Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài tập lớn môn Triết Học Mác - Lênin , ĐH BK HCM, Định nghĩa vật chất của V I Lênin, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.5 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI:

Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức
và hình thức tồn tại của vật chất. Nghiên cứu vấn
đề vật chất đối với khoa học hiện nay.
LỚP --- NHÓM --- HK 201
Ngày nộp:
Giảng viên hướng dẫn: An Thị Ngọc Trinh

Sinh viên thực hiện

Mã số sinh viên

Thành phố Hồ Chí Minh – 2020
1

Điểm số


ĐỀ TÀI 3: Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức và hình

thức tồn tại của vật chất. Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa
học hiện nay.
MỤC LỤC
Trang


1. PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................1
2. PHẦN NỘI DUNG......................................................................................4
Chương I: Định nghĩa vật chất của Lênin....................................................4
1. Vật chất:........................................................................................................
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất:..............................................................................................4
1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất:.......................5
1.3. Quan niệm vật chất của Lênin:...................................................................5
2: Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:........................................7
2.1.Phương thức tồn tại của vật chất:................................................................7
2.1.1.Khái niệm vận động..........................................................................7
2.1.2. Nguyên nhân vận động....................................................................7
2.1.3. Bản chất của vận động....................................................................7
2.1.4. Nguyên tắc phân chia vận động và các hình thức vận động cơ
bản....................................................................................................................8
2.2. Hình thức tồn tại của vật chất:..................................................................10
2.2.1. Khơng gian:
2.2.2. Thời gian:
2.2.3. Mối quan hệ giữa không gian và thời gian:
Chương 2: Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với sự phát triển của khoa học tự
nhiên:
2.1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:

2


2.2. Giá trị định nghĩa vật chất của Lênin trong sự phát triển của Khoa Học Tự
Nhiên hiện nay.................................................................................................12
2.3. Hạn chế trong nghiên cứu về khoa học tự nhiên khi giải thích về tính vật

chất của thế giới:
2.4. Giải pháp khắc phục:...................................................................................
3. TÀI LIỆU THAM KHẢO:.........................................................................15

3


1. PHẦN MỞ ĐẦU:
Trong lịch sử triết học Mác – Lênin khái niệm vật chất được hiểu là tất cả những
gì tồn tại khách quan tức là những sự tồn tại của nó khơng phụ thuộc vào ý thức
của con người, không phụ thuộc vào quan niệm của con người. Theo đó thì vật
chất là vơ cùng tận, là khơng có giới hạn, nó tồn tại giữa vơ lượng các hình thức
khác nhau, có thể là những tồn tại mà con người đã biết hoặc là những tồn tại mà
con người chưa biết. Đó là những vật chất tự nhiên hoặc là những tồn tại của vật
chất trong đời sống xã hội. Vật chất tồn tại vơ cùng lớn ví dụ: như thiên hà, hoặc
vô cùng bé là những hạt cơ bản. Đó có thể là những tồn tại mà người ta trực tiếp
giác quan được nhưng cũng có thể là những tồn tại mà không thể trực tiếp giác
quan được nhưng nó là tồn tại khách quan. Vật chất với tư cách là tồn tại khách
quan thì khơng tồn tại có nghĩa là con người khơng thể dùng giác quan để nhận
biết những vật chất với tư cách là những biểu hiện tồn tại cụ thể dưới những
hình thức nhất định thì nó tồn tại cảm tính. Thơng qua đó thì con người mới
nhận thức được về nó. Khi nhắc tới vật chất ta không thể không nhắc tới quan
niệm về vật chất của V.I.Lênin, quan niệm đó đã khắc phục được những hạn chế
mà các quan niệm về vật chất trước đó đang gặp phải. Vậy thì quan niệm về vật
chất của V.I.Lênin là gì? Phương thức và hình thức của nó ra sao? Vật chất đối
với nền khoa học hiện nay có tác động như thế nào?. Với mong muốn tìm hiểu
kĩ hơn về vấn đề này nên nhóm em chọn chủ đề “Định nghĩa vật chất của V.I.
Lênin, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất. Nghiên cứu vấn đề vật
chất đối với khoa học hiện nay.”
2. PHẦN NỘI DUNG:

CHƯƠNG I: ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA V.I LÊNIN:
1.1.Quan niệm chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất:
1.1.1. Quan điểm duy tâm:
a. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan:
Đặc trưng cơ bản của mọi sự vật, hiện tượng là sự tồm tại phụ thuộc vào chủ
quan
b.Chủ nghĩa duy tâm khách quan:
Thừa nhận sự tồn tại hiện thực của thế giới tự nhiên.
=>kết luận: Con người không thể hoặc chỉ nhận thức được cái bóng , cái bề
ngồi. Các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của
vật chất.
4


1.1.2.Quan điểm duy vật:
a.Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại:
+ Xuất hiện với quan niệm xuất phát từ tự nhiên, về vật chất. đồng nhất vật chất
với nước (Talet), lửa (Hêraclit), khơng khí ( Anaximen), hay ngun tử phân tử (
Đêmôcrit), ngũ hành ( Trung Quốc).
+ Anaximander cho rằng mọi vật trong vũ trụ là là dạng vật chất đơn nhất,vô
định,vô hạn và tồn tại vĩnh viễn.
+ Loxip và Đemocrit cho rằng vật chất là nguyên tử.
b.Chủ nghĩa duy vật thế kỉ XV –XVII:
+ Chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình ,máy móc.
+ Song chưa thốt ra khỏi tư duy siêu hình.
+ Có những nhà triết học vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử như
Đeecacto, Canto.
=>>> + Ưu điểm: Lấy chính bản thân vật chất để giải thích khái niệm vật chất.
+ Hạn chế: Đồng nhất vật chất với những cụ thể nên :

Dễ dàng bị chủ nghĩa duy tâm tấn công bằng truy nguyên
Đưa thế giới vào phạm vi hẹp
Không thể định nghĩa vật chất vì thiếu logic
1.2. Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX ,đầu thế kỉ XX và
sự phá sản của các quan điểm siêu hình về vật chất:
-Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ của nguyên tố Ưrani. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử. Năm
1901, Kauíman đã chứng minh dược khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà
thay dồi theo vận tốc vận động của nguyên từ. Năm 1898 - 1902, nhà nữ vật lý học Ba
Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie Curie, nhà hoá học người Pháp, đã khám
phá ra chất phỏng xạ mạnh là pôlồni và rađium. Những phát hiện vĩ dại đó chứng tỏ
rằng, nguyên tử không phâi là phần tử nhỏ nhát mà nó có thề bị phân chia, chuyển hố.
Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và năm 1916, Thuyết Tương dối Tổng quát của A
Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đồi cùng
với sự vận động của vật chất.
-Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, khơng ít nhà khoa
học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hỉnh đã hoang mang, dao

