Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

(Bài thảo luận) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.72 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: HTTT KINH TẾ & THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
----

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và nhân tố chủ
quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử đó.
Giảng viên hướng dẫn : Lại Quang Mừng
Nhóm thực hiện
:3
Mã lớp học phần
: 2078HCMI0121

Hà Nội – 2020

1


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại
ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi tồn thế giới cịn đang có nhiều biến động, tiêu cực,... thì vấn đề làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết,
cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Đối với nước ta, vấn đề này được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn


quốc, mà đây cịn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý
luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sử mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới
sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang hình thái
kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác mà cịn làm thay
đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới quá trình sản
xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để
biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thơng qua những nhân tố chủ
quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản trung thành
với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp cơng nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho
giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.


Nhằm làm rõ vấn đề trên, nhóm 3 chúng em xin trình bày đề tài: “Sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó.”
Tuy nhiên do trình độ cịn hạn chế, nên bài thảo luận của chúng em còn rất nhiều
thiếu sót. Vậy kính mong thầy hướng dẫn, chỉ bảo để chúng em hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


BÀI LÀM:
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm GCCN
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một
số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vơ sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù
vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất,
đó là chỉ giai cấp cơng nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản

chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
hiện đại.
1.1.1 Trong CNTB
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai
cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân: GCCN khơng có,
hoặc về cơ bản khơng có TLSX
Giai cấp cơng nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành những cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng
có trình độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân
hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong cơng trường
thủ cơng. Giai cấp cơng nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công
thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến
những người công nhân trong công nghiệp hiện đại. "Trong công trường thủ công và
trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng cơng cụ của mình, cịn trong
cơng xưởng thì người cơng nhân phải phục vụ máy móc".
Trong xã hội tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, máy móc
ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho những thợ thủ công bị
phá sản, những người nông dân mất việc làm buộc phải gia nhập vào hàng ngũ cơng
nhân. Theo sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"; "Công nhân cũng là một phát minh của
thời đại mới, giống như máy móc vậy... Cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền
cơng nghiệp hiện đại".
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa: Làm thuê cho GCTS, Bị bóc lột giá trị thặng dư


Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người cơng nhân
khơng có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống.

C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng
khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho
giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nửa sau thế
kỷ XX, giai cấp công nhân hiện đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với trước đây.
Xét về phương thức lao động, nếu lao động của người công nhân trọng thế kỷ
XIX chủ yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận
công nhân của những ngành ứng dụng cơng nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy
cơng nhân có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở
các nước tư bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận cơng nhân đã
có một số tư liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các cơng đoạn phụ
cho các xí nghiệp chính; một bộ phận nhỏ cơng nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp
tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất của giai cấp
công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các
nước tư bản chủ nghĩa vần nằm trong tay các nhà tư bản lớn.
1.1.2 Trong XHCN


GCCN cùng nhân dân lao động làm chủ TLSX
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xơ Viết,
V.I.Lênin đã hồn thiện thêm khái niệm giai cấp công nhân. Theo ông, sự phân chia
giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị khác nhau của các tập đoàn người trong quan
hệ đối với tư liệu sản xuất, trong tổ chức, quản lý sản xuất và trong phân phối sản
phẩm. Qua thực tiễn cách mạng ở Nga, V.I.Lênin đã làm rõ hơn vai trị của giai cấp
cơng nhân trong q trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, về cơ bản giai cấp
công nhân cùng với nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Địa vị kinh tế và chính trị của họ đã có những sự thay
đổi căn bản.




Hợp tác lao động vì lợi ích chung của xã hội trong đó có lợi ích của GCCN
Tại Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, tất cả những người khơng có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động mà sống, bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông


nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc giai cấp công nhân. Chủ chốt của giai
cấp ấy, là những cơng nhân tại các xí nghiệp như nhà máy, hầm mỏ, xe lửa v.v. Những
công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông v.v.
cũng thuộc giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân cơng nghệ là hồn tồn đại biểu
cho đặc tính của giai cấp công nhân.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của GCCN
1.2.1. Nội dung SMLS của GCCN
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương
thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế
độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Giai cấp cơng nhân có các sứ mệnh lịch sử sau:
- Xóa bỏ CNTB:
Mục tiêu hàng đầu là xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất, xây dựng
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Để thực hiện sứ mệnh của mình, GCCN trong tiến
trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, cần phải
tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tự do.
Nó phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và phục vụ cho giai cấp tư sản,
những tàn dư và các giá trị đã lỗi thời,.. Tập trung phát triển văn hóa, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ
- Xóa bỏ chế độ người bóc lột người:

