Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.38 KB, 32 trang )

Đề tài: "Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và
vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng"
Đặt vấn đề:
Học thuyết giá trị thặng d là một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác.
Dựa vào học thuyết giá trị thặng d, Mác là ngời đầu tiên đã phân tích một
các khoa học, sâu sắc, có ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị nguồn gốc của
lợi nhuận. Trớc Mác, các nhà cổ điển Anh từ A. Smith đến Ricardo đều
mới dừng lại ở lý thuyết tiền công mà cha đa ra đợc một luận chứng về
nguồn gốc của lợi nhuận. Sang thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế học đã đa ra
nhiều cách lý giải khác nhau, song tựu chung đều nhằm biện hộ cho lợi
nhuận, khẳng định sự tồn tại đơng nhiên và hợp lý của lợi nhuận trong
nền kinh tế thị trờng. Phạm trù giá trị thặng d không phải riêng có của chủ
nghĩa t bản, nó tồn tại nh là một bớc tiến của xã hội mà ở đó năng suất lao
động vợt khỏi lao động tất yếu của họ, nó là nguồn gốc của tích luỹ dễ mở
rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh, là nguồn gốc của sự giàu có
văn minh.
Mác đã cho chúng ta phơng pháp luận có tính phớng hớng vận dụng
những t tởngvà nguyên lý của học thuyết giá trị thặng d vào thực tiễn xã
hội mới.
Vận dụng lý luận của Mác vào thực tiễn xã hội mới, có nội dung
kinh tế -xã hội mới, cần phải xem xét lợi nhuận là một thực tế hiển nhiên,
có ý nghĩa kinh tế hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Lợi nhuận là
mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vấn đề tối đa hoá lợi nhuận mang tính quyết định thái độ ứng xử
của doanh nghiệp trên thị trờng. Vì thế, lợi nhuận có ảnh hởng trực tiếp
1
đến việc giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? sản
xuất cho ai và sản xuất nh thế nào?
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế mới, nền kinh
tế thị trờng tồn tại nhiều thành phần (trong đó có thành phần kinh tế t bản
chủ nghĩa), khái niệm lợi nhuận, khái niệm bóc lột mang nội dung mởi


mẻ, khác hơn nhiều; vì thế không tránh khỏi những sai lầm tồn tại trong
việc thực hiện phân phối thu nhập, phân phối lợi nhuận cần giải quyết.
Vì vậy cần phải nhận thức đúng bản chất của lợi nhuận và ý nghĩa
của nó trong đời sống kinh tế.
2
II- Nội dung:
A- Lý luận về lợi nhuận.
1. Quá trình phát triển lý luận về lợi nhuận.
Mác là ngời đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh lý luận về nền sản xuất
t bản chủ nghĩa, trong đó đặc biệt là học thuyết giá trị thặng d. Nhng
trong lịch sử thế giới thì chủ nghĩa trọng thơng là học thuyết kinh tế đầu
tiên của giai cấp t sản nhằm nghiên cứu và giải thích về mặt lý luận nhng
vấn đề về phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử
thế giới cố gắng nhận thức chủ nghĩa t bản và tìm ra nguồn gốc đầu tiên c
ủa sự làm giàu t bản đó là lợi nhuận thơng nghiệp, nh Marl đánh giá "cái
đó một phần do t bản thơng nghiệp là hình thái tồn tại tự do đầu tiên của
t bản nói chung nó xuất phát từ những hiện tợng bề ngoài của quá trình
lu thông, khi những hiện tợng đó trở thành độc lập trong sự vận động của
t bản thơng nghiệp". Những ngời trọng thơng cho rằng, lợi nhuận thơng
nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt nh chiến
tranh. Ngời này thu đợc lợi thì sẽ làm cho kẻ khác bị thiệt đi. Dân tộc này
làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải
có một bên đợc, một bên thua. Đó chính là hạn chế của chủ nghĩa trọng
thơng mà sau này Mác đã chỉ rõ: việc trao đổi không ngang giá không tạo
ra giá trị thặng d hay lợi nhuận, đó chỉ là sự làm giàu của một nhà t bản
cá biệt chứ không thể giải thích đợc sự làm giàu của toàn bộ giai cấp t
sản. Nh Mác nói là toàn bộ các nhà toàn bộ của một nớc không thể làm
giàu trên lng giai cấp của mình".
Do xuất phát từ hiện tợng bề ngoài của quá trình lu thông nên chủ
nghĩa trọng thơng có hạn chế về nhận thức nguồn gốc của lợi nhuận và vì

thế với việc nghiên cứu lý luận chuyển từ quá trình lu thông sang lĩnh vực
sản xuất; lợi ích kinh tế của giai cấp t sản đã chuyển sang lĩnh vực sản
xuất, thời kỳ tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa t bản và thời kỳ sản xuất t
3
bản chủ nghĩa bắt đầu thì chủ nghĩa trọng thơng cũng bắt đầu tan rã và
sụp đổ.
Cùng với sự vận động và phát triển của sản xuất t bản chủ nghĩa,
chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra đời, thể hiện những tiến bộ trong lý
luận. Họ đã nghiên cứu để vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa và có những bớc tiến đáng kể trong lý luận về lợi nhuận. W.
Petty đi sâu giải thích nguồn gốc đầu tiên của thu nhập t bản chủ nghĩa
ông rút ra là công nhận đợc v (tiền lơng) số còn lại là lợi nhuận của địa
chủ. Petti hiểu r (địa tô) là một khoản thặng d do nhà kinh doanh bàn rút
đợc ngoài số thời gian lao động tất yếu, nó ngang với sản phẩm thặng d
nhng ông vẫn đồng nhất m với hình thái của nó: đồng nhất m với r và
không rút ra đợc lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất. Adam Smith tiến
xa hơn Petti ông đã có quan niệm đúng; tiền lơng (v), lợi nhuận (P) và địa
tô (R ) là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập. Theo A.Smith lợi nhuận
là "khoản khấu trừ thứ hai" vào sản phẩm của lao động. Ông phân tích lợi
nhuận trên cơ sở cho rằng ngày lao động của công nhân đợc chia thành
hai phần: một phần bù lại v và phân kia là p tính theo số t bản đầu t Mác
đánh giá cao A.Smith đã "nêu đợc nguồn gốc thực sự của giá trị thặng d,
đẻ ra từ lao động " thấy đợc p, r, z chỉ là hình thái khác nhau của m. Đó
cũng là thành tựu của kinh tế chính trị học t bản trong thời kỳ tiến bộ của
nó.
Khác với chủ nghĩa trọng nông, A.Smith cho rằng không chỉ có lao
động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận.
Smith cho rằng lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giàu có tăng hay
giảm của xã hội, ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận,
đồng thời nhận ra " khuynh hớng thờng xuyên đi đến chỗ ngang nhau"