5


động, hồi nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng, nguyên tử không
phải là phần tử nhị nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất di”. Do dó, vật chất
cũng có thể biến mất; có hiện tượng khơng có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành
trường, cũng có nghĩa là vật chất chỉ cịn là năng lượng, là sóng phi vật chất; quy luật
cơ học khơng cịn tác dụng gì trong thế giới vật chất “kỳ lạ”.Theo đó, E.Makhơ phủ
nhận tính hiện thực khách quan của điện tử. Ổtvan phủ nhận sự tồn tại thực tế cùa
nguyên tử và phân tử. Còn Piếcsơn thì định nghĩa: “Vật chất là cái phi vật chất đang
vận động”(!). Đây chính là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại
1.3 Quan niệm của triết học Mác- Lênin về vật chất:

1.3.1 Khái niệm về vật chất:
Theo Lê-Nin phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà
cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được”. Khi định nghĩa phạm
trù này, khơng thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng khơng thể
quy về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.ăngghen, tổng kết những thành tựu khoa học tự
nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Lê-Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về
phạm trù vật chất “ Vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác của chúng ta chép lại phản
ánh và được tôn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ở định nghĩa này, Lê-Nin phân biệt hai vấn đề quan trọng: Trước hết là phân biệt
vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về
cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật
chất với tư cách là phạm trù triết học dung chỉ vật chất nói chung, vơ hạn, vơ tận,
khơng sinh ra, khơng mất đi; cịn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể
nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy,
khơng thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng nhất vật chất nói chung
với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đai, cận đại đã
làm. Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng cơ bản quan trọng nhất để nhận biết
vật chất chính là thực tại khách quan. Khách quan, theo Lê-Nin là “ cái đang tồn tại
độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội, vật chất
“ theo ý nghĩa tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về
mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn: “ thực tại khách
quan tồn tại độc lập với ý thức con người phản ánh”.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động
lên giác quan của con người. Khi con người cảm nhận được sự tồn tại của vật chất có
nghĩa là khi đó một trong những giác quan của con người cảm nhận được sự tồn tại về
hình dáng, kích thước, màu sắc, âm thanh… của vật chất. Chính những cảm giác này
tạo cho con người có cảm giác khác nhau khi nhìn thấy những dạng vật chất khác nhau


6


Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Trong thế giới hiện tại,
con người cảm nhận mọi thứ bằng các giác quan và đồng thời vật chất là cái “được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lê-Nin muốn nhấn mạnh rằng
bằng những phương thức nhận thức khác nhau con người có thể nhận thức được thế
giới vật chất. Từ cảm giác đến tư duy hay cao hơn nữa là nhận thức thì vật chất vẫn là
yếu tố trung gian khơng thể thiếu.
1.3.2 Ý nghĩa của định nghĩa vật chất Lê-Nin
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của Lê-Nin có nhiều ý nghĩa
to lớn. Khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác” , “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, Lê-Nin đã thừa nhận rằng,
trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác,
ý thức. Khi khẳng định vật chất là cái “ được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
ghi lại, phản ánh”, Lê-Nin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức
khác nhau con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật
chất của Lê-Nin đac bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể
biết, đã khác phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật
trước Mác về vật chất.
Đồng thời, định nghĩa vật chất của Lê-Nin cịn có ý nghĩa định hướng đối với khoa
học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế
giới. Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của LêNin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà
khoa học có cớ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố
xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cớ sở
ấy người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
2.1.Phương thức tồn tại của vật chất:
2.1.1.Khái niệm vận động:
- Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Ví dụ: Bạn A đang

đạp xe đạp, ta nói bạn A đang vận động.
- Chủ nghĩa duy vật khẳng định: Vận động là cách thức tồn tại, đồng thời là hình thức
tồn tại của vật chất. Ph.Ăngghen viết :” Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, -tức
được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” 1
2.1.2. Nguyên nhân vận động:
1 Các Mác và Ph. Ăngghen (1994), toàn tập, t.20, Sđd. tr.751

7


- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Khơng ở đâu và ở nơi nào lại có thể có
vật chất khơng vận động.
- Sự tồn tại của vật chất là tồn tại bằng cách vận động, tức là vật chất dưới các dạng
thức của nó ln ln trong q trình biến đổi khơng ngừng. Các dạng tồn tại cụ thể
của vật chất khơng thể khơng có thuộc tính vận động.
- Trong thế giới vật chất, từ những thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản vô cùng
bé, từ giới vô cơ đến giới hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng xã hội, tất cả
đều ở trạng thái không ngừng vận động biến đổi. Chúng ln tác động , ảnh hưởng lẫn
nhau và chính sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau ấy gây nên những biến đổi nói
chung, tức là vận động.
2.1.3. Bản chất của vận động:
- Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến. Sở dĩ ta nói vận
động là tự thân vận động vì nó được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các
thành phần nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Theo
Ăng-ghen, vận động của vật chất do tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác
nhau của bản thân sự vật, “sự tác động qua lại đó chính là sự vận động”. 2
- Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện
sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú, mn vẻ, vơ tận.

- Chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo cho rằng, có vận động mà khơng có vật chất, tức là có
lực lượng phi vật chất vận động bên ngoài thế giới vật chất. Họ giải thích mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa khối lượng và năng lượng thành sự biến đổi của khối lượng
thành năng lượng phi vật chất. V.I.Lênin cho rằng, quan niệm trên của các nhà triết học
duy tâm chẳng qua chỉ là “ thứ dùng thuật ngữ “ mới” để ngụy trang cho những sai
lầm cũ về mặt nhận thức luận” 3
- Vận động là thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do đó, nó tồn
tại vĩnh viễn, khơng thể tạo ra và khơng bị tiêu diệt. Điều đó đã được các nhà khoa học
tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng. Có nghĩa là

2 Ph.Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1971, trang 94
3 V.I.Lênin(1980), toàn tập, t.18,Sđd.tr.334

8


một hình thức vận động cụ thể thì có thể mất đi để chuyển thành hình thức vận động
khác, cịn vận động nói chung thì tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân vật chất.
2.1.4. Nguyên tắc phân chia vận động và các hình thức vận động cơ bản:
-Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện bởi các quy mơ, trình độ
và tích chất hết sức khác nhau. Dựa vào các thành tựu khoa học của thời đại của mình,
Ph.Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lí,
hóa học, sinh học và xã hội.
+ Vận động cơ học là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian. Ví
dụ: chuyển cái bàn từ vị trí A sang vị trí B trong phịng họp.
+ Vận động vật lý là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, của điện tử, của
các q trình nhiệt, điện, v.v. Ví dụ: khi ta đun nước, khi nhiệt độ của ngọn lửa tăng
lên thì nhiệt độ của bình nước cũng tăng dần lên.
+ Vận động hoá học là vận động của các nguyên tử, các q trình hố hợp và
phân giải các chất. Ví dụ: ta cho muối vào bình nước và lắc nhẹ, muối sẽ hoà tan dần

trong nước.
+ Vận động sinh học là vận động của sự trao đổi chất giữa cơ thể và mơi trường.
Ví dụ: khi ta hít thở khơng khí thì cơ thể ta thực hiện sự trao đổi chất giữa cơ thể với
môi trường.
+ Vận động xã hội là vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Ví dụ: sự
chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sang hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa.
- “Vận động trong không gian vũ trụ, vận động cơ học của các vật thể tương đối nhỏ
trên một thiên thể riêng biệt, chấn động phân tử dưới hình thức nhiệt, dịng điện, dịng
từ phổ, phân giải và hợp chất hóa học, sự sống hữu cơ cho đến cái sản phẩm cao nhất
của nó là tư duy.” 4
- Cơ sở phân chia trên dựa trên các nguyên tắc:
+ Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật
chất.
4 Các Mác và Ph. Ăngghen (1994), toàn tập, t.20, Sđd. tr.833

9


+ Các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động
cao này sinh trên cơ sở của hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động
thấp
+ Hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và khơng
thể quy về hình thức vận động thấp.
- Việc phân chia các hình thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phân chia các đối
tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời vạch ra các nguyên
lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất.
- Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ khơng thể tách rời nhau. Giữa hai
hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là mắt
khâu chuyển tiếp trong q trình chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức vận động.

