.
6
2. Nội dung luận điểm
2.1. Nhà nước vì dân: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
“Lợi ích” theo từ điển Tiếng Việt, là “điều có lợi, có ích cho một đối tượng nào
đó, trong mối quan hệ với đối tượng ấy”. Theo Triết học Mác - Lênin, “lợi ích là những
điều kiện vật chất, tinh thần có tính khách quan đối với sự tồn tại và phát triển bình
thường của các cá nhân, các cộng đồng người, các giai cấp và của xã hội nói chung”.
Theo quan niệm của Hồ Chủ tịch: “Dân là gốc của nước. Dân là người đã không
tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước khơng có dân thì khơng thành
nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ
của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất”. Do vậy, nếu
khơng có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các
tổ chức quần chúng cũng vậy. Nhân dân là lực lượng xây dựng đất nước, là lực lượng
hợp thành, ni dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm
chủ đất nước, tất cả các lợi ích đều là vì dân.
Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX, khi đất
nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này đến đến thế hệ
khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh của toàn dân tộc đã được
tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Nhà nước Việt Nam mới, không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về
nhân dân, do đó mọi lợi ích đều vì dân.
Về khái niệm Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh là
một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước
đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: “Các cơng việc của Chính phủ làm phải
nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên
Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dần lên trên hết thảy. Việc gì có
lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Vậy, thế nào là biểu hiện của một Nhà nước vì dân?
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lịng dân. Hồ
Chí Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin,
dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước
7
hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí
cơng vơ tư”. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa
là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là
những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân. Là đày tới thì phải trung
thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trơng
rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân
phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì mới có thể
“chẳng những làm những việc trực tiếp có lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc
mới xem qua như là hại đến dân, nhưng thực chất là vì lợi ích tồn cục, vì lợi ích lâu
dài của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của
nhà nước từ trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Mọi
cán bộ nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư. Một nhà nước vì dân phải đảm bảo cho dân có được cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của
Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước vì
dân khơng chỉ biết làm lợi cho dân mà cịn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng ta
phải u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta; đồng thời phải làm cho nhân dân
hiểu rõ: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng
dân, giữ đúng đạo đức cơng dân”
Hồ Chí Minh thường xun căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến nghị,
đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lịng,
những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi
khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ
nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”.
Người nêu rõ nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam kiểu mới là: “Lấy lợi ích chính
đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của dân, ngồi ra khơng có bất cứ
một lợi ích nào khác. Chính quyền là của dân, do dân làm chủ thì Chính quyền là đầy
tớ, cơng bộc của nhân dân, phải vì dân mà hoạt động”. Do vậy, Người yêu cầu: “Tất cả
các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự kiểm sốt của nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là
tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước. Để hoàn thành
được mục tiêu đó, Bác ln chú trọng đến việc xây dựng một thể chế pháp quyền nhân
8
nghĩa để hợp pháp hóa quyền lợi của nhân dân, cùng với đó là một bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh để đảm bảo thực thi và bảo vệ quyền lợi đó một cách triệt để.
“Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ
thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đồn kết thành
một khối”. Chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt
đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo Người, “Chúng ta tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng
với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
2.2. Nhà nước của dân: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và
phát triển những giá trị về quyền con người trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của nước Mỹ, bản Tun ngơn nhân quyền và dân quyền của Cộng hịa Pháp năm 1789
lên một tầm cao mới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trong phát biểu tại phiên họp
đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “…Trước
chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế nên nước ta khơng có Hiến pháp, nhân dân ta khơng được hưởng
quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Dù trong hồn cảnh
mn ngàn khó khăn, Người vẫn cùng Đảng và Nhà nước ta quyết tâm tổ chức thành
công cuộc Tổng tuyển cử, lập ra Quốc hội khóa I để thực hiện mục tiêu cao cả đó. Điều
thứ nhất của Hiến pháp năm 1946 đã long trọng ghi nhận: “Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, trai gái, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
9
Về khái niệm nhà nước của dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả
mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng
định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền
lực đều là của nhân dân”. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là
chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.
Vậy, quyền hạn của dân được thể hiện như thế nào?
