Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội liên hê thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

VẤN ĐỀ TƠN GIÁO TRONG
THỜI KÌ Q ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
MÃ MƠN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405E_08CLC
NHĨM THỰC HIỆN: Hoa Anh Đào. Thứ 4 - tiết: 1-2
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung

Tp. Hồ Chí Minh, tháng ...... năm 20.....


MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề................................................................................................................. 1
2. Mục tiêu đề tài:......................................................................................................... 1
NỘI DUNG........................................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TƠN GIÁO........2
1.1.

Khái niệm tơn giáo............................................................................................. 2

1.2.

Bản chất của tơn giáo.........................................................................................2

1.3.


Nguồn gốc của tơn giáo......................................................................................4

1.4.

Tính chất của tơn giáo........................................................................................5

CHƯƠNG 2: NGUN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TƠN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.....................................................................8
2.1. Vấn đề tơn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội..................................8
2.2. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo......................................................................................................................10
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO..................................12
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam........................12
3.2. Một số quan điểm khác về vấn đề tơn giáo.
Bàn luận câu nói: “Tơn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”.........................................................................................16
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 20
1. Kết luận đề tài......................................................................................................... 20
2. Nhận xét và đánh giá.................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................22


PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ TRONG NHĨM
Nội dung thực hiện
Sinh viên thực hiện
Nhóm tự đánh giá mức
độ hoàn thành
(Tốt / Khá / Kém)
Nội dung 1: Lý do chọn đề


PHẦN MỞ ĐẦU
Tăng Thị Thùy Linh

Tốt

tài, mục tiêu và phương pháp
nghiên cứu.
Nội dung 2: Chỉnh sửa word

Hà Thị Thu Huyền

Nguyễn Chí Thành
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 1: Quan điểm của
Hà Thị Thu Huyền

Tốt

chủ nghĩa Mác – Lenin về tôn
giáo.
Nội dung 2: Nguyên tác giải
quyết vấn đề tôn giáo theo

Huỳnh Thị Tuyết Minh

Tốt

Phạm Đức Mạnh

quan điểm của chủ nghĩa Mác

– Lenin
Nội dung 3: Nội dung lý luận
chung về vấn đề tơn giáo.
Viết kết luận

Nguyễn Tấn Duy
Nguyễn Chí Thành
PHẦN KẾT LUẬN
Nguyễn Cao Kỳ

Tốt

Tốt


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà
còn với nhiều nước trên thế giới. Vì thế ln cần có những hiểu biết thấu đáo trước khi
giải quyết các vấn đề này. Vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng
phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tơn giáo như là một chiêu bài trong âm
mưu diễn biến hịa bình hịng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt
Nam cũng như các nước khác. Việt nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tơn giáo khác nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước.Vì vậy để tiến
hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta , trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần
phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề tơn giáo cũng như
có những chính sách về tơn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
Đó cũng là lý do chúng em quyết định chọn đề tài “ Vấn đề tơn giáo trong thời kì
q độ ở Việt Nam " làm để tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên trong nhóm sẽ có

những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời xác định rõ cách nhìn
nhận, lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát triển chung.ủa xã hội
2. Mục tiêu đề tài:
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của
hồn cảnh lịch sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta cịn biết một cách khái qt rằng, tơn giáo
cịn tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy, trong q trình xây dựng đó,
tơn giáo cịn tồn tại là do những nguyên nhân cụ thể gì?
Mặt khác, ở nước ta hiện nay tơn giáo đang có xu hướng phát triển, trước tình
hình đó, để góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, cần phải thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề tơn giáo như thế nào? Trên đây chính là những
mục đích mà nhóm chúng em muốn hướng tới khi nghiên cứu đề tài: “ Vấn để tôn giáo
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ”.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TƠN GIÁO
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm và có
nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận tính chất vai trị của tơn
giáo, thừa nhận tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng của nhân dân. Để giải quyết vấn đề tôn giáo cần một thời gian dài, gắn liền với
quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng.
Tín ngưỡng, tơn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa
Mác - Lênin
1.1.

Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện

thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã
hội đều trở thành thần bí.
Tơn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. ở một mức độ nhất
định tôn giáo có vai trị tích cực trong văn hố, đạo đức xã hội như: đoàn kết, hướng
thiện, quan tâm đến con người… Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần
chúng

lao

động.

Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tơn giáo là duy tâm, hồn tồn đối
lập với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên
kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh,
hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.

2


1.2.

Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội


phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh
của tơn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. C.
Mác và Ph. Ăngghen cịn cho rằng, tơn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử;
một lực lượng xã hội trần thế. Giữa tín ngưỡng và tơn giáo có sự khác nhau, song lại có
quan hệ chặt chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một
khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín
ngưỡng tơn giáo (gọi tắt là tơn giáo).
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một
lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vơ hình tác
động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tơn giáo. Cịn tôn
giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tơn giáo lấy niềm tin
tơn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tơn giáo - nghĩa là, tơn
giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội. Mê tín dị đoan là một
hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên
thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo.
Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực
của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu
nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản
văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn
chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề. Vì vậy,
cùng với việc tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân thì
chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hố đời sống tinh thần xã
hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.. Tuy nhiên, tôn giáo
cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Về
3



phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tơn giáo là đối
lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxít khơng
bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo hợp
pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ
xã hội chủ nghĩa luôn tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân
dân.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà các tôn giáo
thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải là hiện
thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay ở
thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
1.3.

Nguồn gốc của tơn giáo
Tơn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi

cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện và biến đổi
đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do
trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên
nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán chotự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn,
thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc
của thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hố giai cấp
và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường
hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tơn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế,
áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa
của tôn giáo.

- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo .Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về
nguồn gốc nhận thức của tơn giáo. Cịn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại
4


quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà cịn làm sáng tỏ một
cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó. Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của
con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ
từng bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn
luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tơn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tơn giáo cịn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người.
Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát
hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hố
đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời
hiện thực và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu
hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi
vào ảo tưởng, thần thánh hố đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tơn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm
"sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực
mù quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt
vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại.
Ngồi sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo làm nảy
sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u trong quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín
ngưỡng,

tơn

giáo.


Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp
phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về,
xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều
người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tơn giáo là trái tim của thế giới khơng có
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội khơng có tinh thần.
1.4.

Tính chất của tơn giáo

1.4.1.Tính lịch sử của tơn giáo
5


Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo cịn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ
nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tơn giáo có sự
biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tơn
giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn
gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng
nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tơn giáo sẽ dần
dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con
người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ cịn là một q trình phát triển rất lâu dài
của xã hội lồi người.
1.4.2. Tính quần chúng của tơn giáo
Tính quần chúng của tơn giáo khơng chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tơn giáo.
Hiện nay tín đồ của các tơn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (nếu chỉ tính
các tơngiáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt
khác,tính quần chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các tơn giáo là nơi sinh hoạt văn

hóa,tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng
conngười niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó ln luôn phản
ánhkhát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái... Bởi vì,
tơngiáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện. Vì vậy, cịn nhiều người ở
trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
1.4.3. Tính chính trị của tơn giáo
Trong xã hội khơng có giai cấp, tơn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính
trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về lợi ích,
các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những cuộc chiến
tranh tơn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời trung cổ ở châu
Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen,
Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau
6


trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội bộ các
tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang tính chính trị.
Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tơn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh
giai cấp.
Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ thể
hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia... mà cịn có tổ chức ngày
càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế
của các tơn giáo với vai trị, thế lực khơng nhỏ trên tồn cầu và với những trang bị hiện
đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị
- xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.

7



CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
2.1. Vấn đề tơn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tơn
giáo vẫn cịn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu
sau:
2.1.1. Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn
nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong
khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức mạnh
tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được
đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh
của thần linh
2.1.2. Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống
hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách
biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư cịn tồn tại phổ biến. Do
đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con
người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
2.1.3. Ngun nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tơn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin,
lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đơng đảo quần chúng nhân dân
qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã
8


hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội, song tôn

giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội mà
nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý
thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý
thức tơn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần
của mỗi con người, của xã hội.
2.1.4. Nguyên nhân chính trị - xã hội
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội,
với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị
đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng được nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tơn giáo có sức
thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực
phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây đựng chủ
nghĩa xã hội.
2.1.5. Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất
định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tơn giáo thường được thực hiện dưới hình
thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp
với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng,
tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa
tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tơn giáo vẫn cịn tồn tại trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến
trình đó, tơn giáo cùng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của những điều kiện kinh
tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
9