- Trong lịch sử, các nhà triết học duy vật ở thế kỉ XVII và XVIII, do quan niệm siêu
hình đã quy mọi hình thức vận động thành một hình thức duy nhất đó là vận động cơ
học. Họ coi hoạt động của tự nhiên và con người khơng khác gì những cổ máy, từ đó
hình thành chủ nghĩa cơ giới. Quan niệm sai lầm của chủ nghĩa cơ giới là nguyên nhân
dẫn đến những bế tắc trong việc lí giải những biến đổi của thể giới sinh vật và xã hội.
- Đến giữa thế kỉ XIX, những người theo chủ nghĩa Đác-uyn xã hội lại quy vận độnng
xã hội là vận động sinh học, coi con người như một sinh vật thuần túy. Họ cho rằng, sự
tồn tại phát triển của xã hội là quá trình chọn lọc tự nhiên, trong đó con người đấu đá,
tiêu diệt lẫn nhau, kẻ nào mạnh, thích ứng được thì tồn tại, ngược lại thì bị tiêu diệt.
Trong khi thuyết tiến hóa của Đác-uyn được coi là chân chính, thì chủ nghĩa Đác-uyn
xã hội lại là sai lầm vì hạ thấp con người xuống hàng con vật.
- Việc nghiên cứu sự thống nhất và khác nhau của các hình thức vận động của vật chất
vừa là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc, giúp chúng ta đề phòng và khắc phục những sai lầm trong nghiên
cứu khoa học và thực tiễn xã hội.
2.1.5. Vận động và đứng im:
- Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại cịn
bao hàm trong đó là sự đứng im tương đối.

10


- Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan
hệ và điều kiện cụ thể. Đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ
nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm, chỉ xảy ra với
một hình thức vận động nào đó, tại một thời điểm nào đó chứ khơng cùng một lúc với
mọi hình thức vận động.
- Nói cách khác, đứng im là một dạng của vận động, trong đó sự vật chưa thay đổi căn
bản về chất, nó cịn là nó chứ chưa chuyển hóa thành cái khác. Mặc dù mang tính chất
tương đối tạm thời, nhưng “đứng im” lại chứng thực cho hình thức tồn tại thực sự của

vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
- Ph.Ăngghen viết: “ Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển hóa thành cân bằng, vận
động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt.” 5
-Vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong đó vận động là tuyệt đối,
đứng im là tương đối.
-Sự vật, hiện tượng khác nhau, hoặc cùng một sự vật, hiện tượng nhưng mối quan hệ
khác nhau, ở các điều kiện khác nhau thì đứng im cũng khác nhau. Ví dụ: Đứng im của
một xã hội về mặt chính trị sẽ khác đứng im của một xã hội về mặt kinh tế.
2.2. Hình thức tồn tại của vật chất:
Hình thức tồn tại qua 2 hình thức khơng gian và thời gian. Trong lịch sử triết học,
xung quanh các phạm trù khơng gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề nan giải
gây tranh cãi vì chúng ta có hệ thống quan điểm khác nhau:
Về phía duy tâm chủ quan cho rằng hình thức trực quan tiên nghiệm do tri giác chủ
quan của con người qui định, là sự sắp xếp cảm giác thu được theo một trật tự nhất
định, hoặc là chỉ hệ thống liên kết chặt chẽ với chuỗi cảm giác mà con người sinh ra.
Đại diện cho luồng tư tưởng này là E.Cantơ, E.Makho. E.canto được cho là một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất từ trước đến nay. Trong học thuyết của mình về chủ
nghĩa duy tâm siêu việt, ông cho rằng không gian, thời gian và nhân quả đơn thuần là
những thứ cảm nhận được. Khi phân tích về quan điểm này V.I. Lênin cho rằng “Đó là
5 Các Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, NXB CTQG, H.1994, t.20, tr.740

11


một điều vơ lí duy tâm rỏ rệt nảy sinh ra một cách tất nhiên từ học thuyết nói rằng vật
thể là phức hợp của cảm giác”(1) .
Vào thời thế kỷ XVII - XVIII, các nhà duy vật siêu hình tập trung phân tích các khách
thể vĩ mơ vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời không gian và thời gian
với vật chất. Duy vật siêu hình cho rằng không gian và thời gian khách quan nhưng

trống rỗng không gắn với vật chất vận động. I.Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt
đối, không biến đổi. Không gian như cái hộp, cái khung “trống rỗng” khổng lồ bất
biến có thể xếp vào, lấy ra các sự vật. Cịn thời gian thì như “dải băng” được trải ra
một cách đều đặn.
Vậy theo triết học duy vật biện chứng thì phạm trù khơng gian và thời gian được hiểu
như thế nào?.Dựa trên thành tựu của khoa học và thực tiễn chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian- thời gian và xem không gian
thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.Trơng đó khơng gian được hiểu là
hình thức tồn tại của vật chất, có kết cấu và quảng tính cùng tồn tại,trật tự, kết cấu và
tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc
tính như: Độ lâu của sự biến đổi, trình tự
xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất.
Vậy khơng gian và thời gian có liên hệ gắn bó với nhau cũng như là với sự vận động
khơng? Hay chúng tác rời biệt lập trống rỗng như quan niệm của Niutown? Thắc mắc
này đã được giải đáp ngay sau đó bởi liên tiếp các phát mình vượt bậc của
Lơbatsépxki, trong hình học phi Ơcơlít của mình đã bác bỏ tư tưởng của Cantơ hay hẹ
thống quan niệm của duy vật chủ quan coi không gian và thời gian là những hình thức
trực quan tiên nghiệm, của tri giác cảm tính ngồi kinh nghiệm. Bútlêrốp đã phát hiện
ra những đặc tính khơng gian lệ thuộc vào bản chất vật lý của các vật thể vật chất. Đặc
biệt thuyết tương đối của A.Anhxtanh đã xác nhận rằng, không gian và thời gian
khơng tự nó tồn tại, tách rời vật chất mà nằm trong mối liên hệ qua lại phổ biến không
thể phân chia. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích thước
của nó rút ngắn lại, thời gian trơi chậm đi đã bác bỏ quan niệm của I.Niu tơn. Không
gian thời gian là hai thuộc tính, là hai hình thức tồn tại của vật chất vận động khơng
thẻ tách rời. Khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà khơng có q