Trước hết, quyền hạn của nhân dân được thể hiện ở quyền công dân.
Hai chữ “công dân” biểu hiện cho mối quan hệ pháp luật giữa nhà nước và người
dân của đất nước đó. Theo quan niệm của Mác, quyền cơng dân là những quyền chính
trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân”.
Như vậy, khi đề cập đến quyền công dân là đề cập đến những quyền mà công
dân được hưởng theo các quy định của pháp luật. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong
xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng định: “Trong nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thơng qua hai hình thức:
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp; trực tiếp quyết định mọi vấn đề hay thực thi
quyền lực thông qua các đại diện mà nhân dân bầu ra. Nhân dân đủ tuổi theo quy định
của pháp luật có quyền tham gia quản lý nhà nước và tham gia biểu quyết khi đất nước
tổ chức trưng cầu ý dân, đồng thời có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền
bãi nhiệm những đại biểu mà họ đã lựa chọn và giải tán những thiết chế quyền lực mà
họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo
cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, luôn nằm trong tay dân chúng.
Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, ln “mong đồng bào giúp đỡ, đơn
đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành
tận tụy của nhân dân”; trong Nhà nước đó, “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy khơng xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân, thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ”.
Thứ hai là về quyền con người.
Từ lâu, quyền con người hình thành cùng với sự xuất hiện của những nền văn
minh cổ đại, quyền con người xuất phát từ các quyền thiêng liêng, tự nhiên, vốn có của
con người, khơng do chủ thể nào ban phát. Quyền con người là khái niệm rộng hơn
quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền con người khơng bị bó hẹp trong mối quan
10
hệ giữa cá nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa cá
nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại, về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi
chế định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của “gia
đình nhân loại”, bất kể vị thế, hồn cảnh, quốc tịch... Nói cách khác, quyền con người
được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh
sống trên phạm vi tồn cầu, khơng phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân
hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người ln được cụ thể hóa
bằng những quyền cơ bản của công dân (do được ghi nhận trong hiến pháp) và bao giờ
cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng - đây là một trong những chế
định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thơng qua đó, có thể xác
định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị
đến văn hố, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích cá nhân đến những
vấn đề trọng đại của đất nước như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà
nước. Ngồi quyền làm chủ đất nước, người dân cịn có quyền làm chủ bản thân, nghĩa
là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do ngơn luận, tự do học tập,
tự do tín ngưỡng… trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Người dân có quyền làm chủ
các tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người
dân có quyền làm chủ các đồn thể, các tổ chức chính trị xã hội thơng qua bầu cử và
bãi miễn.
Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Đi đôi với quyền lợi
là nghĩa vụ. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có
nghĩa vụ làm trịn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Nhân dân làm chủ
thì phải tuân theo luật pháp của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự
chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham
gia cơng việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho
đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, v.v…
Ý nghĩa cao cả và sâu sắc của quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
ở chỗ: quyền lực nhà nước phải thực sự thuộc về nhân dân; nhân dân vừa là đối tượng
và mục đích mà nhà nước hướng tới để phục vụ, vừa là chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70” (Điều thứ 21, Hiến pháp năm 1946). Khi
đó, quyền con người khơng chỉ là quyền và tự do của cá nhân, mà có ý nghĩa rộng lớn
hơn - đó là quyền lực nhân dân, và quyền lực nhân dân là cội nguồn, gốc rễ của quyền
lực nhà nước. Nói nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là vì vậy, bởi
11
chỉ trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì nhân dân mới đích thực là cơ sở xã hội của nhà
nước.
Tóm lại, nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị - xã hội, thể chế chính trị
dân chủ phải bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân là người có quyền
quyết định vận mệnh của quốc gia - dân tộc; nhân dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ
xây dựng, củng cố và thực hành quyền lực của mình thơng qua hệ thống chính trị và
thể chế chính trị dân chủ, xây dựng và củng cố bộ máy quản lý nhà nước nhằm hướng
tới phục vụ lợi ích của chính mình.
2.3. Nhà nước do dân: “Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương
do dân cử ra”.