của tỷ suất lợi nhuận trên cơ sơ cạnh tranh giữa các ngành và khuynh h-
ớng tỷ suất lợi nhuận giảm dần. Theo ông t bản đầu t càng nhiều thì p'
càng thấp: t bản lớn thu đợc lợi nhuận lớn nhng với p' nhỏ. Theo Marl thì
4
tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan
nh: m', sự tiết kiệm t bản bất biển, cấu tạo hữu cơ của t bản, tốc độ chu
chuyển t bản.
Smith có những hạn chế là không thấy đợc sự khác nhau giữa m và p,
cho rằng p do toàn bộ t bản bỏ ra, vì vậy nhầm lẫn những nhân tố ảnh h-
ởng đến m', ông còn cho rằng t bản trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh
vực lu thông đều đề ra p nh nhau, coi p trong phần lớn trờng hợp chỉ là
món tiền thởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu t t bản (nhầm
lẫn p do công nhân sáng tạo ra - nhầm lẫn z và p); ông cho p là một trong
những nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng nh mọi giá trị trao đổi.
Các nhà cổ điển Anh, t Adam Smith đến Ricardo, đều có những bớc
tiến mới nhng vẫn gặp "khủng hoảng" trong lý luận. Ricardo có những b-
ớc tiến xa so với Smith. Ông đã tìm thấy sự bóc lột công nhân là nguồn
gốc của lợi nhuận, nguồn gốc p là do lao động tạo ra xác định. Ông cũng
thấy đợc sự đối lập trong sự vận động lên xuống giữa v và p. Ông tiến
gần tới lợi nhuận bình quân nhng vì không hiểu giá cả sản xuất nên
không giải quyết đợc.
Kinh tế t sản cổ điển Anh đều gặp phải thất bại, cha đa ra đợc một
luận chứng thực sự khoa học về nguồn gốc của lợi nhuận; song trờng phái
kinh tế chính trị học cổ điển Anh đợc coi là một nguồn gốc của chủ nghĩa
Marl mà bản thân Ricando đã đạt tới đỉnh cao nhất, đợc Mác đánh giá
cao, đợc Mác coi là "cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển". Trong
lĩnhvực kinh tế, "một chuỗi của cải mà D.Ricardo không vợt qua đợc phải
chờ đến Mác mới giải quyết đợc. Song lý luận của Ricardo đã đạt gần tới
chân lý mà sau này đợc Mác kế thừa phát triển trở thành hoàn thiện khoa
học.

Robvt Owen, ngời đại diện cho chủ nghĩa xã hội không tởng lại phê
phán lợi nhuận, coi đó là một cái gì đó không đúng đắn bất công, làm
5
tăng giá cả và là nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng thừa. Prondhon
lại nêu ra một công thức nổi tiếng "quyền sở hữu, đấy là của ăn cắp".
Song thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế học đã đa ra nhiều cách giải thích
khác nhau, song tựu chung đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, khẳng định
sự tồn tại đong nhiên và hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng.
Theo A.Marshall thì lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều hành và
tổ chức hoạt động kinh doanh.
F.H.Knight, đa ra luận thuyết: "lợi nhuận là kết quả của sự không
chắc chắn. J.F.Weston đệ tử của Knight đã định nghĩa: tính không chắc
chắn là kết quả của sự khác biệt giữa thu nhập thực tế nhận đợc và thu
nhập mong muốn.
Quan điểm của J.schompeter lại hoàn toàn khác, ông này cho rằng
lợi nhuận là kết quả của mọi sự cách tân, cụ thể là sự đổi mới của chức
năng sản xuất, của sản phẩm, của công nghệ và phơng pháp tổ chức sản
xuất
Vậy thực chất nguồn gốc của lợi nhuận là gì? Cơ sở khoa học của
vấn đề và ý nghĩa kinh tế của phạm trù lợi nhuận trong thực tiễn nh thế
nào, cần phải đi vào nghiên cứu lý luận của Marx
1
cơ sở lý luận của mọi
khoa học.
2. Lý luận của chủ nghĩa Mác.
2.1. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng d.
Mác nghiên cứu lợi nhuận bắt đầu từ phạm trù giá trị thặng d.
Theo Mác, quá trình sản xuất t bản chủ nghĩa, xét về mặt lý thuyết là
quá trình hình thành giá trị nó bao gồm 2 giai đoạn: một giai đoạn tái
sinh giá trị cũ (bao gồm giá trị đã tiêu dùng: giá trị t liệu sản xuất và giá

trị sức lao động), một giai đoạn sản xuất ra giá trị mới
2
giá trị thặng d.
1
T bản quyển I tập I
2
Kinh tế chính trị Mác -Lênin tập 1
6
Giá trị thặng d là do lao động không công của công nhân tạo ra, là
giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động. Việc sản xuất ra giá trị thặng d chỉ
là việc sản xuất ra giá trị, kéo dài quá hạn một điểm nào đó. Nếu quá trình
lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do t bản
trả tiền, lại đợc thay thế bằng một vật ngang giá mới, thì chỉ có sản xuất
giá trị giản đơn thôi, khi quá trình lao động vợt qua các điểm đó thì có sản
xuất giá trị thặng d.
Có ngời cho rằng nhà t bản thu đợc giá trị thặng d là do không trả
đúng giá trị sức lao động. Marx đã chứng minh điều ngợc lại, nhà t bản
vẫn trả đúng giá trị sức lao động (tiền lơng v) và vẫn thu đợc phần thặng
d ra ngoài giá trị sức lao động m. Tai sao vậy? Theo Marx, giá trị của sức
lao động và giá trị mà nó có thể tạo ra là hai lợng khác nhau đó là do
công dụng đặc biệt của hàng hoá
3
sức lao động "công dụng là nguồn sinh
ra giá trị, và là nguồn sinh ra một giá trị nhiều hơn giá trị bản thân nó.
Nh vậy, sức lao động đang hoạt động không những chỉ tái sản xuất ra
giá trị nhiều hơn thế nữa. Các giá trị thặng d đó là các phần trội hơn của
giá trị sản phẩm so với giá trị những nhân tố đã tiêu dùng của sản phẩm
đó, tức là so với giá trị của những t liệu sản xuất và sức lao động. Từ đó,
Marx rút ra công thức: GT = c+v+m
(Giá trị = giá trị cũ c + giá trị mới (v+m)

