Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.71 KB, 26 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Trên phạm vi toàn thế giới, trong khu vực và ở nước ta hiện nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là giai đoạn phát triển tất yếu mà
mỗi quốc gia sớm hay muộn đều phải trải qua, là hiện tượng có tính quy luật
phổ biến trong tiến trình vận động và phát triển của các nước, nhất là đối với
những quốc gia đang phát triển muốn vươn lên thành nước có trình độ phát
triển cao. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đặc biệt là đối với nước ta, tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: công nghiệp hóa là nhiêm
vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đến nay, nhiệm
vụ đó vẫn được coi là nhiệm vụ trọng tâm khi chúng ta đã bước sang giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong phát triển kinh tế
xã hội nói chung và trong quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Tri thức và tri thức khoa học có vai trò cưc kỳ to lớn trong đời sống xã
hội cũng như trong hoạt động kinh tế của loài người. Đồng thời chúng cũng
có ảnh hưởng sâu rộng tới quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất, chúng tác động tới nguồn nhân
lực, yếu tố quan trọng nhất của mọi hoạt động. Thứ hai, ứng dụng tri thức và
tri thức khoa học trong kinh tế tạo ra nền kinh tế tri thức. Quá trình công
nghiệp hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và toàn cầu
hóa đạt ra yêu cầu mới đối với người Việt Nam. Đó là phải không ngừng
học tập sáng tạo và vận dụng những tri thức có được vào thực tiễn hoạt
động, thực tiễn phát triển kinh tế. Đồng thời đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đối với
Đảng và Chính phủ trong hoạch định chính sách, góp phần tạo điều kiện tốt
nhất để quá trình công nghiệp hóa của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tri thức và tri thức khoa học đối
với quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa


ở Việt Nam” có ý nghĩa rất to lớn. Giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng
của tri thức và tri thức khoa học, từ đó đề ra những lý luận, những phương
hướng, biện pháp trong việc ứng dụng chúng vào thực tiễn hoạt động, qua
đó hoạt động trong thực tế ngày càng có hiệu quả hơn.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Luận giải vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong thực
tiễn phát triển kinh tế, xã hội.
1.1 Khái niệm về tri thức và tri thức khoa học.
Khi luận bàn về một sự vật, hiện tượng trước hết chúng ta phải
xác định một định nghĩa cho nó. Vậy Tri thức và Tri thức khoa học là
gì?
"Tri thức" có vai trò như là một từ của một ngôn ngữ, đồng thời,
"Tri thức" cũng có vai trò là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các
mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.
Dưới phương diện là một từ của một ngôn ngữ, "Tri thức" có thể được
hiểu một các rất dễ dàng bằng cách dở một cuốn từ điển ngôn ngữ bất
kỳ ra, và đọc mục từ "Tri thức" ở trong đó. “Từ điển tiếng Việt” viện
ngôn ngữ học định nghĩa: “Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về
sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội”(Nhà xuất bản Đà Nẵng- Trung
tâm từ điển học- Hà Nội- Đà Nẵng- 2000), hoặc “Tri thức là những
điều hiểu biết do từng trải và học tập mà thu được”(Nhà xuất bản văn
hóa thông tin, Hà Nội 1999). Nói tóm lại, "Tri thức" nhìn dưới góc độ
ngôn ngữ học là một khái niệm rõ ràng và dễ hiểu.
Dưới phương diện là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các
mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, Tri thức có ý nghĩa
Triết học của nó. Tri thức và các yếu tố khác như: tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí… tạo thành kết cấu theo chiều ngang của ý thức. Trong đó tri
thức là yểu tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả của quá trình nhận
thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng

dưới hinh thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác (trích theo
Giáo trình triết học Mác- LêNin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia). Tri
thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường, tri thức
khoa học. Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng
ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp bề ngoài và rời
rạc. Đối ngược với nó là tri thức khoa học, tri thức khoa học phản ánh
trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực (trích theo
Giáo trình triết học Mác- LêNin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
Người ta chia tri thức khoa học thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận.
Việc hiểu được định nghĩa của tri thức nói chung và tri thức khoa
học nói riêng, chúng ta có thêm nhiều cơ sở cho việc phân tích vai trò
của chúng đối với đời sống xã hội, phát triển kinh tế đối với thế giới
nói chung và quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng.
1.2 Tri thức và tri thức khoa học đối với đời sống xã hội.
Chúng ta đều biêt rằng tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp
phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử phát triển của văn
minh nhân loại. Mặc dù những câu hỏi có tính triết học về bản chất của
tri thức, về quá trình hình thành tri thức, về quan hệ giữa vật chất và trí
tuệ Vẫn không ngừng được tranh luận và chưa có được câu trả lời
thoả đáng, nhưng trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh tế, văn
hoá, tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát hiện, và tác động ngày càng
lớn đến sự phát triển xã hội loài người.
Tri thức nảy sinh gắn liền với nền văn minh loài người, con người
ngày càng nhận thức sâu sắc hơn nội hàm mới của tri thức và không
ngừng sáng tạo ra tri thức mới, dần dần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống tri thức mới:
+ Kỷ nguyên: Người nguyên thuỷ, sinh hoạt mông muội.
1.500.000 - 200.000 BCE ? Con người đi thẳng và có khả năng bắt

chước.
100.000 BCE: Tiếng nói của loài người cổ xưa.
40.000 - 20.000 BCE: Những bức hoạ trong hang động.
4000 BCE - 1400 CE: Sự phát triển của chữ viết.
+ Thời đại của các phương tiện truyền thông và máy phát sóng.
1450: Công việc in ấn được hình thành.
1750-???: Cách mạng công nghiệp nổ ra.
1800: Máy in dùng năng lượng hơi nước xuất hiện.
1930: Đài phát thanh ra đời.
1955-1960: Xuất hiện vô tuyến truyền hình.
1980-1990: Sự phổ biến rộng rãi của các máy tính cá nhân và các
trạm phát sóng.
1994-1999: Web mô phỏng Thế giới rộng lớn.
+ Thời đại chúng ta.
1999-2005: Web có mặt ở khắp mọi nơi. (Trích theo bài Sự phát
triển của nhân loại trong quan hệ với tri thức – tạp chí triết học số ra
ngày 28 tháng 9 năm 2004).
Lịch sử văn minh của loài người cũng xưa cổ như chính lịch sử
loài người. Nhờ có quá trình lĩnh hội, tích lũy, sử dụng và truyền thụ tri
thức đã làm cho con người vượt lên trên muôn loài, đứng ở đỉnh cao
của bậc thang tiến hóa, đồng thời tạo ra cơ chế di truyền mới: di truyền
xã hội giúp con người vượt khỏi giới hạn tuổi trời cho tạo đà cho những
thế hệ tiếp theo, trở thành một nhân loại vĩnh viễn sinh tồn. Nhà triết
học nổi tiếng người Anh đã nói rằng: “Giả dụ nhân loại bị một tai nạn
khủng khiếp nào đó, toàn bộ khoa học kỹ thuật của hình thái vật chất
đều bị tiêu hủy sạch, chỉ còn lại hệ thống tri thức của hình thái tinh thần
như thư viện chẳng hạn, với khả năng học tập của con người thì sau
một quá trình phấn đấu gian khổ con người lại vẫn có thể tái tạo văn
minh, tiếp tục tiến lên ở một trình độ khá cao” (Trích theo Hành trang
thời đại kinh tế tri thức – Nhà xuất bản giao thông vận tải). Những tiến

độ nhanh chóng dồn dập của công nghệ thông tin và truyền thông đã
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đưa hoạt động tri thức về gần với cuộc
sống hàng ngày. Ngày nay, chúng ta càng ngày càng thấy rõ rằng trong
cuộc sống thường nhật, trong việc quản lý, kinh doanh, làm ăn hàng
ngày chúng ta cũng rất cần có thêm những tri thức, có thể có ý nghĩa
phổ biến hẹp hơn, có mức độ chính xác thấp hơn, có đời sống ngắn
hơn nhưng lại đáp ứng trực tiếp hơn các yêu cầu giải quyết công việc
của con người.
Hoạt động nhận thức của con người bao gồm việc tìm kiềm tri
thức để tăng cường hiểu biết về tự nhiên, xã hội và cuộc sống, đồng
thời sử dụng các tri thức có được để tạo nên các kỹ thuật, công nghệ và
giải pháp nhằm không ngừng cải thiện cuộc sống của mình. Trải qua
nhiều thế kỷ tích luỹ, và ngày nay có thêm sự trợ giúp đắc lực của
công nghệ thông tin, chúng ta đã có khả năng sử dụng rộng rãi tri thức
trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Và dĩ nhiên, con người không chỉ
thụ động sử dụng những tri thức đã tìm kiếm được, mà càng ngày càng
chủ động tìm kiếm, thu thập thêm nhiều tri thức cho hoạt động của
mình. Điều đó đã đặt ra những yêu cầu mới đối với con người trong
thời đại mới, thời đại của nền kinh tế tri thức, với bối cảnh toàn cầu hóa
tạo ra môi trường kinh tế xã hội thường xuyên biến đổi, liên tục thay
đổi.
Tri thức, có thể nói, là bộ phận quan trọng nhất của văn hoá. Tri
thức bao trùm nhiều lĩnh vực: lao động sản xuất (công, nông nghiệp),
chính trị, giáo dục, văn học, nghệ thuật, y tế, xây dựng, luật pháp, giao
thông, giao tiếp, chinh phục thiên nhiên, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
Đó là những hiểu biết khoa học, những kinh nghiệm và sự khôn ngoan
mà con người tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh
và thích ứng với thiên nhiên cũng như với xã hội nhằm duy trì và phát
triển cuộc sống của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng người trong quá
trình lịch sử. Trong thời đại ngày nay, tri thức còn quan trọng hơn bao