Cùng nhìn lại dịng lịch sử, ở Việt Nam, ngay sau khi mới được thành lập năm
1945, chính quyền cách mạng phải đối phó với một tình thế hết sức khó khăn. Chính
phủ lâm thời long trọng tun bố với thế giới: “Nước Việt Nam đã trở thành một nước
tự do, độc lập”, song chưa được một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Mặc dù
trong điều kiện thù trong, giặc ngồi, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội hết sức khó
khăn, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng: “Phải bầu ngay Quốc hội, càng sớm càng tốt. Bên trong thì nhân
dân tin tưởng thêm vào chế độ mình. Trước thế giới, Quốc hội do dân bầu ra sẽ có một
giá trị pháp lý khơng ai có thể phủ nhận được”, “Chỉ có Tổng tuyển cử mới để cho dân
chúng có dịp nói hết những ý muốn của họ và chỉ có Chính phủ lập ra bởi Tổng tuyển
cử mới là đại diện chân chính và trung thành của tồn thể quốc dân”. Thắng lợi của
cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam,
mở ra một thời kỳ mới.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, để thực hiện thống nhất nước nhà về
mặt Nhà nước, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc (từ 15-21/11/1975)
đã quyết định tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc
hội chung cho cả nước. Quốc hội sẽ xác nhận thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan
lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất. Do
vậy, Quốc hội khóa VI do nhân dân cả hai miền Nam, Bắc bầu ra (vào ngày 25/4/1976)
là người đại diện hợp pháp cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Vậy, thế nào là nhà nước do dân?
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do
nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp Cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên
nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền:
bầu cử, phúc quyết,… Cán bộ trong các ban, nghành của Chính phủ do dân lựa chọn,
bầu ra. Bằng niềm tự hào và sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân dành cho Đảng, họ đã
12
cử ra những con người có tâm và có tài gánh vác trọng trách quan trọng để đưa nước
ta thắng lợi các cuộc kháng chiến đến phát triển đất nước khi thời bình được thể hiện
qua các giai đoạn một cách rõ rệt.
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định rõ: “Nước
ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”. Nếu “dân là chủ” xác định
vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ” nhấn mạnh quyền
lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng
dân, giữ đúng đạo đức cơng dân”. Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của
Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng
kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài
sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v...
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân
dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng
đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu cầu cán bộ, đảng
viên phải thật sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Từ đó, quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện như thế nào?
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, người cho rằng “Chính quyền từ xã đến
trung ương do dân bầu ra”. Cụ thể:
Trong các bài viết về Thường thức chính trị trên báo Cứu quốc năm 1953, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi
trở lên, không phân biệt gái, trai, tơn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, khơng phân
biệt nịi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách hợp lý để nhân dân lao động thực
hành quyền thống trị của mình”. Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trị đặc
biệt quan trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ.
Bằng bầu cử, nhân dân lựa chọn, thành lập ra cơ quan đại diện và ủy thác quyền
lực cho họ. Họ thay mặt nhân dân, thực hiện quyền lực trong bộ máy nhà nước. Lịch
sử phát triển của nhà nước trên thế giới đã trải qua nhiều cách thức tổ chức chính quyền
mà khơng qua bầu cử. Dân chủ xét dưới góc độ tổ chức bộ máy nhà nước có nghĩa là
nhân dân chính là chủ thể của q trình tổ chức. Do vậy, các phương thức tổ chức
khơng thể hiện bản chất đó như truyền ngơi thế tập, dùng bạo lực... có xu thế chuyển
sang bầu cử. Trong thế giới hiện đại, chính quyền thành lập khơng qua bầu cử - như
bằng đảo chính quân sự - dù nhằm mục đích gì (kể cả được coi là chính đáng, như
chính quyền cũ q thối nát), thường khơng được các quốc gia, các tổ chức quốc tế
công nhận, hoặc nếu có thì sự thừa nhận cũng hết sức dè dặt. Ngược lại, một chính
quyền do người dân thành lập thông qua bầu cử theo những nguyên tắc tiến bộ: tự do,
13
cơng bằng và trung thực, thì về ngun tắc, chính quyền đó được coi là hợp pháp và
được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thơng qua hai hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định
mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng.