Giá trị hàng hoá biểu thị bằng công thức trên, nếu trừ đi giá trị thặng
d m, thì chỉ còn lại cái ngang giá , tức là giá trị nằm trong hàng hoá, thay
thế cho giá trị t bản c+v đã chỉ ra dới hình thái các yếu tố sản xuất.
Đối với nhà t bản, họ không phải hao phí lao động để sản xuất ra
hàng hoá, họ bỏ ra t bản để mua t liệu sản xuất và thuê công nhân nên họ
chỉ quan tâm đến bộ phận t bản họ phải tiêu dùng. Nên, đối với các nhà t
bản thì chi phí hàng hoá tính theo chi phí về t bản. Chi phí mà nhà t bản
3
T bản quyển 3 tập 1
7
bỏ ra để sản xuất hàng hoá và chi phí của bản thân việc sản xuất hàng hoá
đó là hai lợng hoàn toàn khác nhau. Marx gọi đó là chi phí sản xuất t bản
chủ nghĩa (k) và công thức GT = c + v+m chuyển hoá thành CT = k + m
(giá trị hàng hoá = chi phí sản xuất + giá trị thặng d).
Chi phí sản xuất t bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá
trị hàng hoá (c +v) (c+ v+ m); nó không phản ánh đúng hao phí lao động
xã hội cần thiết sản xuất ra hàng hoá, và nó không tạo ra giá trị hàng hoá,
nh Marx viết "phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với sự hình
thành giá trị hàng hoá cũng nh không có quan hệ gì với quá trình làm cho
t bản tăng thêm giá trị".
Phạm trù chi phí sản xuất đã làm mất đi sự khác nhau giữa c và v; chi
phí lao động bị che lấp bởi chi phí t bản, bộ phận v nguồn gốc tạo ra m đ-
ợc nhập vào trong toàn bộ t bản ứng trớc l + v nên ngời ta thấy dờng nh l
sinh ra m. Việc hình thành chi phí sản xuất t bản chủ nghĩa đã che đậy
thực chất bốc lột t bản chủ nghĩa, bóc lột sức lao động. Hoạt động của nhà
t bản là bỏ chi phí sản xuất (k) và thu đợc tiền lãi sau khi đem sản phẩm
đợc sản xuất bán ra ngoài thị trờng, tức là thu đợc lợi nhuận. Vì thế họ
không quan tâm đến giá trị thặng d mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận và
quan niệm lợi nhuận là do toàn bộ t bản (chi phí sản xuất) sinh ra.
"Giá trị thặng d, đợc quan niệm là con đẻ của toàn bộ t bản ứng ra,

mang hình thái biến tớng là lợi nhuận".
Đối với nhà t bản, số giá trị tăng thêm là kết quả của quá trình sản
xuất mà t bản đã tiến hành, vậy số thăng ra đó là do bản thân t bản sinh
ra. Đối với t bản đã chi phí vào sản xuất thì hình nh giá trị thặng d đều do
những yếu tố giá trị khác nhau của t bản đó, tức là t liệu sản xuất và lao
động sinh ra, vì những yếu tố ấy đều gia nhập nh nhau vào trong việc cấu
thành ra chi phí sản xuất. Vì vậy họ cho rằng lợi nhuận sinh ra vì một số
8
giá trị đợc dùng làm t bản, không phân biệt đó là lợng bất biến hay khả
biến.
Ký hiêụ lợi nhuận là p; công thức GT = k +m chuyển hoá thành GT
= k +p.
Thoạt nhìn ta thấy rằng lợi nhuận và giá trị thặng d cũng là một: lợi
nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần biến hoá của giá trị thặng d,
hình thái mà phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa tất nhiên phải đẻ ra. Vì
trong sự hình thành chi phí sản xuất, nh nó nổi lên ở bề ngoài hiện tợng,
không thể thấy đợc sự khác nhau giữa t bản bất biến và t bản khả biến,
cho nên nguồn gốc của sự thay đổi giá trị xảy ra trong quá trình sản xuất
phải chuyển từ một bộ phận khả biến của t bản sang toàn bộ t bản. Vì ở
một cực, giá cả sức lao động biểu hiện ra dới hình thái biến tờng là tiền
công nên ở cực đối lập, giá trị thặng d biểu hiện ra dới hình thái biến tờng
là lợi nhuận thực chất, về định lợng, p chỉ bằng m trong trờng hợp hàng
hoá đợc bán theo giá trị của nó. Khi đó, lợi nhuận bằng phần giá trị thừa
ra ngoài chi phí sản xuất, tức là bằng toàn bộ m chứa đựng trong giá trị
hàng hoá. Điều đó không có nghĩa là phải có sự lừa bịp (mua rẻ, bán đắt)
thì mới thu đợc lợi nhuận, trái lại dù giá bán thấp hơn giá trị, chừng nào
giá bán còn cao hơn chi phí sản xuất của nó) thì vẫn thực hiện một bộ
phận m chứa đựng trong nó, tức là có lợi nhuận.
Lợi nhuận mà nhà t bản có đợc là do chở hẳn bán cái mà hẳn không
phải trả tiền. Lao động thặng d chứa đựng trong hàng hoá không tổn phí