12


trình diễn biến của nó. Cũng như khơng có sự vật hiên tượng nào tồn tại có thời gian

mà lại khơng có kết cấu quảng tính nhất định. Tính chất của khơng gian và sự biến đổi
của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại.
Do đó khơng gian và thời gian là thực thể thống nhất.
Không gian và thời gian là hình thước tồn tại của vật chất vận động được con người
khái quát khi nhận thức thế giới. Khơng gian, thời gian là thuộc tính và gắn liền với
vật chất vận động. Vật chất vận động là vận động trong khơng gian thời gian. Khơng
có khơng gian, thời gian thuần túy tồn tại ngoài vật chất vận động. Khơng có vật chất
vận động ngồi khơng gian và thời gian.V.I. Lênin viết :”Trong thế giới khơng có gì
ngồi vật chất đang vận động và vận chất đang vận động khơng thể vận động ở đâu
ngồi khơng gian và thời gian”(2) .Ph.Ăngghen viết: "Các hình thức cơ bản của mọi tồn
tại là khơng gian và thời gian; tồn tại ngồi thời gian thì cũng hết sức vơ lý như tồn tại
ngồi khơng gian”(3). Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình tách rời
khơng gian và thời gian với vật chất đang vận động.V.I.Lênin cho rằng, để chống lại
mọi chủ nghĩa tín ngưỡng và mọi chủ nghĩa duy tâm thì phải "thừa nhận một cách dứt
khốt và kiên quyết rằng những khái niệm đang phát triển của chúng ta về không gian
và thời gian đều phản ánh thời gian và không gian thực tại khách quan" (4); "kinh
nghiệm" của chúng ta và nhận thức của chúng ta ngày càng thích ứng với khơng gian
và thời gian khách quan, ngày càng phản ánh chúng một cách đúng đắn hơn và sâu sắc
hơn.
Khơng gian thời gian là thuộc tính của vật chất gắn liền với nhau và gắn liền với vật
chất. Vì vật chất là thực tại khách quan nên khơng gian và thời gian là những hình thức
tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Do đó nói khơng gian và thời gian tồn tại khách
quan. Điều đó phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian
chỉ là sản phẩm của ý thức con người.
Tính vĩnh cửu và vơ tận nghĩa là khơng gian và thời gian khơng có tận cùng về một
phía nào, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên
phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh
khơng có tận cùng về khơng gian và khơng ở đâu có ngưng động, không biến đổi

13



khơng có sự tiếp nối q trình. Khơng gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng là
là tận cùng và hữu hạn.
Tính ba chiều của khơng gian và tính một chiều của thời gian. Khơng gian ln có ba
chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ tới
tương lai). Vậy khái niệm "không gian nhiều chiều" mà ta thường thấy trong tài liệu
khoa học hiện nay được hiểu như thế nào? Không gian nhiều chiều hay không gian đã
chiều thực chất là một trừu tượng khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc
trưng cho các thuộc tính khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những quy
tắc biến đổi nhất định. Đó là một cơng cụ tốn học hỗ trợ dùng trong q trình nghiên
cứu chứ không phải để chỉ không gian thực, không gian thực chỉ có ba chiều. Ta có thể
thấy tính ba chiều của không gian ở phim 3d, lái xe theo định vị GPS, các trị chơi thực
thế ảo. Ngồi ra ở lĩnh vực quân sự cụ thể là lập trình xác định mục tiêu bắn của các
tên lửa đạn đạo hoặc máy bay không người lái cũng là ứng dụng của khơng gian 3
chiều. Tính một chiều của thời gian càng dễ thấy hơn. Ví như người ta chỉ có thể sinh
ra rồi già đi chứ khơng thể đi ngược lại, hay các giai đoạn của quá khứ rồi hiện tại đến
tương lai cũng chỉ trôi qua một chiều. Ta không thể từ hiện tại đi ngược quá khứ. Hay
còn thể hiện ở các tác phẩm văn học “Chuyến tàu một chiều không trở lại”của Kiên
Phạm hay chúng ta thường nói rằng “ta chỉ sống một lần trong đời”.

CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VẬT CHẤT ĐỐI VỚI KHOA HỌC
HIỆN NAY:
2.1. Sự phát triển của Khoa Học Tự Nhiên:
Những nền văn hóa sớm: Vào thời tiền sử và cổ đại, khoa học phát triển từ nhu cầu
giải thích thế giới và những đòi hỏi thực tế của con người như đo đạc, tính tốn, làm
thủy lợi, dự báo thời tiết... Khoa học thời kỳ này cịn mang nặng tín ngưỡng, tơn giáo
và sự thần bí. Những nền khoa học cổ đại sớm phát triển ở Ai Cập, Hy Lạp-La Mã, Ấn
Độ và Trung Quốc.
Khoa học thời trung đại: Khoa học thời kỳ này đặc biệt phát triển mạnh mẽ ở thế giới

Hồi giáo và trung cổ châu Âu. Những phát minh khoa học đưa đến sự phát triển mạnh
mẽ của châu Âu và góp phần hình thành Thời kỳ Khai sáng.
Khoa học thời hiện đại: Khoa học thời hiện đại phát triển ở rất nhiều lĩnh vực với
nhiều thành tựu ở vật lý, hóa học, địa lý, thiên văn học, sinh hoc, y học, công nghệ
gen, sinh thái học và các ngành khoa học xã hội. b

14


2.2. Giá trị định nghĩa vật chất của Lênin trong sự phát triển của Khoa Học
Tự Nhiên hiện nay:
Làm rõ giá trị của định nghĩa vật chất của Lênin trong sự phát triển của Khoa
Học Tự Nhiên hiện nay tức là đi tìm ý nghĩa của nó. Định nghĩa này đã bao quát
cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của triết học, thể hiện rõ lập trường duy vật biện
chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng trên lập
trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của
cảm giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó.
Con người có khả năng nhận thức thế giới.
- Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất.(ý thức có
trước,vật chất có sau)
- Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về
vật chất của Chủ nghĩa duy vật trước Mac (quan niệm vật chất về các vật thể cụ
thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại).
- Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của Chủ nghĩa duy vật tầm
thường về vật chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất)
- Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
- Định nghĩa này đã liên kết Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật
lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là
những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).

