TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA HÀN QUỐC
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
(Học kì 1 năm học 2021 - 2022)
ĐỀ TÀI 1
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và liên hệ với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Sinh viên cần làm gì để sau này thể hiện rõ
vai trò của đội ngũ trí thức trong liên minh Cơng-Nơng-Trí thức?
Giảng viên hướng dẫn : Dương Thị Nhẫn
Sinh viên
Mã SV
: Vũ Thị Ngọc Ánh - Lớp HQ 14-05
: 1452100020
HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................2
LÍ DO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.......................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................3
I. Khái niệm GCCN...............................................................................................3
II. Sứ mệnh lịch sử của GCCN.............................................................................5
1. Bối cảnh lịch sử.............................................................................................5
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN...........................................................5
3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN............7
III. Liên hệ sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam, thực trạng và giải pháp.........8
1. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam...........................................................8
2. Thực trạng GCCN Việt Nam..........................................................................9
3. Những phương hướng, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam.....................12
C. PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................14
A. PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ở bất kỳ thời đại xã hội nào người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những người công nhân đều có vai trị
sáng tạo ra lịch sử và là những người giữ vai trị quyết định trong việc sáng tạo
cơng cụ sản xuất, giá trị thang dư và chính trị xã hội.
Trong giai đoạn mới hiện nay, khi công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đang diễn ra trên tồn thế giới, CNXH đang trong thời kỳ thoái trào, thời đại
ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm
vi toàn thế giới cịn đang có nhiều biến động,tiêu cực…thì vấn đề làm sáng tỏ sứ
mệnh lịch sử của GCCN được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Đối với nước ta, vấn đề này luôn được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh
lịch sử của GCCN khơng chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn
quốc, mà đây cịn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà
lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của GCCN không chỉ ảnh hưởng tới sự
chuyển biến lịch sử thế giới, làm thay đổi từ hình thái kinh tế xã hội này sang
hình thái kinh tế xã hội khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế
khác mà còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, nó
tác động tới q trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là phạm trù cơ bản nhất của CNXH khoa học.
Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận phức tạp hiện nay, các thế
lực thù địch, chống cộng cùng với các phần tử cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc
đã và đang mưu toan xuyên tạc, phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, trong đó có quan điểm về GCCN và sứ mệnh lịch sử của nó.
Vì thế việc nhận thức đúng đắn về GCCN và sứ mệnh lịch sử của nó sẽ có ý
nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng đối với mỗi ĐCS cũng như toàn bộ phong
trào cộng sản công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu là thời
đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Xuất phát từ những vấn đề cấp bách đó cùng với vốn kiến thức đã học cùng
với sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên bộ mơn em xin được nghiên cứu về
đề tài: Sứ mệnh lịch sử của GCCN và liên hệ với sứ mệnh lịch sử của GCCN
Việt Nam hiện nay.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Khái niệm GCCN
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, GCCN là con đẻ của một hoàn cảnh
lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển
với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà cịn tập hợp họ lại thành một tập đồn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vơ
sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, GCCN hiện đại ra đời gắn liền
với sự phát triển của đại cơng nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, GCCN là một trong những giai cấp cơ bản,
chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư
liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá
trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao
động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng
nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy
luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của
chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư
sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp
vô sản là giai cấp những cơng nhân làm th hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất
của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
Dù GCCN có bao gồm những công nhân làm những công việc khác nhau như
thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ
bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người
lao động trong nền sản xuất cơng nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp
hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng
hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là cơng nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại
cơng nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp. GCCN hiện đại là
hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp cơng nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của GCCN, chúng ta phải xem xét
trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì GCCN là những người vơ sản hiện đại,
khơng có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị tồn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà GCCN tạo
ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người
công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, GCCN trở thành giai cấp cầm quyền. Nó
khơng cịn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị,
lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa. GCCN cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ khơng cịn là những người vơ
sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và
phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa GCCN
như sau: GCCN là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao
động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của
cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và
phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
II. Sứ mệnh lịch sử của GCCN
1. Bối cảnh lịch sử
Trong chủ nghĩa tư bản GCCN gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất cho
nên là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
Sau khi giành được chính uyền GCCN đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch
sử cho nên là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN
Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN được biểu hiện cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực kinh tế: GCCN tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, xây dưng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao năng xuất lao
động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của
GCCN trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của GCCN, thoả mãn nhu
cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Trong lĩnh vực chính trị: GCCN phải trở thành giai cấp thống trị xã hội. Đó là
phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà nước (nền chun
chính vơ sản) thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân giữ
vai trò quan trọng là công cụ quan trọng xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước:
nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong
Trong lĩnh vực xã hội: đó là phải xố bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến hành xố
bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ người với người. Ở đây
xố bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không xáo bỏ các cá nhân vì
họ có thể là những cá nhân có ích cho xã hội mới.