gì cho nhà t bản cả, mặc dầu nó cũng làm cho ngời công nhân phải tốn
kém lao động nh phần lao động đợc trả công. "Giá trị thặng d, hay lợi
nhuận chính là phần giá trị thăng ra của giá trị hàng hoá so với chi phí sản
xuất của nó, nghĩa là phần thăng d của tổng số lợng lao động chứa đựng
trong hàng hoá so với số lợng lao động đợc trả công.
9
Tỷ số giữa phần thặng d đó với tổng số t bản đã ứng ra m/k hay
m/c+v chính là tỷ suất lợi nhuận; khác với tỷ suất giá trị thặng d m/v.
Giá trị thặng d và tỷ suất giá trị thặng d là một cái gì tơng đối không
thể nhìn thấy đợc, còn tỷ suất lợi nhuận và do đó lợi nhuận lại lộ ra ở bề
mặt của hiện tợng mà nhà t bản quan tâm.
Đối với nhà t bản cá biệt, rõ ràng việc duy nhất mà thặng d mà họ
thu đợc khi bán hàng, với tổng t bản mà họ ứng ra để sản xuất, trái lại họ
không những không quan tâm đến tỷ số đích xác giữa phần thặng d đó với
một bộ phận riêng biệt của t bản và mối quan hệ bên trong của các phần
thừa ra ấy với những bộ phận này mà còn có lợi trong việc che đậy các
tỷ số đó và mối quan hệ bên trong đó.
Mặt khác, phần thặng d của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất
là do quá trình sản xuất trực tiếp sinh ra, nhng nó chỉ đợc thực hiện trong
quá trình lu thông. Thành thử đối với nhà t bản cá biệt, giá trị thặng d mà
bản thân họ thực hiện đợc vừa do những sự lừa bịp lẫn nhau lại vừa do sự
bóc lột trực tiếp lao động quyết định. Cho nên nếu chỉ nhìn ở bên ngoài lu
thông (nh chủ nghĩa trọng thơng) thì chỉ nhận thấy đợc hiện tợng cá biệt,
sự việc lại càng dễ có vẻ nh là lợi nhuận do quá trình lu thông sinh ra.
Cho nên chúng ta phải đi từ bản chất bên trong của vấn đề và tìm ra
thực chất bóc lột của chủ nghĩa t bản.
10
2.2. Thực chất của lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận) là sự che dấu
quan hệ bóc lột của chủ nghĩa t bản.
Nh trên ta đã nói, sự hình thành chi phí sản xuất t bản chủ nghĩa đã

xoá nhoà sự khác nhau giữa t bản bất biến c và t bản khả biến v. Vì thế tất
cả các yếu tố của t bản đều cùng có vẻ là nguồn sinh ra giá trị d ra (lợi
nhuận) nên quan hệ t bản chủ nghĩa đã bị thần bi hoá.
Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận một lần nữa càng
che dấu thực chất quan hệ bóc lột và nguồn gốc của nó.
Vì trong tỷ suất lợi nhuận, giá trị thặng d đợc tính so với tổng số t
bản và vì giá trị thặng d đợc đem đối chiếu với tổng t bản xem đó là cái
thớc tính, vì vậy mà hình nh bản thân giá trị thặng d lại do toàn bộ t bản
đẻ ra, hơn nữa lại do tất cả các bộ phận của tổng t bản đẻ ra một cách
ngang nhau, nên trong khái niệm lợi nhuận, ngời ta không còn thấy sự
khác nhau hữu cơ giữa t bản bất biến và t bản khả biến. Vì lẽ đó, giá trị
thặng d một khi đã biến thành lợi nhuận thì quả thật tự nó đã xoá bỏ
nguồn gốc của nó và đã mất tính chất cuả nó, thành thử ngời ta không
nhận ra nó nữa.
Trong thực tế, ngời ta biết giá trị thặng d là bao nhiêu, nhng biết nó
dới hình thái là số thặng d của giá bán hàng hoá so với chi phí sản xuất
của hàng hoá, còn phần thặng d ấy do đâu mà có thì vẫn là một điểm bí
ẩn, do bóc lột lao động trong quá trình sản xuất, do lừa bịp những ngời
mua trong quá trình sản xuất, do lừa bịp những ngời mua trong quá trình
lu thông hay là do cả hai việc đó?
Do đó, dới hình thái biến tớng là lợi nhuận, nguồn gốc của nó và
điều bí ẩn về sự tồn tại của nó bị che lấp và lu mờ.
Mặt khác, đối với nhà t bản, họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua
bán, do lu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà t bản mà có, thể hiện
11
ra ở sự không nhất trí về lợng giữa p và m nên càng che dấu thực chất bóc
lột của chủ nghĩa t bản. Thực tế, xét trên toàn bộ giai cấp t sản thì lợi
nhuận mà nhà t bản thực hiện đợc là do sự bóc lột trực tiếp lao động quyết
định. Còn phần thặng d do bán đợc hàng cao hơn giá trị của nó, chỉ nói
lên sự làm giàu của t bản cá biệt, nói lên sự trao đổi hay làm lợi cá nhân

4
,
còn nh Mác nói "các nhà t bản của một nớc không thể làm giàu trên lng
giai cấp mình".
* Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân
và sự che dấu quan hệ bóc lột t bản chủ nghĩa của các phạm trù trên.
Nh đã nói ở phần trên, trớc Mác, Ricardo cũng đã tiến tới gần lợi
nhuận bình quân nh vì không hiểu giá cả sản xuất nên không giải quyết đ-
ợc.
Chính "cửa ải" này Ricardo đã không vợt qua đợc và chờ đến Mác
mới đợc giải quyết.
Mác nhận thấy rằng những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những
ngành sản xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Mác phân tích rằng vì
những t bản đầu t vào các ngành sản xuất khác nhau có cấu tạo hữu cơ
khác nhau, vì có những t bản bằng nhau lại sử dụng những số lợng lao
động rất khác nhau nên tuỳ theo tỷ số phần trăm khác nhau của bộ phận
khả biến so với tổng t bản một lợng nhất định mà những t bản bằng nhau
chiếm hữu đợc những lợng lao động thặng d rất khác nhau.
Nhng do ảnh hởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác
nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung, đó chính là con
số bình quân của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó.
Từ đó Mác đa ra khái niệm lợi nhuận bình quân: "lợi nhuận mà một
nhà t bản có một lợng nhất định thu đợc, căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận
4
T bản quyền 3 tập III
12
chung, không kể cấu thành hữu cơ của nó nh thế nào, gọi là lợi nhuận
bình quân".
Quá trình "san bằng" các tỷ suất lợi nhuận khác nhau thành một tỷ
suất lợi nhuận chung, đợc Mác mô tả nh sau:

Cùng một lợng t bản đầu t, nhng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên
hình thành ra những tỷ suất lợi nhuận rất khác nhau. Nhà t bản không
bằng lòng đứng yên ở những ngành, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp
mà đổ xô vào những ngành, lĩnh vực sản xuất khác nhau, tuỳ theo tình
trạng tỷ suất lợi nhuận hạ xuống ở chỗ này và tăng lên ở chỗ kia nên t bản
đã tạo nên một tỷ lệ giữa cung và cầu, mà sự tự do di chuyển t bản từ
ngành (hay lĩnh vực) này sang ngành (hay lĩnh vực) khác làm cho lợi
nhuận bình quân trong các lĩnh vực sản xuất khác nhau đều trở thành
bằng nhau.
Qua sự phân tích quá trình hình thành và phát triển cho thấy quyết
định tỷ suất lợi nhuận chung là do hai nhân tố:
1. Do cấu thành hữu cơ của t bản trong các khu vực sản xuất khác
nhau và vì thế, do các tỷ suất lợi nhuận khác nhau của các khu vực sản
xuất cá biệt.
2. Do cách phân phối tổng t bản xã hội cho các khu vực khác nhau
đó, tức là do lợng tơng đối của t bản đầu t trong mỗi khu vực cá biệt, và
vì vậy mà có một tỷ suất lợi nhuận riêng biệt, tức là do các bộ phận tơng
đối của khối lợng tổng t bản xã hội đã đợc mối khu vực sản xuất cá biệt
thu hút.
Việc hình thành lợi nhuận bình quân làm xuất hiện phạm trù giá cả
sản xuất: "giá cả của một hàng hoá, bằng chi phí sản xuất của nó cộng
thêm phần lợi nhuận bình quân hàng năm của tổng t bản đã sử dụng vào
13
việc sản xuất hàng hoá, tuỳ theo điều kiện chu chuyển t bản, giá cả đó gọi
là giá cả sản xuất".
Giá cả sản xuất của hàng hoá đã phát triển thành một hình thái
chuyển hoá của giá trị. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất
gồm có: đại công nghiệp cơ khí t bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng
rãi giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển, t bản tự do di
chuyển từ ngành này sang ngành khác.

Khi cha xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay
quanh giá trị hàng hoá, nhng khi xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì
giá cả hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất. ở mỗi ngành giá cả sản
xuất và giá trị có thể không bằng nhau, nhng giá cả sản xuất của tổng sản
phẩm xã hội phải bằng tổng giá trị của nó. Và đối với những t bản có cấu
thành trung bình hay gần nh trung bình, giá cả sản xuất hoàn toàn nhất trí
hay gần nh nhất trí với giá trị.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt
động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa t
bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa t bản.
Nh phần trên đã nói tới, giá trị thặng d và lợi nhuận, nếu xét về mặt
khối lợng là bằng nhau (nếu hh bán theo giá trị của nó), nhng giờ đây khi
đã hình thành một tỷ suất lợi nhuận chung thì không những tỷ suất lợi
nhuận và tỷ suất giá trị thặng d mà cả lợi nhuận và giá trị thặng d cũng là
những lợng thực sự khác nhau, vì thế càng che lấp nguồn gốc của lợi
nhuận, che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa t bản.
Khi lợi nhuận "san bằng" thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản
xuất hình thành, với sự chuyển hoá giá trị thành giá cả sản xuất thì bản
14
thân cái cơ sở của sự quy định giá trị cũng bị che lấp đi. Do đó, nhà t bản
quên mất khái niệm về giá trị và họ không trông thấy tổng lao động đã
hao phí trong việc sản xuất hàng hoá mà chỉ thấy phần hao phí mà họ bỏ
tiền ra trả dới hình thức t liệu sản xuất, cho nên nhà t bản thấy lợi nhuận
nh là một cái gì đứng ngoài giá trị nội tại của hàng hoá . Và nếu nhà t bản
bán hàng hoá của mình theo giá cả sản xuất thì họ thu đợc một số tiền
ngang với giá trị của t bản mà họ đã tiêu dùng trong sản xuất và thu đợc
một lợi nhuận tỷ lệ với số t bản đã ứng ra với t cách là một bộ phận nhất
định của toàn bộ t bản xã hội.

Cho nên bây giờ nếu xét một ngành sản xuất cá biệt, lợi nhuận ngời
ta đem cộng vào chi phí sản xuất, thực tế đợc quyết định không phải do
những giới hạn của quá trình sáng tạo ra giá trị tiến hành ở trong ngành
sản xuất, tức không tuỳ thuộc vào điều kiện của khu vực sản xuất riêng
biệt, mà đợc quyết định do những điều kiện nằm ở bên ngoài, nó chỉ là
con số bình quân mà mỗi phần trăm của t bản bỏ ra đã thu đợc.
Qua phân tích trên cho thấy, các phạm trù tỷ suất lợi nhuận bình
quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất đã che đậy không cho ngời
ta thấy rõ vai trò thực sự của t bản khả biến (giá trị sức lao động) trong
việc làm giàu của nhà t bản, đồng thời làm thần bí hoá toàn bộ phơng thức
sản xuất t bản chủ nghĩa.
3. Làm rõ hơn sự bóc lột t bản chủ nghĩa và phân phối giá trị
thặng d (lợi nhuận) trong điều kiện t bản chủ nghĩa hiện đại.
Mặc dù chủ nghĩa t bản hiện đại có nhiều biểu mới nhng bản chất
bóc lột giá trị thặng d không vì thế mà không còn, những cái móc trong sự
bóc lột của chủ nghĩa t bản hiện đại.
- Tỷ suất giá trị thặng d ngày càng tăng một cách tinh vi bằng phơng
pháp nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng d tơng đối.
15
- Không chỉ bóc lột công nhân lao động giản đơn mà chủ yếu là bóc
lột công nhân và ngời lao động có lao động trí tuệ cao (lao động quản lý
và lao động kỹ thuật).
- Bóc lột các nớc kém phát triển thông qua xuất khẩu hàng hoá, xuất
khẩu t bản, xuất khẩu kỹ thuật, xuất khẩu ô nhiễm môi trờng theo nhiều
cách khác nhau.
Phơng pháp bóc lột của chủ nghĩa t bản ngày nay dù có bị những
tiến bộ kỹ thuật hiện đại, những nhà máy tự động không ngời làm lu mờ
đi đến đâu cũng chỉ là những hình thức hiện đại của giá trị thặng d tơng
đối mà thôi.
Có ngời cho rằng ngay nay công nhân ở các nớc t bản phát triển