=>Như vậy,giá trị của định nghĩa vật chất là đã đấu tranh khắc phục triệt để tính
chất trực quan, siêu hình, máy móc và những biến tướng của nó trong quan niệm
về chất chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa này cũng đã
giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết
học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình Sau đó là
khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, ln vận động và
phát triển khơng ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học
đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính
mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng
tri thức của nhân loại. Mở đường cổ vũ cho khoa học tự nhiên đi sâu khám phá
ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất.
2.3. Hạn chế trong nghiên cứu về Khoa Học Tự Nhiên khi giải thích về tính
vật chất của thế giới:

15


Giống như vật lý học đầu thế kỷ, khi chuyển sang nghiên cứu cấp độ cấu trúc sâu
xa hơn của vật chất, vật lý học hiện đại cũng đang vấp phải một thực tế là các hình
thức tư duy vật lý học vốn có, đã xuất hiên và có luận cứ lịch sử ở các giai đoạn hoạt
động thực tiễn và nhận thức trước đây đã tỏ ra khơng cịn hiệu quả khi tiếp cận với
những dữ liệu thông tin mới. Bởi lẽ, một cách khách quan, các hình thức tư duy tri và
hoạt động với tư cách là các lý thuyết vật lý học cơ bản, cịn việc tìm kiếm các hình
thức tư duy mới, phù hợp với tiến trình phát triển của vật lý học hiện đại lại là một vấn
đề khác. Đó là vấn đề xây dựng các lý thuyết và các khái niệm vật lý học mới. Do chỗ
các học thuyết vật lý học có nhiệm vụ khái quát những đặc điểm quan trọng của lĩnh
vực mà nó phản ánh dưới hình thức hệ thống hố nên quá trình xây dựng các lý thuyết
vật lý học mới không thể chỉ đơn giản là thay thế một hệ thống khái niệm cũ bằng một
hệ thống khái niệm mới phù hợp với các khả năng đang được mở ra theo một số quy
tắc nhất định nào đó.

Xét từ một góc độ tồn diện hơn thì cần phải tính đến khơng những các mối liên hệ
có tính logic giữa các hệ thống tri thức đang tồn tại và các hệ thống tri thức đang xuất
hiện, mà còn cả mối quan hệ về mặt nhận thức luận với bản thể luận. Các hệ thống tri
thức đang thay thế lẫn nhau có sự khác nhau bao nhiêu, thì sự khác nhau giữa các quan
niệm được hình thành từ các hệ thống tri thức ấy càng lớn bấy nhiêu. Chính sự khác
nhau đó đã làm nảy sinh ra các mâu thuẫn về nhận thức lý luận, mà khi không nắm bắt
được quá trình biện chứng của nhận thức, một số nhà khoa học tự nhiên đã đi đến kết
luận duy tâm hoặc siêu hình trước các thành tựu mới trong tiến trình phát triển của
khoa học.
Thí dụ điển hình cho các kết luận như vậy là những đánh giá sai lầm trên bình diện
triết học về tính chất của cuộc cách mạng trong vật lý học đầu thế kỷ XX ở các nhà
khoa học như: P.Đuyhem, E.Makhơ, A.Poanhcarê… Sai lầm của các nhà khoa học đó
là ở chỗ "trong khi phủ định tính bất biến của những nguyên tố và của những đặc tính
của vật chất đã được biết cho đến nay, V.I.Lênin khẳng định: Họ đã rơi vào chỗ phủ
nhận vật chất, nghĩa là phủ nhận tính thực tại khách quan của thế giới vật lý. Trong khi
phủ nhận tính chất tuyệt đối của những quy luật quan trọng nhất và cơ bản, họ rơi vào
chỗ phủ nhận mọi quy luật khách quan trong tự nhiên, rơi vào chỗ khả thi, sự bất lực
của khoa học tự nhiên cổ điển trong việc giải quyết các vấn đề khoa học mới nảy sinh
(như tính có thể phân chia được của ngun tử, tính phóng xạ...). Nhưng mối liên hệ
giữa sự đảo lộn đó trong các khái niệm cơ bản của vật lý học với các kết luận duy tâm
được rút ra từ sự phát triển của khoa học không chỉ dừng lại ở những mối quan hệ vốn
đã tồn tại từ trước, mà còn nảy sinh từ các điều kiện phát triển hiện thực của tri thức
khoa học trong khuôn khổ xã hội tư bản. Từ các kết luận được rút ra bởi những đảo lộn
mang tính bước ngoặt trong các khái niệm cơ bản của vật lý học, người ta không thể
và hồn tồn khơng thể đi đến chỗ phủ định tính khách quan của tri thức vật lý và từ
sự phủ định đó đi đến chỗ tuyên bố sự "tiêu tan" của vật chất. Song, khi quá trình biện
chứng và tính đặc thù của nhận thức lý luận vẫn cịn là một điều bí ẩn đối với các nhà
khoa học, thì khả năng đưa ra những kết luận tương tự như vậy là có thể xảy ra. Là
những người duy vật tự phát trong các lĩnh vực hoạt động khoa học cụ thể của mình,
nơi mà họ có khả năng đem lại các thành quả nghiên cứu thực sự có giá trị, song các


16


nhà khoa học nếu không phải là các nhà duy vật biện chứng thì sự giải thích về ý nghĩa
triết học có khi lại phản lại những thành tựu do mình đem lại.
Từ đó có thể suy ra rằng, đối với các nhà khoa học tự nhiên ở một giai đoạn phát triển
tương đối dài và khá yên tĩnh thì nội dung của tri thức mà họ đã nắm bắt được cần phải
được xem như là hiện thực khách quan, bởi khi đối chiếu tri thức thu được với hiện
thực, họ luôn đồng nhất tư duy với tồn tại một cách vô ý thức. Hơn nữa, bản thân tri
thức được nhận thức không những là kết quả của hoạt động nhận thức trước đó, mà
cịn là quan niệm độc đáo và duy nhất có thể có về thực tại đang được nghiên cứu.
Thực tại này được quan niệm là khách thể có thể có của tri thức chỉ về các phương
diện, các mối liên hệ và các bước trung gian hoá mà hệ thống tri thức hiện tồn cho
phép xem xét.
Vì hệ thống trí thức lý luận bao giờ cũng có tính lịch sử cụ thể (cơ học cổ điển thế kỷ
XVIII - XIX) cho phép nắm bắt các sự kiện và các quy luật mới được phát hiện ra ở
một thời gian, có thể nói, là đủ dài, nên với cùng một sự tất yếu do tiến trình khách
quan hố hệ thống tri thức lý luận đó đem lại, người ta giả định rằng tính chân thực
của các nguyên tắc lý luận, các quy luật cơ bản có thể được chế định bởi chính hình
thức tồn tại đã được khách quan hoá của chúng trước mọi hệ thống lý luận khác. Do
vậy, ở các giai đoạn phát triển đó của khoa học, các nhà khoa học thường xác định
nhiệm vụ cơ bản của mình là ở việc ngoại suy đối với lĩnh vực vận dụng các biểu
tượng và khái niệm lý luận. Điều đó đã khiến cho việc đồng nhất tri thức và hiện thực
có được tính chất tuyệt đối. Thay vì, xem xét các khái niệm cơ bản của vật lý học ở
trình độ nhận thức triết học như là sự trừu tượng hoá một số quan hệ của hiện thực với
tư cách là đối tượng nghiên cứu chỉ ở một trình độ xác định của thực tiễn lịch sử - xã
hội, người ta lại coi bản thân hiện thực hoàn toàn là những biểu hiện của sự trừu tượng
hố đó.
Tương tự như trong kinh tế học, trong vật lý học, các khái niệm và các ý niệm của nó,