giờ hết. Nó đang dần dần trở thành lực lượng lao động trực tiếp quan
trọng nhất. Điều đó dẫn đến những thay đổi lớn lao không chỉ trong
quản lý và sản xuất kinh doanh, mà còn làm đảo lộn cuộc sống con
người, thay đổi các quan niệm, các thói quen, các thước đo giá trị. Báo
chí đang nói rất nhiều về một nền kinh tế tri thức, nhưng như vậy chưa
đủ. Ngày nay, đã đến lúc phải nói đến một xã hội tri thức, trong đó tri
thức sẽ quyết định các thước đo giá trị không chỉ của mỗi cá nhân mà
còn của cả một dân tộc. Tất nhiên, tri thức chỉ có thể trở thành một bộ
phận của văn hoá nếu như nó định hướng và được định hướng cho các
ứng xử của con người và cộng đồng người. Tri thức từ các qui luật phổ
biến có thể cho ta các định hướng vĩ mô, nhưng không phải lúc nào
cũng có thể giúp ta lấy những quyết định cụ thể hàng ngày. Mà cuộc
sống “vi mô” cụ thể không còn là thuận lợi cho cơ quan, doanh nghiệp
phải có khả năng thường xuyên tự tổ chức và tổ chức lại. Và cơ sở quan
trọng cho những khả năng đó là một tiềm lực tri thức phong phú, và
một năng lực xử lý tri thức nhạy bén, linh hoạt. Đẩy mạnh việc ứng
dụng có hiều quả những thành tựu to lớn của công nghệ thông tin hiện
đại, và phát huy mọi năng lực trí tuệ hướng tới sáng tạo và đổi mới của
con người là hai nhân tố chủ chốt tạo nên năng lực cần thiết cho đất
nước đi tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lai. Toàn
bộ tri thức đều có mục tiêu là quay trở lại thực tiễn và tích cực tác động
đến sự phát triển của thực tiễn. Nhiệm vụ của con người không những
phải nhận thức mà còn phải biết sử dụng tri thức và tri thức khoa học
coi đó là kim chỉ nam cho hành động nhằm cải tạo thế giới đáp ứng
toàn diện nhu cầu vật chất của cuộc sống con người. Điều đó đòi hỏi
con người với tư cách là con người khao khát tri thức cần ra sức phấn
đấu trở thành người khai sáng tri thức mới, biết cách làm cho những tri
thức trước kia có được nội dung và hình thức mới. Con người dám gạt
bỏ những tri thức đã lỗi thời, tiếp thu có phê phán những tri thức đã có,
tìm mọi cách tiếp cận những tri thức mới. Để làm được điều này con