cũng mua cổ phiếu và trở thành cổ đông cùng sở hữu với ngời chủ, đại bộ
phận ngời lao động đã hữu sản hoá, vì thế quan hệ sản xuất t bản chủ
nghĩa đã thay đổi, khái niệm giá trị thặng d không đúng nữa. Nhng dù
thế nào không thể nhầm lẫn hiện tợng và bản chất bởi vì những ngời lao
động có một số ít cổ phiếu không thể đồng nhất với nhà t bản thực lợi
nắm trong tay một khối lợng lớn cổ phiếu, hơn nữa, số lợi từ việc có cổ
phiếu đó chỉ là một phần giá trị thặng d do chính lao động của họ tạo ra.
Còn về vấn đề phân phối lợi nhuận: Trong hệ thống tham dự phân
phối lợi nhuận trớc đây. Mác cho rằng chỉ có giai cấp sở hữu ruộng đất và
giai cấp t sản tham dự phân phối . Nhng trong chủ nghĩa t bản đơng đại,
một bộ phận không nhỏ giai cấp công nhân có cổ phần và trở thành cổ
đông của các Công ty cổ phần, họ cũng là một thành phần tham dự phân
phối lợi nhuận (mặc dù số lợi nhuận không lớn). Tất nhiên sự xuất hiện
hiện tợng này , lý thuyết phân phối lợi nhuận của Mác không vì thế mà
hoàn toàn không có ý nghĩa nếu xét về thực chất và theo quy luật số lớn
chiếm trong tổng lợi nhuận.
16
Ngày nay, với sự điều tiết giá trị thặng d của Nhà nớc t sản qua thuế
và sử dụng nó thông qua quỹ phúc lợi cũng tạo nên một số thu nhập nào
đó đối với ngời lao động. Bên cạnh đó, trong điều kiện quốc tế hoá, việc
phân phối giá trị thặng d cũng diễn ra trên phạm vi quốc tế dới các hình
thức lợi nhuận, lợi tức, địa tô giữa các quốc gia có liên quan. Quan hệ
phân phối giá trị thặng d ngày nay rất phức tạp và đa dạng. Cần tiếp tục
nghiên cứu và phát triển
5
.
4. Vấn đề phân phối sản phẩm thặng d ở chủ nghĩa xã hội.
ở xã hội xã hội chủ nghĩa, mọi cá nhân thành viên trong xã hội đều
có quyền đối với tất cả những t liệu sản xuất đó. Về nguyên tắc sản phẩm
thặng d thuộc về ngời sáng tạo ra nó, tức thuộc về cá nhân chủ sở hữu sức

lao động, đồng thời là thành viên sở hữu t liệu sản xuất. Nhng cá nhân đó,
bản thân lại là kết quả của những quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản
xuất thống nhất quy định sự phân chia kết quả lao động đợc sáng tạo ra.
Vì vậy, phân chia giá trị thặng d ở chủ nghĩa xã hội nh sau:
- Một phần sản phẩm thặng d đợc đóng góp vào quỹ xã hội dùng cho
các chi phí chung về quản lý, chi phí đảm bảo cuộc sống cho những ngời
không có khả năng lao động, những chi phí thoả mãn những nhu cầu
chung
- ở chủ nghĩa xã hội vẫn phải tăng cờng đầu t mở rộng phát triển sản
xuất bằng cách phát triển nhân tố t liệu sản xuất nên một phần giá trị
thặng d dùng để tích luỹ phát triển sản xuất.
- Phần còn lại đợc dùng cho cá nhân với mục tiêu nâng cao năng lực
lao động.
Sự phân chia trên chỉ ra mặc dù về nguyên tắc toàn bộ sản phẩm
thặng d thuộc về cá nhân, thành viên tạo ra nó, nhng không phải tất cả
toàn bộ sản phẩm thặng d đợc tiêu dùng riêng. Cá nhân chỉ tiêu dùng
5
Học thuyết giá trị thặng d trong thời đại ngày nay.
17
riêng một phần sản phẩm thặng d sau khi đã trừ đi những khoản đóng góp
chung cho xã hội. Theo các diễn đạt của Mác "mặc dầu cái mà ngời sản
xuất, đứng về mặt cá nhân, thì bị tớc mất, nhng đứng về mặt thành viên xã
hội thì ngời ấy lại lấy lại đợc một cách trực tiếp hay gián tiếp".
II- Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị tr-
ờng.
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc của lợi
nhuận; vấn đề bóc lột thặng d trong chủ nghĩa t bản; vấn đề phân phối sản
phẩm thặng d ở chủ nghĩa t bản và ở chủ nghĩa xã hội . Sau đây, chúng ta
đi tìm hiểu vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng, vì sao lợi
nhuận đợc coi là mục đích kinh tế cao nhất, là động lực thúc đẩy tăng tr-

ởng kinh tế.
Trớc hết, lợi nhuận với t cách là thu nhập của nhà kinh doanh nên
nó là động lực khiến các nhà kinh doanh tìm cách phát triển sản xuất để
thu đợc lợi nhuận cao.
Nh ta biết, con ngời bao giờ cũng ở vào vị trí trung tâm, là nhân tố
hàng đầu và quyết định đối với xã hội. Xét về mặt kinh tế, động lực của
hành vi con ngời là nhu cầu vật chất hay lợi ích vật chất, cho nên đảm bảo
lợi ích cá nhân là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung.
Trong nền kinh tế thị trờng, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan
tâmc trớc hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh đợc thể hiện
chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận - là số chênh lệch giữa doanh
thu bán hàng với phí tổn sản xuất.
Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan niệm rằng lợi nhuận
chính là sự trả công cho những ai dám "mạo hiểm" vay vốn đầu t vào sản
xuất kinh doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt đợc
18
lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ
với nhau, tìm mọi cách giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Trong nền
kinh tế thị trờng các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền
lơng, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng
tăng lên và chiếm u thế trong tổng thu nhập. Vì vậy, họ không ngừng
nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận) của họ. Việc không ngừng
nâng cao thu nhập cho họ đòi hỏi phải nâng cao trình độ sản xuất, trình
độ quản lý dẫn đến nền kinh tế ngày càng phát triển với trình độ lực l-
ợng sản xuất ngày càng cao. Thứ hai là, các nhà kinh tế học cho rằng, mọi
nền sản xuất đều phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản
xuất nh thế nào và sản xuất cho ai. Trong kinh tế thị trờng, chính lợi
nhuận là mục đích là động lực để giải quyết ba vấn đề cơ bản trên. Do sự
khan hiểm nguồn lực và mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên buộc các nhà