Hồ Chí Minh ln coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ
hoàn bị nhất, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức
dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thơng qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà nước
khơng có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Do vậy, các
cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều là “cơng bộc” của
nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ khơng phải để đè đầu dân”. Ở
đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà
nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh: “Dân
làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này uỷ viên khác là làm gì? Làm
đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”, “Nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân cơng làm đày tớ cho
dân”. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ
chỗ là cơng bộc của dân đã trở thành “quan cách mạng”, đứng trên nhân dân, coi khinh
nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
- Nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những
đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà
họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo
cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, luôn nằm trong tay dân chúng.
Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, ln “mong đồng bào giúp đỡ, đơn
đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành
tận tụy của nhân dân, trong Nhà nước đó, “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân”, thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
đuổi Chính phủ”.
14
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật pháp của
các chế độ tự sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi
của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của nhân
dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
III. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân là một trong những di sản tư tưởng bao trùm và xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Đồng thời, đây cũng là tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, đặt trong bối cảnh ngày nay có rất nhiều
giá trị lớn về lý luận và thực tiễn, cụ thể ta có thể đề cập đến một số nội dung sau:
1. Soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề Cách mạng Việt
Nam.
Khi chưa có Đảng nhân dân ta sống chìm đắm trong vịng nơ lệ của chế độ thực
dân phong kiến, tưởng như khơng có lối ra. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa MácLênin, thành lập Đảng cộng Sản Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho
sự phát triển của nước ta. Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, cách mạng Việt Nam
đã tìm ra con đường đi đúng, vượt qua mọi thử thách đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức và hành động đúng trong việc
đề ra các mục tiêu chiến lược, chiến thuật của cách mạng; huy động tối đa nguồn sức
mạnh của nhân dân; đường lối đối nội, đối ngoại sáng tạo.
2. Giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Những chỉ đạo của người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để thực sự
là hạt nhân lãnh đạo của cách mạng nước ta về xây dựng nhà nước, hệ thống chính
quyền thực sự của dân, do dân, vì dân; xây dựng các đồn thể, cán bộ là cơng bộc của
dân mãi mãi vẫn cịn ngun giá trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây
dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nói riêng là tài sản tinh thần
vô giá của Đảng và của dân tộc. Giá trị ấy được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc
vào ý thức, trình độ, năng lực vận dụng của mỗi người chúng ta. Nghiên cứu, học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là công việc rất quan trọng và
cần thiết. Vào thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần thiết. Nếu mỗi cấp ủy và
mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần và quán triệt sâu sắc những tư
tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, thật sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng theo những lời
15
dạy của Người thì nhất định Đảng ta sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh, khắc phục
được những nguy cơ của một đảng cầm quyền, tiếp tục được nhân dân tin yêu ủng hộ.
3. Là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, để Đảng trở
thành người lãnh đạo đáng tin cậy của nhân dân, để xây dựng nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991)
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng
đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”. Điều này tiếp tục được nhấn mạnh
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” . Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng cũng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”…
Trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch ngày càng tăng cường và đẩy
mạnh hơn các chiến dịch, các thủ đoạn, các hình thức từ bên ngồi, câu kết và phối hợp
với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở trong
nước để chuyển tải, truyền bá các thông tin sai lệch, bịa đặt, vu khống, xuyên tạc nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, công khai tấn công vào những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng, việc chủ động phịng và chống sự xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh trở
nên bức thiết.
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các kỳ đại hội
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước”. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và đúc kết bài học kinh nghiệm: “Trong tồn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”.
Đại hội VII của Đảng nêu yêu cầu, phải tổ chức và vận động các tầng lớp nhân
dân hăng hái tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, đóng góp ý kiến với cơ quan
nhà nước các cấp xây dựng các quy chế, quy ước phù hợp với luật pháp và chủ trương,
16
chính sách của Nhà nước, tham gia phổ biến pháp luật trong nhân dân và tổ chức các
phong trào quần chúng thực hiện pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng cơ chế để thực hiện phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua các cơ
quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ trong quá trình
ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân
chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây
dựng Luật trưng cầu ý dân”.
Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường đối với
vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”, “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện
vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân
chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám
sát quá trình thực hiện”.