Có thể nói nội dung của sứ mệnh lịch sử của GCCN bao gồm bốn sự nghiệp.
Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; giải phóng xã hội, dân tộc; giải phóng
người lao động và giải phóng con người. Đây chính là nấc thang phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội. Vì vậy phải tiến hành dần qua hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, GCCN và chính đảng của mình tiến hành cc đấu tranh
giành chính quyền của giai cấp vơ sản.
Giai đoạn thứ hai, khi đã giành được chính quyền - thời kỳ quá độ xây dựng
CNXH : ĐCS và GCCN phải tiếp tục đấu tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, với mục đích là giữ vững chính quyền cách mạng,xây dựng
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa với đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản.
Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, chủ
nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không
vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này khơng dịu
đi mà ngày càng phát triển gay gắt. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai
của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Chừng nào cịn chủ nghĩa tư bản
thì cơng nhân cịn bị bóc lột và cịn có sự phân hố giàu nghèo trong xã hội. Vì
thế sứ mệnh lịch sử của GCCN vẫn khơng hề thay đổi họ vẫn có nhiệm vụ xố
bỏ chế độ bóc lột,xây dựng chế độ mới tiến bộ hơn.
Khái quát hơn, nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là xoá bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xố bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng GCCN, nhân dân lao
động và tồn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
-Ph. Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại". V.I. Lênin cũng chỉ rõ: "Điểm chủ
yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa".
Ở nước ta, GCCN trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Sứ mệnh lịch sử của GCCN là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thơng qua
đội tiên phong của mình là ĐCS Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết
lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa, GCCN từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành cơng
CNXH, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN
GCCN có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội khách quan
của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, GCCN ra
đời và từng bước phát triển. GCCN là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất
của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất,
là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy
nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao
hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng
phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng GCCN khơng có tư liệu sản xuất nên
buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thang dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao
động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vơ sản) phải chịu đựng
mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của nó tùy thuộc vào quan
hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm thuê và phụ thuộc vào
kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày
càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu
thuẫn giữa GCCN với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, khơng thể
điều hịa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, GCCN là giai cấp
có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ
nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có
thể giải phóng mình bằng cách giải phóng tồn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản
chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ khơng mất gì ngồi xiềng xích và được
cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến GCCN trở thành giai cấp
cách mạng triệt để mà cịn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch
sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động
khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể GCCN và các
dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.
III. Liên hệ sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam, thực trạng và giải pháp
1. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam
Ra đời sau cách mạng Tháng Mười Nga, GCCN nước ta là giai cấp thuần nhất
về tư tưởng, sớm giác ngộ Cách mang, tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và tổ chức
được chính Đảng của mình. Hơn nữa, GCCN Việt Nam được kế thừa truyền thống
đầu tranh anh hùng bất khuất của dân tộc, lại phải chịu ba tầng áp bức năng nê nên
họ có tinh thân cách mạng cao. Đa số công nhân xuất thân từ nông dân và các tâng
lớp lao động khác nên có mơi quan hệ khăng khít, thường xun, chặt chế với giai
cấp nơng dân, tâng lớp trí thức cũng như các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội.
Là một bộ phận của GCCN quốc tế nhưng với những đặc điểm vừa phân tích, sứ
mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng có những nôi dung khác so với sứ mệnh
lịch sử của GCCN thế giới nói chung.