sản xuất kinh doanh phải lựa chọn sản xuất cái gì? số lợng bao nhiêu?
chất lợng nh thế nào? trong giới hạn cho phép của khả năng sản xuất
hiện có mà xã hội đủ phân phối cho. Khi quyết định sản xuất cái gì và nh
thế nào, doanh nghiệp phải thực sự dựa vào năng lực sản xuất hiện có
đồng thời tìm cách phối hợp các nguồn lực đó một cách đạt hiệu quả tốt
nhất và đạt đợc lợi nhuận cao nhất. Nói tóm lại, vai trò của lợi nhuận là
điều hớng các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ sản xuất hàng ngàn mặt hàng
khác nhau cho phù hợp với cầu thị trờng, làm giảm tình hình khan hiếm
tối đa hiệu quả sản xuất . Nhờ đó nguồn lực trong một quốc gia nói chung
đợc phân phối một cách thích ứng.
Thứ ba là trong nền kinh tế thị trờng, yếu tố cạnh tranh là rất lớn cho
nên các doanh nghiệp muốn thu đợc lợi nhuận cao thì phải phát triển sản
xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh bao gồm cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cũng
sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi
19
hơn, dễ thu và lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế các nhà sản xuất kinh doanh
thờng xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động nhằm làm
trình độ sản xuất ngày càng tăng.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh
trong các ngành sản xuất khác nhau lợi nhuận đa các doanh nghiệp đến
khu vực sản xuất đầu t có lợi, do đó tự phát phân phối nguồn lực vào các
ngành sản xuất khác tạo nên sự cân bằng nguồn lực đất nớc.
Cuối cùng, vai trò của lợi nhuận là đặt ra một áp lực liên tục và lâu
dài buộc ngời cầm đầu mọi doanh nghiệp cạnh tranh phải áp dụng thêm
nhiều biện pháp tiết kiệm và nâng cao và nâng cao hiệu quả vào công
cuộc sản xuất kinh doanh cho dù các biện pháp này đợc áp dụng vào bất
kỳ giai đoạn sản xuất nào rồi. Trong thời kỳ thịnh vợng, các biện pháp
này đợc thực hiện để tăng lợi nhuận thêm nữa, trong thời kỳ không lạc

quan mấy thì các biện pháp này giúp họ đối đầu với cạnh tranh, còn trong
thời kỳ suy thoái, họ phải nỗ lực thực hiện các biện pháp đó để thoát ra
khỏi sự phá sản.
Trong kinh tế thị trờng, trong điều kiện cạnh tranh lợi nhuận không
thể đạt đợc nhờ tăng giá sản phẩm mà chính nhờ ở việc sử dụng các biện
pháp tiết kiệm, và nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao hiệu quả sản
xuất để giảm bớt chi phí sản xuất. Thực tế hiếm có trờng hợp mọi Công ty
trong một ngành công nghiệp đều hoạt động có lời. Giá bán cùng một mặt
hàng hay dịch vụ của mọi Công ty đều phải bằng nhau, và Công ty nào
bán giá cao hơn sẽ không tìm đợc khách hàng. Do đó Công ty nào thực
hiện đợc chi phí sản xuất thấp hơn sẽ thu đợc lợi nhuận cao hơn.
Nh vậy lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến
khích ngời lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao
năng suấ lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn.
20
Mặt khác, về phía Nhà nớc, lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái
sản xuất mở rộng toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vì lợi nhuận là nguồn
hình thành nên thu nhập cảu ngân sách Nhà nớc thông qua việc thu thuế
lợi tức ,trên cơ sở đó giúp cho n phát triển kinh tế xã hội
21
III - Vận dụng vào điều kiện kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
1. Đặc điểm cơ chế thị trờng ở Việt Nam.
Cơ chế thị trờng ở Việt Nam là một cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế hoạt động của hệ
thống kinh tế là khách quan do các quy luật bên trong nền kinh tế chi
phối. Quản lý Nhà nớc là sản phẩm chủ quan do con ngời tác động vào
hoạt động của nền kinh tế. Xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng
xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng các qui luật thị trờng để kiên trì thực hiện
công bằng xã hội. Cách cơ bản hợp qui luật thị trờng là phải dùng luật

pháp và các công cụ khác để cho qui luật phân phối theo lao động dần
dần phát huy tác dụng ngày càng cao hơn kiểu phân phối t bản.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam còn non trẻ cha hoàn
thiện hay cha đủ các nhân tố của kinh tế thị trờng thực sự; đó là cạnh
tranh cha thực sự và lực lợng sản xuất còn yếu kém
Phạm trù giá trị thặng d vẫn tồn tại nhng khác với giá trị thặng d
trong chủ nghĩa t bản: kinh tế thị trờng ở Việt Nam vẫn nhằm mục đích
lợi nhuận cao nhng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Vì
mục đích của nền kinh tế là đảm bảo hiệu quả sản xuất có lãi kết hợp giải
quyết các mục tiêu kinh tế, kết hợp thực hiện các mục tiêu xã hội. Điều đó
đòi hỏi xã hội cần tìm mọi cách tăng thời gian lao động thặng d, tăng
năng suất lao động thặng d.
- Tuân thủ hai nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trờng .
- Điều tiết đúng đắn không để thất thoát phần giá trị thặng d vào
ngân sách Nhà nớc.
- Nhà nớc sử dụng giá trị thặng d đợc điều tiết sao cho có lợi với mục
tiêu "dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh".
22
- Ngăn chặn đợc sự vận động đó trệch khỏi quĩ đao xã hội chủ nghĩa
sang t bản chủ nghĩa.
Nh vậy, phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kết hợp
tăng trởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội. Công bằng xã hội thể
hiện ở các khâu phân phối kết quả sản xuất cũng nh ở việc tạo điều kiện
phát triển năng lực mọi thành viên.
2. Thực trạng và các giải pháp về lợi nhuận trong nền kinh tế
Việt Nam.
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận.
a. Thời kỳ trớc năm 1989.
Thời kỳ này các doanh nghiệp cha hoạt động trong mối quan hệ trực