GCCN cùng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành
cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc
lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành lại quyền lực về tay GCCN và nhân dân lao
động.
- Giải phóng GCCN và nhân dân lao động:
GCCN cùng nhân dân lao động sau khi giành lại quyền lực về tay mình, tiếp tục
thực hiện cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và văn
hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lí kinh tế - xã hội và tổ chức
đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ,
công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lí tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng thành công CNXH, CNCS
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, GCCN cũng là đại
biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản


xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển và lợi
ích của xã hội.
Chỉ có GCCN là giai cấp duy nhất khơng có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu,
phấn đấu vì lợi ích chung của xã hội.
Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Do đó để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN phải đóng vai trị nịng cốt trong
q trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển),
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội
chủ nghĩa ra đời. Tiếp đó, GCCN phải là lực lượng đi đầu thực hiện cơng nghiệp hóa,
cũng như hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập kinh tế, yêu cầu mới đặt ra địi
hỏi phải gắn liền cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
1.2.2. Đặc điểm SMLS của GCCN
Thứ nhất, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh
tế - xã hội của nền sản suất mang tính xã hội hóa, biểu hiện:

Xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất thúc đẩy sự vận động
của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự xung đột
giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất là mội dung kinh tế- vật chất của mâu thuẫn cơ bản đó trong
chủ nghĩa tư bản. Chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghã đã chuẩn bị những cơ
sở vật chất cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Q trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp công nhân và rèn
luyện họ thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ bản
khơng thể điều hịa giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn này trở thành
động lực cho cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản.
Thứ hai, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách
mạng của chính bản thân giai cấp cơng nhân và quần chúng, mang lại lợi ích cho đa
số.
Đây là cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số, nhờ việc
hướng tới xây dựng một xã hội mới dựa trên cơ sở công hữu những tư liệu sản xuất
chủ yếu. Giai cấp cơng nhân cũng chỉ có thể tự giải phóng mình thồn qua việc đồng
thời giải phóng các giai cấp bị áp bức bóc lột khác, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.


Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản còn là mục tiêu
hướng tới của sự phát triển xã hội, giai cấp cơng nhân chỉ hồn thành được sứ mệnh
lịch sử khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Thứ ba, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở
hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về
tư liệu sản xuất. Đối tượng xóa bỏ ở đây là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là nguồn
gốc sinh ra những áp bức, bóc lột, bất cơng trong xã hội hiện đại. Xóa bỏ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, từ đó tạo ra tiền đề và điều kiện vật chất để tiến tới xóa bỏ giai cấp
và áp bức giai cấp.

Thứ tư, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để
cải tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với
mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
Nếu như cách mạng tư sản xem việc giành được chính quyền là mục tiêu duy
nhất để thực hiện quyền tư hữu thì đối với cuộc cách mạng giai câp cơng nhân để
nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột, áp bức và nơ dịch con người, xóa bỏ sự thống trị của
giai cấp tư sản để thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Đó là cuộc
cách mạng triệt để nhất.


II. Nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử
2.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng của GCCN
2.1.1.
Khái niệm Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên phong, bộ
tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân, đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng
sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản
của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
2.1.2.

Tính tất yếu ra đời của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản ra đời là tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai cấp