như C.Mác nhận xét, "cũng ít mang tính chết vĩnh viễn như những quan hệ mà các
phạm trù ấy là sự biểu hiện của chúng. Đó là những sản phẩm mang tính chất lịch sử
và nhất thời”. Bỏ qua thực tế đó, bất kỳ nhà khoa học nào cũng thừa nhận một cách
khơng cơng khai tính tuyệt đối và tính chân thực vĩnh cửu của trình độ tri thức đã đạt
được Đồng thời, họ cũng luôn tin tưởng rằng, tri thức hiện có là nền tảng vững chắc và
đáng tin cậy để bao chứa các kết quả nhận thức mới, rằng vốn được trình bày một cách
hợp lý, các sự kiện mới sẽ không hề mâu thuẫn với tri thức ban đầu.
Quan điểm này đòi hỏi phải giả định 'tính chất đường thẳng" trong tiến trình phát triển
của tri thức khoa học, phải giả định tính có thể được xếp đặt trước của nó bởi các quan
niệm lý luận đã có trước. Đứng trên lập trường đó, các nhà khoa học thường xác định
tương lai của nhận thức lý luận là sợ phản chiếu quan niệm về thế giới được hình
thành bởi hệ thống tri thức hiện có vào bộ phận chưa được nhận thức của nó. Đến một
thời điểm nào đó, quan niệm này vẫn được minh biện, bởi khi đó vẫn cịn chưa xuất
hiện những mâu thuẫn mang tính nguyên tắc giữa các sự kiện và sự giải thích về chúng
Tuy nhiên, sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa các sự kiện phát hiện ra
do ngoại suy tri thức cũ vào các lĩnh vực mới và sự giải thích về các sự kiện ấy. Mọi

17


nỗ lực của các nhà khoa học nhằm loại bỏ các mâu thuẫn đó, khi vẫn dừng lại trong
khn khổ của các quan niệm cũ, đều thất bại. Và khi đó, các nhà khoa học bắt đầu
hồi nghi tính khách quan của tri thức hiện tồn trong những điều kiện mới. Từ sự hồi
nghi đó, họ đã đi đến chỗ "xét lại" các quan niệm cơ bản của khoa học. Mức độ phức
tạp của các thời kỳ như vậy, xét từ giác độ triết học là ở chỗ, tri thức cũ đối với các nhà
khoa học là cái đã được khách quan hố, và do đó, đã trở thành thế giới quan của họ,
đem lại cho họ quan niệm về thế giới tự thân.
Khẳng định điều đó khi vạch rõ thực chất của cuộc khủng hoảng trong vật lý học đầu
thế kỷ XX, V.I.Lênin đã nhận xét rằng "Vật lý học cũ coi lý luận của mình là sự nhận
thức thực tại về thế giới vật chất" tức là sự phản ánh thực tại khách quan. Trào lưu mới

trong vật lý học coi lý luận chỉ là những tượng trưng, những dấu hiệu, ký hiệu có ích
trong thực tiễn, tức là phủ nhận sự tồn tại của thực tại khách quan độc lập đối với ý
thức của chúng ta và do ý thức của chúng ta phản ánh.
Xét từ góc độ nhận thức luận duy vật biện chứng thì sự đảo lộn mang tính bước ngoặt
trong các khái niệm cũ đã cho thấy rằng, các khái niệm hiện có đã trở nên khơng cịn
phù hợp với nội dung của các mối quan hệ mới được phát hiện ra trong hiện thực và do
vậy, cần phải xây dựng một quan niệm mới về thế giới phù hợp với các quan hệ mới
ấy. Vấn đề là ở chỗ thực tại khách quan không được người quan sát nhận thức với mọi
biểu hiện hiện có và có thể có của nó. Ngồi ra, các quan hệ khách quan được quan
niệm là bản chất ở các giai đoạn nhận thức trước đó, khi tiếp tục nghiên cứu thì hố ra
lại chỉ là những biểu hiện của cùng một bản chất, nhưng ở mức độ sâu sắc hơn. Nói về
vấn đề nằy, V.I.Lênin khẳng định: "Thực chất" của sự vật hay “thực thể" cũng đều là
tương đối, chúng chỉ biểu hiện mức độ sâu sắc của nhận thức của con người về khách
thể và nếu như mức độ sâu sắc đó hơm qua chưa vượt quá nguyên tử và hôm nay chưa
vượt quá điện tử và trường, thì CNDV biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm thời, tương
đối, gần đúng của tất cả những cái mốc đó của sự nhận thức thế giới tự nhiên bởi khoa
học ngày càng tiến triển của con người .
Các nhà khoa học không đứng trên lập trường duy vật tự giác và không nắm bắt được
phương pháp tư duy biện chứng đã phạm phải một sai lầm căn bản trước sự đảo lộn
mang tính bước ngoặt trong các khái niệm cơ bản của vật lý học. Sai lầm là ở chỗ, hệ
thống tri thức đã được hình thành ở họ với tư cách là quan niệm về thế giới, nên khi
buộc phải từ bỏ nó, họ đã từ bỏ ln cả những quan niệm cũ. Và khi chưa có được một
quan niệm mới về thế giới, đứng trước nhu cầu bức thiết phải xây dựng hệ thống khái
niệm mới trong khi vẫn luôn coi "bản chất" của các sự vật là tuyệt đối và bất biến, họ
đã đi đến chỗ kết luận rằng các khái niệm chỉ là những dấu hiệu được sử dụng cho
riêng thực tiễn. Còn khi buộc phải từ bỏ hoàn toàn quan niệm cũ về thế giới, trong lúc
vẫn coi nó là duy nhất có thể có, họ đã đi đến kết luận rằng: khoa học đang phủ định
thế giới với tư cách là một thực tại khách quan.
Triết học duy tâm ln tìm cách bác bỏ CNDV bằng luận điểm cho rằng dường như
khoa học tự nhiên cổ điển với tư cách là chỗ dựa vững chắc của CNDV đang bị sụp

đổ. Luận điểm đó ít nhiều đã đứng đối với CNDV siêu hình thế kỷ XVIII - CNDV
được hình thành trên nền tảng của bức tranh cơ học về giới tự nhiên. Nhưng luận điểm
đó là hết sức sai lầm đối với CNDV biện chứng CNDV hồn tồn khơng gắn liền với