Trong giai đoạn từ những năm 30 của thế kỷ XX, ta có thể khẳng định sứ mệnh
lịch sử của GCCN Việt Nam đó là lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiên phong
của mình là ĐCS Việt Nam đánh đuổi về lũ thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, giành
lại độc lập tự do cho dân tộc. Suốt chặng đường dài ngót thế kỷ gian nan thử thách
ấy, GCCN Việt Nam đã được tôi luyện và trưởng thành về mọi mặt, xứng đáng là
lực lượng nòng cốt của liên minh cơng nơng, trí thức vững chắc. Trong giai đoạn
hiện nay khi mà đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới trên tất cả các
lĩnh vực thì GCCN Việt Nam phải "tự mình trở thành dân tộc", tiêu biểu cho quyền
lợi của dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp, giữ vững bản chất
cách mạng, bản lĩnh chính trị của mình, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh để cần động và đặc biệt là trưởng thành lực lượng đi
đầu trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng đất nước thời kỳ đổi
mới.
Nghị quyết số 20 NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung Ương
Đảng khố X đã khăng định:" GCCN nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiên phong của mình là ĐCS Việt Nam; giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiền, hiện đai, giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hôi; lực lượng đi đầu trong sư nghiệp CNH- HĐH
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh;
lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.."
2. Thực trạng GCCN Việt Nam
Những năm cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XX truy tầng lớp tư sản mại bản tiến vào
nước ta thì những nhóm công nhân Việt Nam riêng lẻ cũng bắt đầu xuất hiện và
từng bước trưởng thành với tư cách là một giai cấp. Thời Việt Nam thuộc Pháp,
giới chủ nhà máy, xí nghiệp đã chia Cơng nhân ra làm hai loại: "công nhân áo
xanh" và "công nhân áo nâu". Việc ĐCS Việt Nam được thành lập vào đầu năm
1930 đã đánh dấu cột mốc sự chuyển biến về chất trong cuộc đấu tranh của GCCN
Việt Nam từ tự phát tiến đến tự giác. Trong lịch sử của mình GCCN Việt Nam
cùng với đội tiên phong của mình là ĐCS Việt Nam thực hiện thành công của cách
mạng dân tộc dân chủ, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
GCCN nước ta đã có những cuộc đấu tranh quyết liệt chống về lũ thực dân
Pháp. Rất nhiều cơng nhân chân chính đã ngã xuống trong cuộc đầu tranh này để
giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
GCCN ở cả hai miền Bắc Nam đã có nhiều cống hiến đặc biệt xuất sắc.
Từ năm 1955 đến năm 1975, miền Bắc nước ta bước vào công cuộc xây dựng
CNXH với mục tiêu cơ bản là khôi phục và cải tạo nên kinh tế. GCCN miền Bắc
thời kỳ này sôi nỗi thi đua phấn đấu theo lời kêu gọi của Bác Hồ:" Mỗi người làm
việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt ".
Sau khi hai miền Nam Bắc thống nhất, đất nước ta bước vào thời kỳ xây dựng
xã hội chủ nghĩa trên cả nước. GCCN có khoảng 5 triệu người, chiếm khoảng 6%
dân số. Điểm thuận lợi lớn nhất của GCCN nước ta lúc đó là được sự lãnh đạo của
Đảng và tinh thần hăng say lao đơng để xây dựng q hương, đất nước. Qua q
trình đối mới xây dựng đất nước, GCCN không chỉ phát huy vai trị của mình,
đóng góp vào sự nghiệp đối mới hồn tồn là sản phẩm của q trình đối mới,
GCCN không ngừng biến đối và phát triển. Sự biến đổi trước hết là ở cơ cấu
GCCN, họ khơng cịn thuần túy là những người lao động công nghiệp ở các nhà
máy, xí nghiệp. Ngày nay GCCN nước ta là đội ngũ được đào tạo giả cơ bản, có hệ
thống trên nền tảng văn hóa phố thơng và dạy nghề chun nghiệp. Học sóm thích
nghi với nên kinh tế thị trường Đoàn phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại.