17
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng quan niệm: “Dân là gốc, dân là chủ thể,
dân là trung tâm; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng;
từ đó, chủ trương thân dân, tin dân, trọng dân, gần dân, sát dân, hiểu dân, u dân, kính
dân, vì dân”.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của
Đảng mà cịn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống
pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách,
pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban
hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ
thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người,
quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và
trách nhiệm đối với xã hội”.
Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là nguyên tắc hiến định về
thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2),
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3),
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước” (Điều 6),...
Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm
2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, như: Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Luật trưng cầu dân ý, Luật đất đai, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng
dân sự, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Chính quyền địa
18
phương, Luật tiếp cận thơng tin, Luật báo chí, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ
luật lao động, Luật bảo hiểm y tế...
2. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua 35 năm đổi mới
2.1. Thực tiễn Việt Nam về mặt chính trị qua 35 năm đổi mới
2.1.1. Những thành tựu nổi bật
Một là, thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bảo đảm sự gắn bó
mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân từng bước được tiến hành một cách đồng bộ,
toàn diện.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Theo đó, nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông
qua Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước.
Chính phủ với tư cách là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp”, cơ quan hành
chính cao nhất và là cơ quan chấp hành của Quốc hội đã chú trọng đề cao tính dân chủ
và tính pháp quyền trong điều hành, hướng đến xây dựng nền hành chính thống nhất,
thơng suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Trong 35 năm đổi mới,
Chính phủ tập trung đổi mới, cải cách thể chế, bộ máy, công chức và tài chính cơng
theo hướng dân chủ, khoa học, hiện đại, chun nghiệp. Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2020 đã được tiến hành
nhằm xây dựng một nền hành chính chun nghiệp, hiện đại, văn minh. Theo đó, một
loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành; đồng thời, Chính phủ từng bước
đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh, cơ chế xin
- cho sang quản lý bằng pháp luật, đề cao trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Hai là, sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị và quản lý nhà nước
ngày càng gia tăng.
Trên cơ sở triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức vận động nhân dân
tham gia tích cực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, không ngừng
đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước. Các luật về tổ chức chính trị - xã hội, như Luật Cơng đồn, Luật Thanh niên,
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... đã cụ thể hóa vai trị của các tổ chức chính trị - xã
hội được quy định trong Hiến pháp đối với công việc quản lý nhà nước, giám sát và
19
phản biện xã hội, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Thông qua Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11-5-1998, của Chính phủ “Về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày
08-9-1998, của Chính phủ, về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan”, Chính phủ đã bổ sung thêm cơ sở pháp lý để phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đi vào cuộc sống. Như vậy, thông qua các thể chế pháp
luật và các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân ngày càng tích cực,
chủ động tham gia vào cơng việc của Nhà nước, đóng góp trí tuệ, nhân tài, vật lực để
xây dựng Nhà nước vững mạnh, bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân
dân.
Ba là, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sự phát triển
đồng bộ cả về năng lực và phẩm chất, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ năng lực và phẩm chất tham gia vào
bộ máy quản lý nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày
18/6/1997, về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 9 khóa X ban hành Kết luận “Tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”. Gần đây nhất, Hội nghị Trung
ương 7 khóa XII ban hành Nghị quyết “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức gần đây
đã bổ sung, làm rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức và viên chức trong việc thực
hành công vụ, đưa ra những quy định tăng cường kỷ luật đối với cơng chức, viên chức,
xóa bỏ quan niệm “hạ cánh an toàn” của cán bộ, cơng chức về hưu mắc sai lầm, khuyết
điểm trước đó, cán bộ, công chức tham nhũng bị buộc thôi việc; xóa bỏ chế độ “biên
chế suốt đời” với viên chức; công khai kết quả đánh giá cán bộ, công chức tại nơi làm
việc...
2.1.2. Những hạn chế còn tồn đọng
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta có thể nhận thấy một số vấn đề
đặt ra cần được tiếp tục giải quyết như:
Một là, nhận thức về vai trò, địa vị của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội vẫn cịn chưa đầy đủ và tồn diện.