người phải biết học tập không ngừng nghỉ, học tập suốt đời.
1.3 Tri thức và tri thức khoa học trong kinh tế.
Tri thức với hệ thống “tri thức lớn” lấy khoa học kỹ thuật và văn
hóa làm chủ thể, đã giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của
nền văn minh xã hội loài người. Trong khoảng 50 năm trở lại đây,
những phát minh khoa học kỹ thuật và những tri thức về văn hóa tư
tưởng do loài người sáng tạo ra còn nhiều hơn những kết quả mà loài
người đã đạt được trong khoảng 3000 năm trở về trước. Lượng tri thức
tăng như vũ bão. Cuộc cách mạng công nghiệp và nền văn minh công
nghiệp 200 năm trước đã làm sức sản xuất tăng 100 lần, vậy mà vi điện
tử, kỹ thuật, vi tuần hoàn, vi mạch chỉ trong vòng 200 năm trở lại đây
đã làm cho sức sản xuất tăng 1 triệu lần. Trong sự tăng trưởng nhanh
tổng sản phẩm quốc dân toàn cầu, thành phần tri thức tăng 5% đầu thế
kỷ XX lên 80-90% đầu thế kỷ XXI, và tri thức trở thành nguồn của cải
chính của xã hội và là động lực chủ yếu của văn minh. Do sức sản xuất
của tri thức ở thế kỷ XX phát triển cực mau lẹ, tổng sản phẩm quốc dân
toàn cầu tăng 19 lần. Tri thức đã biến không thành có, tạo nên sự tiến
bộ của xã hội loài người.Ngay từ thế kỷ XVI, nhà triết học nổi tiếng
người Anh: F.Bacon đã đề xuất: “tri thức là sức mạnh”. Đến cuối thời
kỳ kinh tế nông nghiệp, Bacon đã gắn liền tri thức với yếu tố đầu tiên
của nền kinh tế nông nghiệp và sức lao động, qua đó ông xây dựng vai
trò của tri thức trong nền kinh tế nông nghiệp. Rồi 200 năm sau đó, vào
cuối thế kỷ XVIII, Adam Smith, người đặt nền móng mới cho nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa, trong tác phẩm tiến bộ của mình “nghiên cứu về
tính chất và tài phú quốc dân – 1776” ( theo Hành trang thời đại kinh tế
thị trường- Nhà xuất bản Giao thông vận tải) Adam Smith đã gắn liền
tri thức với yếu tố đầu tiên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Năm
1881, Taylor cha đẻ của quản lý học, lần đầu tiên vận dụng tri thức
trong phân tích kinh tế và thiết kế lao động, sáng lập ra “hệ thống
Taylor” nổi tiếng, vận dụng tri thức vào phân tích và tổ chức lao động

chân tay, thông qua đào tạo làm cho công nhân làm việc kiểu máy móc
một cách khoa học. Thành công của Nhật, Hàn và châu Á sau chiến
tranh thế giới thứ II là do cách đào tạo như thế. Lịch sử tiến sâu vào
nửa sau thế kỷ XX, bản thân tri thức thực sự được xem là tài nguyên cá
nhân, tài nguyên kinh tế chủ chốt. Tri thức là nguồn tài nguyên có ý
nghĩa sâu xa duy nhất. Chỉ cần có tri thức là có thể vận dụng tri thức để
thu được những yếu tố sản xuất đã bị liệt vào hàng thư hai như đất, sức
lao động, nguồn vốn… Như vậy, tri thức không chỉ là sức mạnh, không
chỉ là tư bản mà còn là yếu tố sản xuất đầu tiên, vượt lên trên sức lao
động và tư bản. Chúng ta đang dần thoát ly khỏi thời đại văn minh công
nghiệp tiến vào thời đại của văn minh kinh tế tri thức. Vậy kinh tế tri
thức là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp nhận nhất
hiện nay là định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đưa ra
năm 1995: kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất luợng cuộc sống (trích theo Giáo
trình kinh tế chính trị Mác- Lênin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
trang 290). Trong nền kinh tế tri thức, những ngành dựa vào tri thức,
dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ có tác
động to lớn ví dụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học …nhưng
cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp,
công nghiệp được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Từ chỗ chiếm
một tỷ trọng rất không đáng kể ớ các thời kỳ tiền cách mạng công
nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm
có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết
tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối
với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp
chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm. Trong nền kinh tế tri thức,
tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong lực lượng
sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp

nào nắm được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản
phẩm mới sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Thí
dụ: Nhờ luôn tạo ra các bộ vi xử lý trước một thế hệ, lợi nhuận của
hãng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đổi
luôn như vậy lợi nhuận của hãng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm
1994. Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh
tế ngày càng lớn. Do vai trò và vị trí ngày càng lớn của tri thức trong
nền kinh tế, do thông tin và tri thức ngày càng trở thành nguồn lực phát
triển kinh tế chủ yếu, nên cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất
có những thay đổi rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào việc sản
xuất tri thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP,
trong đó, chi phí cho giáo đục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều
giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra. Trên thế giới, ở các nước thuộc
tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế các ngành kinh tế tri thức đã đóng
góp trên 50% GDP( Mỹ: 55,3%, Nhật Bản: 53% ). Như vậy, việc ứng
dụng tri thức và tri thức khoa học vào trong phát triển kinh tế, xã hội
tạo nên một nền kinh tế tri thức mà sản phẩm được sản xuất dựa trên
thành tựu mới của khoa học công nghệ, dựa trên những tri thức mà con
người đã đạt đuợc ngày càng phong phú, đáp ứng tốt hơn những yêu
cầu về vật chất cũng như tinh thần của con người, làm cho đời sống của
xã hội loài người biến chuyển sâu sắc. Nhưng bên cạnh đó, tri thức và
tri thức khoa học cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế mà
biểu hiện cụ thế là những mặt trái của nền kinh tế tri thức gắn liền với
vấn đề toàn cầu hóa kinh tế: Khoảng cách giữa nước nghèo nhất và
nước giàu nhất về thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và chất lượng cuộc sống
đã ngày một rộng hơn trong quá trình phát triển của nền kinh tế tri thức.
20% dân số thế giới hiện đang sống ở những nước có thu nhập cao nhất
(hưởng 86% GDP, 82% thị trường xuất khẩu hàng hoá và địch vụ, 68%
đầu tư từ nước ngoài trực tiếp, 93,3% mạng lưới viễn thông toàn cầu).
Trong khi đó, 20% dân số là những người nghèo khó của thế giới chỉ

được hưởng chưa đầy 1% thành quả trên. Riêng về thu nhập, khoảng
cách giữa 1/5 số người giàu nhất và 1/5 số người nghèo nhất tăng từ 30
lần (thập niên 60) lên 74 lần (thập niên 60). Từ thực tiễn ấy vấn đề đặt
ra đối với mỗi quốc gia là phải có những chính sách và biện pháp phù
hợp để phát huy tối đa vai trò, vị trí của tri thức và tri thức khoa học
trong kinh tế và trong đời sống xã hội, đồng thời khắc phục những mặt
hạn chế còn tồn tại.
2. Vận dụng tri thức và tri thức khoa học trong quá trình phát
triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam.
2.1 Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng( 1/1994), vấn đề công nghiệp hóa gắn kết với hiện đại hóa chính
thức được nêu ra.Vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Tại Hội nghị
Ban chấp hành Trung uơng lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội
cao (trích theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, trang 282).
2.2Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (7/1994) đã cụ thể hóa bước
đầu ý tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đến hình thành đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu và các chủ trương
phát triển cùng các chính sách và biện pháp thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đại hội VIII (1996) đã khẳng định những yếu tố cơ bản về
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam dựa trên chủ

trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và đưa ra mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đại hội IX (2001) đã bổ sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn chỉnh đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hình thành phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đến 2010,
trong đó bao hàm phần chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai
đoạn 2001- 2010; đề ra nhiệm vụ “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Các
quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được thông qua có ý
nghĩa quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
2.2.1 Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ nên nước ta phải tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội là tất yếu khách quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
cần phải xây dựng trên những cơ sở của khoa học công nghệ tiên tiến
nhất, có như vậy mới tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Do đó công
nghiệp hóa là tất yếu khách quan đối với các nước đi từ nền kinh tế sản
xuất nhỏ lên xây dựng nền kinh tế sản xuất lớn trong đó có nước ta.
2.2.2 Thực chất, mục tiêu chủ yếu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
• Trong bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta hiện nay, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa về thực chất là: “quá trình chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao” ( trích theo: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn

kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương khóa VII,
Hà Nội 1994).
• Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội
lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần
thứ X là: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển…
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế
tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.( trích theo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006).
2.2.3 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình
thực hiện.
• Thuận lợi:
- Thứ nhất: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
được tiến hành muộn.
- Thứ hai: trong quá trình tiến hành, Việt Nam có thể tranh thủ cơ
hội đi tắt, đón đầu bằng việc nhập các thiết bị, kỹ thuật tiên tiến
để đổi mới các thiết bị, kỹ thuật đã lạc hậu.
- Thứ ba: Việt Nam có môi trường hòa bình với xu hướng hòa
hoãn và hợp tác quốc tế.
- Thứ tư: Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường. Nhân dân Việt Nam
có những phẩm chất tốt đẹp…
Như vậy,Việt Nam đang đứng trước những thời cơ thuận lợi giúp
Việt Nam có thể đi tắt đón đầu giúp đẩy nhanh tiến trình, và chúng
ta có thể khẳng định: “con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự,
vừa có bước nhảy vọt”( trích theo: Văn kiện Đại hội đại bỉểu toàn