công nhân.
Mác Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những quan điểm khoa học cơ
bản về chính Đảng Cộng sản của giai cấp cơng nhân. Lênin vận dụng sáng tạo, cụ thể
hóa tư tưởng Mac và Ăngghen vào xây dựng Đảng kiểu mới, xây dựng học thuyết về
Đảng Cộng sản, trong đó Lênin coi trọng những vấn đề cơ bản về đảng cầm quyền,
tính tất yếu sự ra đời của chính đảng. Những tư tưởng đó được thể hiện qua các tác
phẩm tiêu biểu viết trước Cách Mạng Tháng Mười 1917 như: Những người bạn dân và
họ đã chống lại những người dân chủ ra sao; Làm gì; Hai chiến lược của Đảng xã hội
dân chủ trong cuộc cách mạng dân chủ trong cuộc cách mạng dân chủ; Một bước tiến
hai bước lùi, Nhà nước và cách mạng; Cách Mạng vô sản và tên phản bội Cau-xki;
Thư gửi người đồng chí và những nhiệm vụ của chúng ta; Về thái độ của Đảng công
nhân với tôn giáo…
Phong trào cộng sản trên thế giới được Lênin và những người cộng sản đã dẫn
dắt từng bước đi đúng hướng. Lênin chỉ rõ cách mạng vô sản muốn giành thắng lợi
phải có đảng lãnh đạo, Lênin đã không ngừng đấu tranh với những quan điểm của chủ
nghĩa cơ hội để bảo vệ thành công chủ nghĩa Mac, phát triển chủ nghĩa Mac để xây
dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Lênin đã khởi xướng đồng thời cũng là
người khâu nối các tổ chức cộng sản với nhau đưa lý luận chủ nghĩa Mac vào phong
trào công nhân, đập tan tư tưởng chủ nghĩa cơ hội, sáng lập ra Đảng Cộng sản kiểu


mới của giai cấp công nhân Nga. Thực tiễn cách mạng lúc bấy giờ đã khẳng định sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mac Lênin với phong trào công nhân tất yếu dẫn tới sự ra đời
của các chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.
Giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Nga nổ ra khắp nơi
đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải lập ra chính Đảng cách mạng thống nhất tập trung của
giai cấp công nhân đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng. Lúc này ở Nga tuy có
nhiều tổ chức Mac xit ra đời và phát triển song những tổ chức đó ít nhiều đều bị ảnh
hưởng của phái Kinh tế và phái Dân túy, không thể lãnh đạo phong trào đang lên của
quần chúng đấu tranh đúng hướng và giành thắng lợi.

Theo Lênin, để thành lập được một chính đảng cách mạng thống nhất trước hết
phải đánh bại quan điểm tư tưởng cơ hội của phái Kinh tế, chính vì vậy trong các tác
phẩm kể trên, Leeenin dành sự chú ý chủ yếu cho việc chuẩn bị thành lập Đảng macxit
ở nước Nga, một Đảng khác về cơ bản so với các Đảng xã hội cải lương của quốc tế II
và có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh Cách Mạng của công nhân và nông dân thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản.
Theo quy luật phát triển của lịch sử những mâu thuẫn cơ bản của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa
tư bản, tuy nhiên phong trào tự phát của công nhân không thể đi đến thắng lợi. Phong
trào công nhân phải được đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của chính đảng Macxit chân
chính, nghĩa là phải đạt được trình độ tự giác. Cách mạng tháng Mười Nga và những
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong đó có cuộc Cách mạng tháng Tám
1945 của Việt Nam đã chứng minh điều đó.
→ Lênin đã chỉ ra sự cần thiết cần có một chính đảng vơ sản có khả năng lãnh
đạo cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân chống lại chế độ chuyên
chế và chủ nghĩa tư bản, vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Việc thành lập được chính
dảng độc lập của mình, có lý luận cách mạng soi đường, có tổ chức lãnh đạo thống
nhất, chỉ khi đó giai cấp cơng nhân từ giai cấp “tự nó” trở thành giai cấp “vì nó”
Như vậy, khi chưa có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp cơng nhân chỉ có thể
đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải thiện sinh hoạt,
chứ không phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình. Chỉ khi nào giai cấp cơng nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý
luận khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác Lê-nin thì mới đưa ra cuộc đấu tranh
tự phát lên cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh chính trị, đấu tranh với tư cách là một giai
cấp có thể thực hiện sứ mệnh của mình. Giai cấp cơng nhân cần phải được giác ngộ và


tổ chức lại thành một khối đồn kết nhất trí. Do môi trường làm việc của họ không thể
tập hợp lại được với nhau nên cần những người chiến sĩ Cách mạng dẫn dắt. Muốn
vậy, điều kiện quan trọng trước tiên là giai cấp công nhân tự xây dựng lên chính Đảng

chính trị của mình, đó là Đảng Cộng sản.
2.1.3.

Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
- Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa

chủ nghĩa xã hội khoa học (tức chủ nghĩa Mác Lênin) với phong trào công nhân. Lênin
chỉ ra rằng: “Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân”.
Đảng Cộng sản = Chủ nghĩa Mác + Phong trào công nhân
-

Nhưng

trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy
theo điều kiện không gian và thời gian. V.Lênin viết: “Trong tất cả các nước, đã có thời
kỳ phong trào cơng nhân và chủ nghĩa xã hội tồn tại biệt lập với nhau, mỗi bên đi theo
con đường riêng biệt của mình và trong tất cả các nước, sự biệt lập ấy đã làm yếu cả
chủ nghĩa xã hội lẫn phong trào công nhân. Trong tất cả các nước, chỉ có sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân đem lại cơ sở vững vàng cho cả hai
bên. Nhưng ở mỗi nước, sự kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong trào cơng nhân đã
được diễn ra với tính chất llịch sử, theo con đường riêng biệt, phụ thuộc vào những
điều kiện địa phương và thời gian”. Ở nhiều nước thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời
là kết quả của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước.
→ Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của Chủ
nghĩa Tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư
sản, xóa bỏ Chủ nghĩ Tư bản, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Cộng sản



2.2. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và Giai cấp cơng nhân
- Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu
cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động.
Giai cấp cơng nhân là cơ sở xã hội của Đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực
lượng phong phú cho Đảng cộng sản. Những Đảng viên của Đảng là những người
công nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia
nhập Đảng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân giới thiệu cho
Đảng. Trong hàng ngũ của Đảng có những Đảng viên không phải là công nhân, nhưng
phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn luôn phải
đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Với một Đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cũng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Giai cấp cơng nhân thực hiện vai trị lãnh đạo của
mình thơng qua Đảng cộng sản. Tuy nhiên, khơng thể đồng nhất Đảng cộng sản với
giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên
tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy Đảng trở
thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân.
- Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng
cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sơ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng cộng
sản phải đưa ra được cương tĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách
mạng. Cán bộ, Đảng viên phải nắm được quan điểm, đường lối của Đảng để phổ biến
tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương
mẫu mà lôi kéo quần chúng và các phong trào cách mạng.
- Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của
Đảng, do vậy "họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản". Cán bộ, đảng viên phải
tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng tới các tầng lớp nhân dân làm
cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập

hợp, lơi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp cơng
nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế Đảng có thể thực hiện giác ngộ quần


chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần
chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì
những chủ trương, đường lối của Đảng mới được thực hiện và khi đó Đảng mới có sức
mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.
- Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc.
Khi nói tới vai trị tham mưu chiến đầu của Đảng là muốn nói tới vai trị đưa ra những
quyết định của Đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết
định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể
gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ Đảng cộng sản trở thành đội tham mưu
chiến đấu của giai cấp cơng nhân vì Đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai
cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi
luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng.
2.3. Đảng Cộng sản Việt với việc thực hiện Sứ mệnh lịch sử của Giai cấp
cơng nhân
Vai trị:
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo,
tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối chiến
lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành
từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

+ Hợp nhất các Đảng: Năm 1928 – 1929, phong trào công nhân và phong trào
yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt đã xuất hiện 3 tổ chức Cộng sản Đảng: “Đơng
Dương Cộng sản Liên Đồn”, “An Nam Cộng sản Đảng”, “Đông Dương Cộng sản
Đảng”. Tuy nhiên, các Đảng đều hoạt động riêng rẽ tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau
làm cho phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ. Giữa lúc đó,
Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng để hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành một Đảng duy nhất lất
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam


+ Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất nước ta đã giành
được những thành tựu rất quan trọng trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội.
*Đó là những thành tựu về diệt giặc dốt, diệt giặc đói trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; thành tựu về khôi phục kinh tế (1956 - 1957);
thành tựu về cải tạo kinh tế ở miền Bắc (1958 - 1960); thành tựu trong việc thực hiện
thành công kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), kế hoạch chuyển hướng thời
chiến (1965 - 1975), kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980) và kế hoạch 5 năm lần
thứ 3 (1980 - 1985).
*Đặc biệt, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng sau 30 năm thực
hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng từ năm 1986 đến nay. Việc thực hiện tốt
ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, được coi là sự thành công bước đầu cụ
thể hóa nội dung của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên đã
được Đại hội thông qua. Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 - 1995, “Đất nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm đạt 8,2%. Giai đoạn tiếp theo (1996-2000), toàn Đảng, toàn
dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn thách thức; giữ được nhịp độ tăng trưởng
cao, duy trì được sự phát triển đều đặn của các mặt văn hoá, xã hội. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân của thời kỳ 1996-2000 đạt 7%; các ngành nông lâm ngư