18


việc khăng khăng thừa nhận bức tranh cơ học, điện từ hay một bức tranh vơ cùng phức
tạp nào đó về giới tự nhiên. Khi gần đúng, tương đối, trong tự nhiên khơng hề có
những đường ranh giới nào tuyệt đối, vật chất đang vận động sẽ chuyển hoá từ một
trạng thái này sang một trạng thái khác mà theo quan điểm của chúng ta thì dường như
khơng hể điều hoà được với trạng thái trước…
Sự phát triển của vật lý học thế kỷ XX đã xác nhận những đánh giá của V.I.Lênin về
cuộc cách mạng trong khoa họe tự nhiên là hoàn toàn đúng đắn. Cuộc khủng hoảng
của vật lý học và khoa học tự nhiên cổ điển hoàn tồn khơng dẫn tới sự bác bỏ CNDV
và hình thức cao nhất của nó là CNDV biện chứng, khơng hề chứng minh cho sự "tiêu
tan" của vật chất và các đặc tính cơ bản của nó là vận động, khơng gian, thời gian.
Ngược lại, lối thốt khỏi khủng hoảng đó, xét trên bình diện triết học, lại xuất hiện
ngay trên con đường mà các nhà khoa học tự giác nắm bắt phép biện chứng duy vật
với tư cách là phương pháp tư duy duy nhất đúng đắn. Xét trên bình diện khoa học tự
nhiên, việc khắc phục cuộc khủng hoảng đó tất dẫn tới việc xây dựng một hệ thống tri
thức vật lý mới: vật lý học lượng tử - tương đối. Vật lý học lượng tử - tương đối đó đã
xác nhận tính tương đối và giới hạn vận dụng của vật lý học cổ điển và khẳng định
tính đúng đắn trong những phát hiện mới của khoa học hiện đại, chẳng hạn, về tính có
thể phân chia được của nguyên tử.
Cơ sở của hệ thống tri thức vật lý học hiện đại là cơ học lượng tử và thuyết tương đối.
Hiện nay, cả cơ học lượng tử lẫn thuyết tương đối đều đã tham dự một cách tích cục
vào việc hình thành phương pháp tư duy khoa học mới và được xem là cơ sở đáng tin
cậy đã được thực tiễn hoạt động khoa học kiểm nghiệm. Việc đối chiếu hệ thống tri
thức lượng tử - tương đối luận với hiện thực đạt được trong hoạt động nghiên cứu khoa

học đã dẫn tới sự hình thành quan niệm lượng tử - tương đối luận về thế giới. Và quan
niệm đó đã thâm nhập vào các lĩnh vực tri thức đa dạng của con người: sinh học (sinh
học lượng tử), y học (khám chữa bệnh bằng tia phóng xạ), thiên văn học (vật lý - thiên
văn học năng lượng lớn…).
Ở một bộ phận khác các nhà khoa học, những người sử dụng thành công các quan
niệm lượng tử - tương đối luận để giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm đang hình
thành niềm tin cho rằng, hệ thống tri thức vật lý học đó, sau khi khắc phục những sai
lầm và sự lý tưởng hoá của vật lý học cổ điển, là hoàn toàn xứng đáng và đáng được
hồn thiện. Họ coi đó là mục đích tối hậu của nhận thức vật lý học, chứ không phải là
một trong các bậc thang của nó. Biểu hiện đầy đủ và rõ ràng lập trường đó là quan
niệm về "sự cáo chung của khoa học vật lý". Lập trường này thể hiện một cách ít lộ
liễu hơn khi người ta ngoại suy các quan niệm lượng tử - tương đối luận hiện đai vào
các khoảng không - thời gian cực nhỏ".
Đồng thời, nói một cách có hình ảnh, ở vùng chân trời của nhận thức khoa học hiện
đại nơi được điểm tô bởi mầu sắc thuần tuý lượng tử - tương đối luận, đang xuất hiện
một số vật thể rất giống với các "đám mây đen ảm đảm" che phủ khoa học tự nhiên
đầu thế kỷ XX mà rốt cuộc đã gây ra cuộc khủng hoảng khoa học tự nhiên cổ điển.
Một trong số chúng đang biến dần từ điểm tựa vững chắc cho các quan điểm lượng tử
- tương đối luận thành "thao trường" để thử nghiệm các tư tưởng đầy "tính cấp tiến" so
với chúng đó là vật lý họe các hạt cơ bản.

19


Khơng đặt ra mục đích phân tích một cách cặn kẽ tình huống đang hình thành và chưa
định hình đó, chúng tơi chỉ đề cập tới hai yếu tố có nhiều điểm chung với một số đặc
điểm cơ bản của cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Các yếu tố đó là sự tiến hoá ở một mức độ nhất định trong thái độ đối với hệ
thống tri thức hiện có và khả năng hình thành một quan niệm mới về hiện thực.
Chúng ta hãy dừng lại ở yếu tố thứ nhất. Có thể phân biệt một cách ước lệ ba giai đoạn

trong tiến trình của vật lý học các hạt cơ bản. Ở giai đoạn thứ nhất, các quan niệm
lượng tử - tương đối luận được khẳng định vô tư cách là cơ sở lý luận để giải thích và
mơ tả các quy luật, các thuộc tính của các hạt cơ bản. Đặc trưng cho giai đoạn thứ hai
là sự ngoại suy các quan niệm đó và mọi quy luật mang tính chất kinh nghiệm được
phát hiện ra trong thế giới bên trong của hạt nhân nguyên tứ. Hệ thống tri thức trước
đó - vật lý hạc cổ điển - được giả định về nguyên tắc không thể áp dụng được vào lĩnh
vực này. Khi đó, người ta phải tìm kiếm một hình thức tổng hợp các quan niệm lượng
tứ - tương đối luận khơng có mâu thuẫn nội tại và phù hợp với những đòi hỏi của vật
lý học các hạt cơ bản sau khi đã xuất hiện các biến thể khác nhau của thuyết trường
lượng tử - tương đối luận. Sự mở đầu của giai đoạn thứ ba (kéo dài cho tới nay), gắn
liền với việc phát hiện ra những thuộc tính một trong cấu trúc nội tại của các hạt cơ
bản mà để giải thích chúng thì hình thức hiện tồn của các hệ thống lượng tử - tương
đối luận chỉ được sử dụng với tư cách là cơ sở để mô tả về chất. Trong suốt giai đoạn
này đã và đang xuất hiện các cách tiếp cận khác nhau, đối lập nhau nhằm phát triển và
bổ sung cho các quan niệm lượng tử,- tương đối luận đã trở nên hiển nhiên đối với vật
lý học vi mô.
Mỗi một giai đoạn đó đều được đặc trưng bởi thái độ đặc biệt của các nhà khoa học
đối với các nguyên lý lượng tử - tương đối luận. Thời gian ra đời của cơ học lượng tử
là vào những năm 30 của thế kỷ này. Ngay sau khi xuất hiện, học thuyết này đã bắt đầu
"cuộc diễu binh " thắng lợi trong lĩnh vực vật lý học nguyên tử. Nó đã góp phần đắc
lực vào việc giải quyết các nhiệm vụ vốn vẫn được coi là vật cản đối với vật lý học cổ
điển. Các nhà sáng lập ra lý thuyết lượng tử khơng hề hồi nghi sự thích ứng củanó đối
với các nhiệm vụ của vật lý học vi mơ. Nó trở thành một trong các "thao trường" mà ở
đó, đang diễn ra q trình tiếp tục hồn thiện và phát triển cơ học lượng tứ. Mọi quy
luật của thế giới các hạt cơ bản đều được giải thích hồn tồn bằng ngơn ngữ của cơ
học lượng tử.
Nhiệm vụ phối hợp việc mô tả theo cơ học lượng tử sự vận động của các khách thể vi
mô với các nguyên lý của thuyết tương đối hẹp đã được giải quyết bằng cách xây dựng
phương án đầu tiên của cơ học lượng tử - tương đối luận - phương án được coi là có
khả năng tiên đốn sự tồn tại của các phản hạt. Việc sử dụng thành công các quan niệm

lượng tử - tương đối luận trong vật lý học các hạt cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà khoa học đang tiến hành lý giải cơ học lượng tử và sau đó là lý thuyết trường
lượng tử với tư cách là nguyên mẫu của lý thuyết các hạt cơ bản trong tương lai. Các
nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học mới mẻ này đều cho rằng trong các nguyên lý
của cơ học lượng tử và của thuyết tương đối đã hàm chứa các nguyên lý cơ bản của
một lý thuyết tương lai. Do vậy, hệ vấn đề có liên quan tới lý thuyết đó cần được nhìn
nhận dưới ánh sáng của việc hợp nhất các nguyên lý đó lại với nhau và trên cơ sở tìm