GCCN có mỗi quan hệ tự nhiên, mẫu thịt với giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức
và nhân dân lao động. Họ là lực lượng nòng cốt xây dựng khối đại đồn kết tồn
dân tộc. Trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, GCCN nước ta đã thế
hiện xứng đáng là một bộ phận của GCCN quốc tế, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nên tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của mình. Khơng những vậy mà cơng nhân Việt Nam cịn chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề quốc tế có tính thời đại như: dân số, mơi trường, văn hóa, năng
lượng, lương thực, bệnh tật, chiến tranh và hịa bình.
Những chuyển biến mang tính tích cực của mình, GCCN đang đóng vai trò
ngày một quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Về mặt sản xuất, GCCN
là lực lượng cơ bản, chủ yếu có vai trị to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù
vế số lượng, GCCN chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư và chỉ chiểm
khoảng 13% lao động xã hội nhưng lại năm giữ những cơ sở vật chất và các
phương tiện sản xuất hiện đại của xã hội, quyết định phương hướng phát triển của
nền kinh tế, họ cũng là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà
nước.
GCCN đi đầu trong lao động sáng tạo, xây dưng đất nước. Chủng ta tự hào về
sự thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước với các thành tưu về kinh tế, văn
hóa, cơ sở hạ tầng... đội ngũ cơng nhân Việt Nam đã có mặt trong tất cả các lĩnh
vực sản xuất, các thành phần, các ngành kinh tế. Thực tế này trái ngược với nhận
định của một số người cho rằng vai trò của GCCN ngày càng giảm đi trong xã hôi
hiện đai.
GCCN là lực lượng kiên định bảo về Đảng, bảo vệ chế độ xã hơi chủ nghĩa,
khơng chấp nhận đa ngun chính trị, đa đảng đơi lập. Lịng tin của GCCN vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được củng cô và giữ vững.
Tham gia vào đủ các thành phần kinh tế phong phú, đa dạng và phức tạp nhưng
GCCN luôn giữ vững được bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị của mình, lấy
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phần đầu,
lấy việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
làm phương châm và nguyên tắc hoạt động. \
GCCN nước ta là lực lượng tích cực, kiên quyết đi tiền phong trong mặt trận
đâu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ nan xã hội, là lưc lượng chính trị -
xã hội quan trọng bảo vệ tô quốc, giữ gin an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nhất là trong nền cơng nghiệp quốc phịng.
GCCN Việt Nam rất nhạy cảm chính trị, không hoang mang dao đông luôn cảnh
giác với mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, làm thất bại mọi âm mưu
" diễn biến hịa bình", giữ vững mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, kiên
đình con đường đi lên CNXH với sự lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam.
Qua hơn 20 năm đổi mới cùng với q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, GCCN nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên sự phát triển
của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu cũng như trình độ học
vấn, chun mơn... cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế. Đội ngũ công nhân nước ta đang thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề ; tác phong cơng nghiệp và kỷ luật
lao động cịn nhiều hạn chế. Đa phần công nhân xuất thân từ nông dân, chưa qua
đào tạo cơ bản, GCCN còn hạn chế về phát huy vai trị nịng cốt trong liên minh
cơng nơng - trí thức. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không
đồng đều, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật cịn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên
và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân cịn thấp. Một bộ phận cơng nhân chưa
biết 2 phần đầu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã
hội. Đời sống vật chất và tinh thần của cơng nhân đang có nhiều khó khăn, bức
xúc, đặc biệt là ở bộ phận cơng nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi...
3. Những phương hướng, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam
Từ những thành tựu và hạn chế của GCCN Việt Nam đã phân tích ở trên, nhiệm
vụ đặt ra là cần tìm ra được phương hướng để xây dựng GCCN nước ta. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX ĐCS Việt Nam đặc biệt chú trọng Phương hướng xây
dựng GCCN Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa như sau : “ Đối với GCCN, coi trọng việc phát triển
về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và nghề nghiệp, thực hiện “ trí thức hóa cơng nhân ”, nâng cao năng lực ứng
dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất cao, chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong CNH- HĐH đất nước và
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của GCCN trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường. Tăng
cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lí và kết nạp đảng viên từ những công dân ưu
tú, tăng cương thành phàn công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp các
ngành.