20
Quyền tiếp cận thông tin của nhân dân được luật hóa; tuy nhiên, trong nhiều lĩnh
vực hoạt động cũng như ở một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương,
vấn đề minh bạch hóa thơng tin, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ, thi tuyển, bổ
nhiệm cán bộ, cơng khai hóa các dự án để đấu thầu, minh bạch hóa tài sản và thu nhập
cá nhân, quản lý tài nguyên, môi trường, quản lý tài chính cơng vẫn cịn hạn chế. Trách
nhiệm giải trình và xử lý sau giải trình thơng qua các kỳ họp Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp cho thấy hiệu quả chưa cao, chưa đồng bộ. Vai trò kiểm tra, giám sát
quyền lực nhà nước của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và vai trò phản biện,
giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa đạt được hiệu quả
như mong muốn. Các phương thức thực hiện quyền làm chủ trực tiếp còn hạn chế. Vấn
đề “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” còn bất cập. Hơn nữa, vấn đề quan
tâm đến việc hưởng thụ các thành quả lao động sáng tạo của nhân dân còn bộc lộ nhiều
thiếu sót, dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, lợi ích nhóm gia tăng, nguy cơ nghèo và
tái nghèo tiềm ẩn cao.
Hai là, khoảng cách giữa việc ban hành luật pháp và thực hiện luật pháp
chưa được rút ngắn.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa
qua, độ chênh giữa việc ban hành và thực hiện pháp luật cịn có khoảng cách khá rõ.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do người dân chưa nhận thức
rõ được vai trò của từng văn bản quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành liên quan
trực tiếp đến cuộc sống của họ.
Ba là, thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất
cập.
Trên thực tế, tình trạng “vừa thiếu dân chủ”, “vừa thiếu kỷ cương” chậm được
khắc phục. Trong hoạt động của cơ quan nhà nước, cịn khơng ít các biểu hiện mất dân
chủ hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ ở nhiều nơi, nhiều lúc cịn mang
tính hình thức, thực hiện pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu các cơ quan công quyền chưa được quy định rõ ràng, thực hiện
chưa nghiêm. Còn thiếu các chế tài bảo đảm thực thi dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ
luật.
2.1.3. Một số giải pháp cụ thể
Do những tồn đọng trên, mục tiêu của Đảng ta là cần tiếp tục vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ trong việc củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân
trong thời gian tới, cụ thể:
21
Một là, tiếp tục nghiên cứu và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Đây là một tài sản có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn cần được học tập, vận
dụng và triển khai nghiêm túc trong toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước và xã hội,
tạo động lực tinh thần mạnh mẽ để xây dựng, phát triển bền vững đất nước.
Hai là, tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh
thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.
Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện, dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”. Quán triệt quan điểm của Đảng trong xử lý các vi phạm
pháp luật theo ngun tắc mọi cơng dân bình đẳng trước pháp luật, khơng có vùng cấm,
khơng có ngoại lệ. Thực hiện nhất quán chủ trương thực hành dân chủ một cách đồng
bộ và tồn diện; phát huy tinh thần tích cực, chủ động của nhân dân trong việc tham
gia thực hành dân chủ, tham gia xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, liêm chính,
hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân
dân các cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác lập pháp, giám sát tối cao
và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Tăng cường sự gắn kết của các hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và giám sát của nhân dân. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra,
giám sát trong các hoạt động của Chính phủ. Tập trung xây dựng chính quyền điện tử,
cắt bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, khắc phục tối đa các khoảng trống dẫn đến
tham nhũng, hối lộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tòa án nhân dân, viện
kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, hoạt động luật sư và hỗ trợ tư pháp.
Bốn là, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính,
có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, năng lực, uy tín, tính chuyên nghiệp
cao, sức khỏe tốt, tận tụy phục vụ nhân dân.
Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức theo hướng chuyên nghiệp,
hiện đại, trách nhiệm, phát huy dân chủ gắn liền với siết chặt kỷ cương, kỷ luật, khuyến
khích đổi mới, sáng tạo, có khát vọng vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Cải
thiện môi trường làm việc, chính sách tiền lương, nhà ở, cơng vụ. Kiên quyết loại bỏ
những phần tử thối hóa, biến chất ra khỏi bộ máy nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
22