20


kiếm các phương thức vận dụng các nguyên lý đó vào vật lý học vi mô bằng con
đường xây dựng các mơ hình cấu tạo của các hạt cơ bản căn cứ trên các nguyên lý đó.
Giai đoạn giải quyết phần thứ nhất của hệ vấn đề đó là xây dựng các biến thể khác
nhau của lý thuyết trường lượng tử - tương đối luận mà mỗi một biến thể đó đều nhằm
loại bỏ các nghịch lý đã được phát hiện ra khi xây dựng biến thể trước. Rốt cuộc chúng
ta có thể tạo nên một sự hợp nhất phi mâu thuẫn các nguyên lý chung của cơ học
lượng tử và thuyết tương đối dưới hình thức lý thuyết trường lượng tử mang tính tiên
đề. Tuy nhiên, phương án đó dường như quá trừu tượng, tới mức vào đầu những năm
70, với phương án này, người ta khơng tìm ra được các phương pháp mô tả những
tương tác hiện thực giữa các hạt cơ bản.
Việc thực hiện phần thứ hai của hệ vấn đề xây dựng lý thuyết trong tương lai đã đem
lại vơ số mơ hình cấu trúc của các hạt cơ bản và sự tương tác giữa chúng. Theo mức độ
tích luỹ các dữ kiện thực nghiệm mới, thì phương án này lại dường như khá chật hẹp
và hạn chế, xét từ lĩnh vực vận dụng. Với toàn bộ sự khác nhau của chúng, các mơ
hình đó vẫn có một điểm chung là quan niệm về trường lượng tử - tương đối luận được
xem là cơ sở duy nhất có thể có để hình thành một lý thuyết tương lai.
Tuy nhiên, cái đặc trưng cho quan niệm hiện đại về các vấn đề lý luận cơ bản trong
việc phát triển vật lý học thế giới vi mơ chính là sự thiếu vắng một quan điểm được
mọi người thừa nhận, đủ để giải thích tồn bộ thế giới bên trong của hạt nhân nguyên

tử. Người ta đã đưa ra các cách tiếp cận lý luận khác nhau mà mỗi cách tiếp cận đó đều
phù hợp với quan niệm của nó về cấu trúc của các hạt cơ bản và phương pháp mơ tả
các thuộc tính của chúng. Cần lưu ý rằng, nếu trước đây vấn đề hoàn toàn là ở việc vận
dụng các nguyên lý lượng tứ - tương đối luận, thì giờ đây, người ta thường tỏ ra hết
sức thận trọng khi đặt ra vấn đề xem xét lại và bổ sung các nguyên lý đó Một bộ phận
các nhà vật lý học cho rằng việc xây dựng một lý thuyết tương lai về các hạt cơ bản
đòi hỏi phải cải biến các nguyên lý cơ bản (cơ sở nền tảng của các lý thuyết vật lý
học), sử dụng các quan niệm mới về cấu trúc không - thời gian và về thục chất của sự
tương tác giữa các hạt cơ bản.
Nguyên nhân chủ yếu của sự đảo lộn như vậy trong quan niệm về hệ vấn đề có liên
quan tới việc xây dựng lý thuyết các hạt cơ bản và về vai trò của các nguyên lý lượng
tử - tương đối luận là do việc nghiên cứu các quy luật quang phổ của các hạt cơ bản.
Việc nghiên cứu này đã dẫn tới những quan niệm khác nhau về vấn đề hệ thống hoá
các hạt cơ bản. Việc vạch ra các quy luật ấy trên cơ sở cơ học lượng tử - tương đối
luận dưới dạng “thuần t" của nó dường như là khơng thể thực hiện được. Tuy nhiên,
những thành tựu đã đạt được theo khuynh hướng đó ln gắn liền với sự xuất hiện các
quan điểm, có thể nói, là mới mẻ: sự đối xứng của tương tác mạnh, ma trận phân tích
sự khuếch tán. Sự xuất hiện những quan điểm mới mẻ ấy là một bằng chứng cho thấy
hồn tồn có thể xây dựng một lý thuyết trường lượng tử chuẩn mực có tham vọng
đóng vai trị là lý thuyết các hạt cơ bản.
Một bước ngoặt, có thể nói như vậy, đã xuất hiện trong tiến trình phát triển quan điểm
của vật lý học các hạt cơ bản. Nếu trước đây việc "chữa trị" những căn bệnh vốn có
của nó được quan niệm là hồn tồn có thể nhờ hồn thiện các quan niệm lượng tử -

21


tương đối luận và tìm kiếm các phương pháp độc đáo để vận dụng chúng, thì giờ đây,
người ta cịn song song sử dụng các tư tưởng mới, các tư tưởng xuất hiện khi nghiên
cứu các mối quan hệ sâu xa hơn của thế giới vi mô. Các mối quan hệ đó được lý giải là

cơ sở kinh nghiệm để làm nảy sinh ra những tư tưởng mới và theo một nghĩa nhất định
- khơng địi hỏi một sự lý giải riêng nào đó của cơ học lượng tử và thuyết tương đối.
Đồng thời, các xu hướng hiện tồn trong việc phát triển các khái niệm của vật lý học vi
mô không chỉ dừng lại ở việc giả định sự tồn tại của các khái niệm và các tư tưởng bổ
sung cho các khái niệm lượng tử - tương đối luận. Điều đáng quan tâm ở đây còn là
việc đề xuất các tiêu chuẩn mới để đánh giá cấu được sau khi mơ tả các thuộc tính có
sự tác trúc của thuyết tương lai và cấu trúc của những mô tả vật lý học lý thuyết nói
chung. Mọi ngơn ngữ mô tả quen thuộc đối với các lý thuyết vật lý học đều dựa trên sự
.định vị các thuộc tính vận động của khách thể nghiên cứu và biểu thị chúng bằng các
chương trình khác nhau về vận động. Tuy nhiên, các ngơn ngữ này lại trở nên ít hữu
hiệu khi mô tả những tương tác mạnh giữa các hạt cơ bản, điều này kéo theo khuynh
hướng tái định hướng mục đích và nhiệm vụ của những mơ tả lý thuyết.

2.4. Giải pháp khắc phục:
3. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình Triết học Mác Lênin trang 57

2. />fbclid=IwAR1gJkcoph5A8cVonfbimdVpSst7Kf9Zzjv_kkxVM4984Hveym0Lp
R6wC-Y
3. />
22


23



×