quốc lần thứ IX, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
• Khó khăn:
- Thứ nhất: Chúng ta bắt tay vào quá trình thực hiện với điểm
xuất phát thấp.
- Thứ hai: Chúng ta tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện thế giới đang phải đối mặt với tình trạng
nguồn lực tự nhiên thiếu hụt và môi trường sống đang bị hủy
hoại nghiêm trọng bởi chính bàn tay con người.
- Thư ba: Chúng ta bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong khi sự chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội
hiện đại trong một thời gian ngắn, trong tình hình thiếu hụt sự
tích lũy của nhân tố hiện đại.
- Thứ tư: Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa muộn gặp phải sự
thiếu đồng bộ.
- Thứ năm: Sự không thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa
trong những năm trước đổi mới
2.2.4 Nội dung cơ bản của quá trình thực hiện.
• Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, trên cở sở thực hiện cơ khí hóa nền sản
xuất xã hội và áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
• Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại.
• Xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất mới định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
2.3 Vận dụng tri thức và tri thức khoa học trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
2.3.1 Vận dụng trong lý luận.
Sự phát triển của tri thức ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội loài người đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, đã tạo ra nền
kinh tế tri thức. Đặt ra nhiệm vụ cho Đảng và Chính phủ Việt Nam phải
làm gì để thực hiện nhiệm vụ chiến lược là thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết Đảng và nhà
nước cần xây dựng một cơ sở lý luận vững chắc làm định hướng cho
hoạt động.
Thứ nhất, cần nhận thức vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong
tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế. Và trong nền kinh
tế tri thức, nguồn nhân lực được xem là yếu tố cạnh tranh cơ bản.
Trong xây dựng các chính sách quan tâm tới con người, tiêu chuẩn
đánh giá con người. Tiêu chuẩn đánh giá con người trong nền kinh tế
tri thức chính là tinh thần hiếu học, năng lực học tập, giáo dục. Ngày
nay, trong việc tuyển dụng nhân viên không phải chỉ chú trọng vào
bằng cấp chuyên môn, kinh nghiệm quản lý tài vụ mà đòi hỏi năng lực
của bạn trong lĩnh vực nào đó bởi bạn phải kiên trì học tập, dùi mài
không biết mệt mới có được năng lực chuyên môn ấy. Trong quá trình
tìm kiếm nguồn nhân lực để tiến hành công nghiệp hóa các nhà tuyển
dụng không đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “bạn học được cái gì” mà họ
muốn biết: “bạn có thể làm được việc gì”. Đây chính là yêu cầu đặt ra
đối với nghành giáo dục đào tạo, với quá trình đào tạo học sinh sinh
viên trong các trường phổ thông, đại học và quá trình đào tạo sau đại
học. Vai trò của Chính phủ là có chính sách để các doanh nghiệp của
mọi thành phần kinh tế, cộng đồng, giáo dục và khoa học công nghệ
cũng như toàn bộ dân cư phải tích cực học tập để vươn lên ngang tầm
với đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoa.
Thứ hai, trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa yếu tố
quan trọng là phát minh ra các sản phẩm dựa trên công nghệ mới và tri
thức nhằm sản xuất hàng lọat với chi phí thấp. Do đó nhà nước cần đầu
tư vào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học đặc biệt khoa học, công nghệ
cao. Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ
bản định hướng ứng dụng. Phát triển kết cấu hạ tầng. Có chọn lọc trong
việc nhập khẩu công nghệ kết hợp công nghệ trong nước tạo lợi thế
cạnh tranh. Mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với các nước và tổ