Định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chú trọng và yêu cầu ngày càng cao với
đội ngũ công nhân khu vực kinh tế Nhà nước để tạo ra cơ sở làm tốt vai trò chủ
đạo thực sự của kinh tế Nhà nước, cùng kinh tế tập thể là nền tảng vững vàng cho
toàn bộ nền kinh tế cả nước.
Ngoài ra, phải gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, vừa tạo điều kiện, vừa đặt
ra yêu cầu để GCCN Việt Nam nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ
thuật, trình độ tay nghề chun mơn...
Mặt khác từ chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý đến chuyển giao khoa học cơng
nghệ hiện đại hợp lý có căn cứ đào tạo, đào tạo lại GCCN một cách khoa học, hiệu
quả và thiết thực, từ đó tạo việc làm, tăng thu nhập cho GCCN.
Cuối cùng, để phát triển GCCN ở nước ta hiện nay cần đổi mới hệ thống chính
trị ở các doanh nghiệp có cơng nhân, nhằm bảo vệ đúng đánh lợi ích của cơng
nhân, giáo dục, Tổ chức đào tạo và yêu cầu ngày càng cao đối với cơng nhân trong
q trình sản xuất kinh doanh, hoạt động chính trị xã hội gắn liền với q trình
CNH- HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện được phương hướng trên, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương
lần thứ sáu khóa X, Đảng ta đã đưa ra một số giải pháp sau :
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về GCCN trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
-Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước " trí thức hóa "
GCCN.
-Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân
tộc cho GCCN.
-Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật
để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của cơng nhân chăm lo đời sống vật chất
tinh thần. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức Cơng
đồn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng GCCN.
Như vậy với những đặc điểm kinh tế chính trị xã hội của mình, GCCN tất yếu
có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
trong cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. GCCN Việt Nam - một bộ phận của GCCN
quốc tế cũng có sứ mệnh lịch sử ấy. Tuy nhiên, để phát huy vai trị của mình,
GCCN Việt Nam cần phát triển cả về số lượng và chất lượng, vươn lên khắc phục
những hạn chế, từng bước đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH và
xây dựng đất nước.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Qua các phân tích trên biển sứ mệnh lịch sử của GCCN trên cả hai phương diện
lý luận và thực tiễn, ta có thể khẳng định rằng : Sứ mệnh lịch sử của GCCN là xóa
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng mình,
Giải phóng Nhân dân lao động và tồn thể nhân loại thốt khỏi sự áp bức bóc lột,
xây dựng thành cơng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Là một bộ phận của GCCN quốc tế, GCCN Việt Nam cũng mang trên mình sứ
mệnh lịch sử ấy nhưng Ngoài ra trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà
nước đang đẩy nhanh quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thì GCCN
Việt Nam cần : " Coi trọng việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao
giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện " trí thức
hóa cơng nhân ", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động
đạt năng suất cao, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng
đi đầu trong q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và vai trị lãnh đạo
cách mạng trong thời kỳ mới ".
Hiểu đúng rõ về GCCN, đặc biệt là về sứ mệnh lịch sử của GCCN là một vấn
đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi người. Qua đó mỗi cá nhân trong xã
hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội
để nâng cao tri thức văn hóa của mình. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, khi hệ
thống CNXH ở Liên Xô và Đông Âu đã tan rã, các thế lực phản động đang ra sức
chống phá các ĐCS trên thế giới, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN thì hơn bao
giờ hết ta cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của
mọi người về vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN. Với những ý nghĩa lớn lao đó,
việc phát huy vai trị của GCCN để từ đó xây dựng GCCN vững mạnh ln là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng đất nước là một nội dung quan trọng trong
hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp ở nước ta. Hi vọng
rằng tuy cịn nhiều thiếu sót nhưng bài tiểu luận đã làm sáng tỏ được phần nào khái
niệm, đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN thế giới nói chung và
GCCN Việt Nam nói riêng.
*Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình CNXH khoa học Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2016
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
3. Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin
4. ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X