tiếp với thị trờng. Kinh phí do Nhà nớc cấp, sản xuất kinh doanh bị lỗ đ-
ợc Nhà nớc bù, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm do Nhà nớc định đoạt lo liệu
giá cả do Nhà nớc qui định Đó là một cơ chế tập trung chỉ huy làm mất
khả năng sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh, thủ tiêu khả năng
cạnh tranh, thiếu động lực các khoa học và thay đổi công nghệ nền kinh tế
tăng trởng rất chậm và hiệu quả thấp Nhà nớc can thiệp sâu vào hoạt động
sản xuất kinh tế của các đơn vị cơ sở và thực hiện u đãi cho các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh .Bên cạnh đó, cơ chế hình thành và phân phối
nói chung, phân phối lợi nhuận nói riêng không phù hợp tạo ra sự bất
bình đẳng lớn giữa các doanh nghiệp. Một thời kỳ mà cha có sự chú ý
đúng mức đối với đòn bẩy lợi nhuận. Lợi nhuận cha đợc coi là động lực
chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh, cha thực sự gắn lợi nhuận với
kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; thực hiện bình quân
hoá trong phân phối gây tác động xấu cho ngời lao động.
Nh vậy, một thời kỳ dài, phạm trù lợi nhuận đã xuất hiện và tồn tại
trong nền kinh tế Việt Nam nhng lợi nhuận cha đợc coi với t cách là hình
thức thu nhập đối với ngời sản xuất kinh doanh.
23
b. Thời kỳ từ năm 1989 đến nay.
Từ năm 1989 nớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc và đến nay đãcó những bớc chuyển quan trọng. Nhà nớc đã
đa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bớc tạo lập môi trờng kinh
doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động trong mối quan hệ trực
tiếp với thị trờng , chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự.
Chuyển sang cơ chế thị trờng, Nhà nớc qui định và cho phép các
doanh nghiệp tính lợi nhuận (trong thực tế gọi là lãi ) theo cấu thành giá
thành và lợi nhuận (lãi) đó là lãi bình quân. Theo qui định này, khi hạch
toán, các doanh nghiệp đợc phép tính 6% lãi (lợi nhuận) định mức 5%
thuế vào giá thành. Tổng số lợi nhuận định mức Nhà nớc thu 40%, tổng số
lợi nhuận Nhà nớc chỉ thu 203.

Với cơ chế hình thành phân phối lợi nhuận nh vậy dẫn đến tình trạng
bất hợp lý và Nhà nớc không kiểm soát đợc do các doanh nghiệp tìm mọi
cách để nộp ít nhất.
Nh vậy, ở nớc ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận cha đợc phát huy
đúng với sức mạnh vốn có của nó. Sở dĩ nh vậy là vì cơ chế hình thành lợi
nhuận không hợp lý. Đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận cha đủ tạo ra
động lực kích thích các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
2. Về chính sách phân phối lợi nhuận - tác động tích cực và tồn tại.
a. Những tác động tích cực.
Quan hệ phân phối lợi nhuận giữa Nhà nớc và các doanh nghiệp đợc
thể hiện tập trung qua chính sách thuế của Nhà nớc nói chung, trớc hết là
thuế lợi tức.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau khi đã làm trong
nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ cho Nhà nớc thì họ đợc quyền tự quyết định
việc phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp.
24
- Đối với các doanh nghiệp Nhà nớc, ngoài việc phải nộp thuế nh
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, còn phải nộp một khoản thu về sử dụng
vốn ban đầu từ ngân sách Nhà nớc với t cách là chủ sở hữu, Nhà nớc cũng
qui định chế độ sử dụng số lợi nhuận còn lại sau nộp thuế theo thứ tự nh:
nộp phạt (nếu có), trích quĩ khuyến khích phát triển sản xuất với mức tối
thiểu 35% trích quĩ khen thởng vào quỹ phúc lợi mỗi quĩ không quá 6
tháng lơng thực hiện. Số lợi nhuận còn lại đợc xử lý tuỳ theo từng trờng
hợp, nếu doanh nghiệp thuộc diện nộp thuế lợi nhuận siêu ngạch thì phải
nộp bổ sung thuế lợi tức. Nếu không phải nộp thuế lợi tức bổ sung thì số
lợi nhuận còn lại đợc đa vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất. Cơ chế
phân phối lợi nhuận này có phần cứng nhắc và cha gắn chặt lợi ích của
ngời lao động với kết quả đạt đợc của hoạt động doanh nghiệp.
Những năm gần đây Nhà nớc ta đã sửa đổi chính sách thuế theo h-
ớng giảm thuế lợi tức cho các doanh nghiệp cũng nh giảm thuế đánh vào

hoạt động sản xuất nông nghiệp nhằm tích luỹ nhiều hơn cho các cơ sở có
điều kiện tái đầu t phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời để đảm bảo
tính công bằng trong phân phối lợi nhuận, Nhà nớc cũng qui định thu
thuế lợi tức bổ sung đối với các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngạch,
nhằm điều tiết bớt những khoản thu nhập do lợi thế khách quan mang lại
(không do cố gắng chủ quan của doanh nghiệp) những đổi mới đó đã
phần nào cải thiện cải thiện một bớc quan hệ về phân phối lợi nhuận giữa
Nhà nớc và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy đầu t phát triển kinh tế.
b. Những tồn tại của chính sách phân phối lợi nhuận.
Quá trình thực hiện chính sách phân phối thu nhập quâ thuế lợi tức
còn bộc lộ một số tồn tại: đó là vẫn còn phân biệt giữa doanh nghiệp
trong nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, nên cha tạo môi trờng
bình đẳng trong cạnh tranh. Bởi vì so với các doanh nghiệp có vốn đầu t
25

×