nghiệp, công nghiệp và xây dựng, các ngành dịch vụ đều có bước phát triển khá.
*Đại hội IX đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 2010) với mục tiêu: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo lối hiện đại. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá
và tinh thần của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản: nguồn lực con người, năng lực
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được
tăng cường, vị thế nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao. Trong 5
năm đầu thực hiện chiến lược 10 năm 2001 – 2010, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng khá cao, bình quân gần 7,5%/năm; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể,
nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động khá hơn, nhiều lợi
thế so sánh trong từng ngành, từng vùng đã được phát huy.



KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy nếu tự bản thân mình, giai cấp cơng nhân khơng thể thực
hiện được sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan,
song để biến khả năng khách quan thành hiện thực thì phải thơng qua những nhân tố
chủ quan. Trong những nhân tố ấy, việc thành lập Đảng Cộng sản với lý luận tiên
phong, trung thành với sự nghiệp, lợi ích giai cấp là nhân tố quyết định, quan trọng
nhất đảm bảo cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.


CÂU HỎI PHẢN BIỆN
Câu 1: Việc nhận thức đúng và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời
kỳ mới ở Việt Nam còn xảy ra những bất cập gì?
- Ðảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ,
chưa ngang tầm với vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời kỳ mới
- Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp cơng nhân,

nhưng chính sách, pháp luật này vẫn còn hạn chế.
- Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ cơng nhân cịn thấp.
- Lợi ích một bộ phận cơng nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành
tựu của cơng cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật
chất và tinh thần của cơng nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc...". Ðịa vị chính trị
của giai cấp cơng nhân chưa được thể hiện đầy đủ…
Câu 2: Từ những bất cập trên, để trở thành một nước cơng nghiệp hóa theo
hướng hiện đại, cần có giải pháp gì để xây đựng giai cấp cơng nhân Việt Nam trong
thời kì mới?
- Nâng cao nhận thức kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam. Sự lớn mạnh của
giai cấp công nhân là điều kiện đầu tiên quyết đảm bảo thành công của công cuộc đổi
mới.
- Tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với GCCN quốc tế.
- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, có học vấn, chun mơn, kĩ
năng nghề nghiệp cao và có bản lĩnh chính trị vững vàng.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo cho đời sống giai cấp cơng
nhân, đẩm bảo hài hịa giữa lợi ích công nhân và người sử dụng lao động, Nhà nước và
tồn Xã hội: khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần, giải quyết những bất
cập, bức xúc của GCCN.
- Thực hiện chiến lược xây dụng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn chặt chẽ với
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế.
Câu 3: Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của gccn hiện nay như thế nào?
- Nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như cơng bằng, bình
đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do giai
cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.



- Về kinh tế: Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế
xã hội hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và cơng nghệ có vai trị lớn trong sản
xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến tăng nhanh, tư bản bất biến
giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trị to lớn của tri thức,
tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công nghiệp đang
từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt nguồn từ độc quyền
sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư. Máy móc, cơng nghệ sẽ
vẫn tiếp tục đóng vai trị là “những nhà cách mạng” thầm lặng. Chính xu hướng “tích
hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người” quy định và thúc đẩy xã hội
phải phát triển khác đi. Nó buộc con người trong q trình sản xuất hiện đại khơng chỉ
chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà cịn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác
của phát triển bền vững.
Câu 4: Giai cấp công nhân việt nam ngày nay có nhiệm vụ như thế nào?
- Về kinh tế: với tư cách là nhân lực lao động chủ yếu tham gia phát triển nền
kinh tế thị trường hiện đại, định hướng XHCN, họ phải là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Về chính trị - xã hội: giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng; chủ động,
tích cực trong xây dựng, chỉnh đốn đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây
dựng nền dân chủ XHCN
- Về văn hóa, tư tưởng: Xây dựng và phát triển nền văn hóa việt nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc mà nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xhcn. Đấu
tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng HCM, chống lại những quan điểm sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch



×