chức trên thế giới. Muốn làm được những việc ấy đòi hỏi Đảng và nhà
nước đề ra chính sách quản lý đồng bộ, chính sách hợp lý phù hợp với
nhu cầu của thực tiễn quá trình công nghiệp hóa đặt ra.
2.3.2 Vận dụng trong thực tiễn hành động
• Trong giáo dục đào tạo, và phát triển nguồn nhân lực.
Thông qua việc cải tiến hệ thống thông tin về lao động và thông qua
các chính sách, các quy định của Nhà nước, đã điều chỉnh cơ cấu đào
tạo một cách hợp lý, đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở các
trình độ và các ngành nghề khác nhau, đặc biệt bảo đảm được nhân
lực cho các ngành mũi nhọn và các chương trình kinh tế - xã hội
trọng điểm; tăng nhanh tỉ trọng đào tạo ngành nghề dưới bậc đại học.
Kiện toàn, phát triển mạnh và bảo đảm chất lượng các cở sở đào tạo
nghề, kể cả các cơ sở dân lập, tư nhân, các doanh nghiệp đi đôi với
tăng cường quản lý Nhà nước. Mở rộng quy mô một cách hợp lý và
nâng cao chất lượng đào tạo đại học, kết hợp đào tạo mới và đào tạo
lại, phát triển giáo dục - đào tạo đỉnh cao nhằm lựa chọn, xây dựng
đội ngũ chuyên gia khoa học, công nghệ, văn hoá và những nhà kinh
doanh giỏi, đội ngũ công chức và cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế -
xã hội có năng lực. Phát triển các đại học và cao đẳng địa phương để
đáp ứng nhu cầu học tập và phát huy nguồn nhân lưc tại chỗ. Cụ thể
hoá và thể chế hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo.
• Trong khoa học, kỹ thuật
Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã
hội. Trong những năm qua chúng ta đã vận dụng khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trong việc nghiên cứu chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội, trong việc xác định các chủ trương,
chính sách, trong tổ chức quản lý kinh tế và xã hội.
Phát triển các công nghệ cao, xây dựng được cơ sở hạ tầng truyền
thông tin học quốc gia. ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả

các lĩnh vực kinh tế quốc dân, hình thành mạng thông tin quốc gia,
liên kết với một số mạng thông tin quốc tế. Phát triển công nghệ sinh
học nhằm tạo ra và nhân nhanh các giống cây trồng, vật nuôi mới;
chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất các loại vắc xin và kháng
huyết thanh, các chế phẩm chuẩn đoán bệnh nhanh và chính xác;
phát triển các công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Phát triển công
nghệ vật liệu, nghiên cứu chế tạo một số vật liệu mới có hiệu quả
cao, phát triển các loại vật liệu có độ bền lớn và chịu đựơc điều kiện
khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt. Phát triển kỹ thuật tự động hoá đồng
bộ ở một số nhà máy then chốt, ứng dụng công nghệ tự động hoá ở
các khâu quyết định đến chất lượng sản phẩm. Xây dựng các khu
công nghệ cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phát triển khoa học xã hội và nhân văn, nắm vững những luận
điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nghiên cứu những vấn đề lý luận của công cuộc đổi mới và phát triển
trong thời kỳ mới, làm rõ vấn đề Nhà nước pháp quyền trong điều
kiện Đảng cầm quyền, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời
kỳ mới; xây dựng các phương án cho tiến trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đaị hoá; xác định hệ thống chính sách xã hội trong
giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển các ngành khoa học tự nhiên, nghiên cứu một số vấn đề
cơ bản có triển vọng của khoa học hiện tại và tương lai, nhằm tiếp
cận được với trình độ thế giới trong các lĩnh vực về toán học, điều
khiển học và khoa học tính toán, về vật lý học, cơ học, hoá học, sinh
học và các khoa học về trái đất.
Xây dựng và ban hành Luật khoa học và công nghệ, tạo lập thị
trường cho hoạt động khoa học và công nghệ; các doanh nghiệp coi
trọng phát triển khoa học và công nghệ, dựa vào khoa học, công
nghệ để phát triển sản xuất có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật thông qua các biện pháp ưu đãi về thuế, tín

dụng, xuất nhập khẩu Hỗ trợ cho các thành phần kinh tế có nhu cầu
nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ, gắn nghiên cứu khoa
học với giáo dục, đào tạo.
• Trong các ngành kinh tế
Công nghiệp đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ
hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp cơ khí, điện
tử, công nghiệp phần mềm Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để
trang bị cho các ngành kinh tế. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện
đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thuỷ
lợi, cấp nước, thoát nước Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý
trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình
đô thị hoá nông thôn. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế
có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thực hiện cơ khí hoá,
điện khí hoá, thuỷ lợi hoá. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ. Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ
cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ
trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút
nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế,
nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến
khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển
mạnh các ngành công nghiệp sản xuất theo hướng hiện đại. Đầu tư
thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và
hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật
liệu xây dựng
2.3.3 Những thành tựu đã đạt được và những mặt còn hạn chế
• Thành tựu:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được những thành tựu to lớn

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thường xuyên đạt ở mức cao, ví dụ
trong giai đoạn 1996- 2000, tốc độ tăng trưởng là 9,3%.
- Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển
mạnh.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài tính đến năm 2005 đã thu hút
được hơn 6000 dự án với tổng số vốn đăng ký 65,6 tỉ USD.
- Vai trò quản lý của Đảng và nhà nước ngày càng nâng lên rõ
rệt, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng
củng cố…( theo Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới( 1986-
2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra – Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân ).
• Hạn chế:
- Tư tưởng của Đảng và Chính phủ trong vấn đề đổi mới, trong
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đủ để đáp ứng
nhu cầu thực tiễn.
- Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định và vẫn còn thấp so
với tiềm năng.
- Hiệu quả kinh tế và năng suất lao động thấp, sự phân hóa giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế thấp…
2.3.3 Phương hướng
• Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại…
• Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao

và bền vững hơn, gắn với phát triển con người. Đến năm 2010,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp hơn 2,1 lần so với năm
2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, mức tăng trưởng GDP bình
quân đạt 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. (trích theo
Văn kiện Đại hội đại bỉểu toàn quốc lần thứ IX, nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
Để đạt được những mục tiêu, phương hướng đã đề ra cần có sự cố
gắng rất lớn của Đảng và toàn dân, phát triển đời sống kinh tế hiện
đại để đạt được mục tiêu trước mắt là đến năm 2020 Việt Nam cơ
bản là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
III. KẾT LUẬN
Qua những vấn đề đã nêu có thể thấy rằng tri thức và tri thức khoa
học có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Nó
tác động vào nền kinh tế tạo ra sức sản xuất như nước vỡ bờ, xác lập
nền kinh tế tri thức. Con người trong nền kinh tế ấy là con người khao
khát tri thức, do đó đòi hỏi mỗi con người ham hiểu biết phải không
ngừng học tập, học tập suốt đời. Lúc này học tập không còn là một
nhiệm vụ của một giai đoạn nào đó mà là sự nghiệp thiết thân trong
suốt cuộc đời. Tri thức được xem là động lực nâng cao sức sản xuất,
thể hiện sự tăng trưởng kinh tế, là nguồn tài nguyên then chốt của xã
hội.
Trong qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nước ta đang
tiến hành chịu ảnh hưởng rất lớn của tri thức và tri thức khoa hoc,
chúng tác động đến nguồn nhân lực- yếu tố cơ bản và quan trọng nhất
của quá trình thực hiện. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của
Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta thu
được những thành tựu hết sức to lớn trong cải thiện kinh tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân và ngày càng khẳng định vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Là những sinh viên kinh tế, có những hiểu biết nhất định về sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nước ta đang tiến hành, một
câu hỏi đặt ra là “chúng em có thể làm gì để đóng góp cho sự nghiệp
ây?” Điều quan trọng nhất là phải tích cực học tập và không ngừng trau
dồi thêm kiến thức để sau khi ra trường sẽ không bỡ ngỡ trước diễn
biến của cuộc sống những điều khác xa so với kiến thức mà chúng em
học được ở nhà trường. Bởi sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta có
thành công được hay không trong thời đại kinh tế tri thức hoàn toàn
phục thuộc vào tài năng vốn tri thức của mọi người mà tất cả những
yếu tố ấy đều nảy sinh từ sự trang bị của mỗi người cho bản thân và sự
nỗ lực tương ứng.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin - NXB Chính trị Quốc gia
2. Giáo trình Kinh tế chính trị - NXB Chính trị Quốc
3. Từ điển tiếng Việt - NXB Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học - Hà Nội -
Đà Nẵng - 2000
4. Từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội 1999
5. Hành tranh thời đại kinh tế tri thức - NXB Giao thông vận tải
6. Bài Sự phát triển của nhân loại trong quan hệ với tri thức - Tạp chí
Triết học số ra ngày 28/9/2004.
7. Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khoá VII -
Hà Nội 1994
8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc
gia - Hà Nội 2001
9. Văn kiện Đại học Đại biểu toàn quốc lần thứ X - NXB Chính trị Quốc
gia - Hà Nội 2006.
10. Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 - 2006) thành tựu và những
vấn đề đặt ra - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

×