2.2. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề

tơn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề
nảy sinh từ tơn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, có tính ngun tắc với những phương thức sinh hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa
Mác - Lênin.
Nguyên tắc 1: Giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin
và hệ tư tưởng tơn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ngun tắc 2: Tơn trọng tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân.Khi tín
ngưỡng tơn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡngcủa mọi
cơng nhân. Cơng dân có tơn giáo hay khơng có tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cần phát huy những giá trị tích cực của tơn giáo,
nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của cơng
dân.Nhà nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tơn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị
đoan và những âm mưu lợi dụng tơn giáo để hoạt động chính trị hoặc gây rối trật tự trị an.
Nguyên tắc 3: Thực hiện đoàn kết những người có tơn giáo với những người khơng
có tơn giáo, đồn kết các tơn giáo, đồn kết nhữne người theo tôn giáo với những người
không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm
mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tơn giáo.
Ngun tắc 4: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tử tưởng trong vấn đề tơn giáo. Mặt
tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo. Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dạng tôn
giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây
10


dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tơn giáo

là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thậr trọng và phải
có sách lược phù hợp với thực thực
Nguyên tắc 5: Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Trong
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vẩn đề liên quan đến tơn giáo. Người mácxít
phải biết chú ý đến tồn bộ tình hình cụ thể - đó là điều mà V.I.Lênin đã từng nhắc nhở
khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và
phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn
giáo.

11


CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO.
3.1. Về vấn đề tôn giáo trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị "Về tăng cường cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tơn giáo, tín ngưỡng: i) tơn
giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài; ii) tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; iii) đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tơn giáo, tín ngưỡng cũng được
định hướng: i) vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa
kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; ii) nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng và iii) công tác tơn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ
thống chính trị.
Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn giáo
tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ Chính trị chỉ rõ: "Những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy". Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng cơng bằng,
bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận
của Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
3.1.1. Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tơn giáo có sự dung hợp, đan xen và hịa đồng, khơng kỳ
thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh
phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hịa đồng với nhiều tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có
tơn giáo và người khơng có tơn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín
đồ của tơn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những
người không theo tơn giáo, và họ sống hịa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dịng
12


họ.
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước
ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tơn
giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con Rồng.
Hệ thống giáo lý của các tơn giáo nội sinh (Phật giáo Hịa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tơn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều
hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo
nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Đặc điểm thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế
quốc, phản động ln tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo và các vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng, tơn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính
trị, trật tự, an tồn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.

3.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
Tư tưởng nhất quán của Đảng ta là tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và
quyền tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đồn kết tơn giáo,
hòa hợp dân tộc. Ngay trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập
Hội Phản đế Đồng minh (tháng 11-1930), Đảng ta đã nhấn mạnh: "... phải lãnh đạo từng
tập thể sinh hoạt hay tập quán của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần
dần cách mạng hóa quần chúng, mà lại đảm bảo t do tín ngưỡng của quần chúng..."2.
Sau khi đất nước giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3 - 9 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tín ngưỡng t do và Lương Giáo đồn
kết”. Theo đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều
nghị quyết, chỉ thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo; qua đó, góp
phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc và sự đóng góp
của đồng bào các tơn giáo vào thắng lợi của cách mạng.
3.1.3. Các tôn giáo ở nước ta hiện nay được pháp luật thừa nhận:
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và một
13


số tơng phái cải biên như Hịa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ cư
sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài,
và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi giáo).
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả nước có
hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký chính thức.
Năm tơn giáo lớn nhất là Cơng giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Tin Lành, và Cao Đài; các tơn
giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Ban Tơn giáo Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà
nước về cơng tác tơn giáo, tín ngưỡng.
3.1.4. Quan điểm của đảng ta về vấn đề tôn giáo.
Tại Đại hội XII của Đảng, ngoài những điểm kế thừa, bổ sung, phát triển các
quan điểm của các đại hội trước, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm, đánh giá, nhận
xét mới đối với tín ngưỡng, tơn giáo và cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tơn giáo.

Quan điểm tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một
chính sách nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập đến nay, là một nội dung cốt lõi
trong quan điểm, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các giai đoạn cách
mạng, quan điểm, nhận thức của Đảng về tín ngưỡng, tơn giáo ln có sự bổ sung, phát
triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng như thực
tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo được nhìn nhận là
quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền
bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định
rõ hơn chính sách tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là việc có nhiều
hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Số đảng
viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh,
sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh
tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước”. Đây là một điểm mới so với
các văn kiện đại hội Đảng trước đây khi chúng ta khẳng định chính sách kết nạp Đảng đối
14


với những người theo tôn giáo.
Quan điểm phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Quan điểm
này đã được đề cập đến trong các văn kiện Đảng các kỳ đại hội trước đây, xuất phát từ
luận điểm quan trọng trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày
16/10/1990 về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới: “Đạo đức tơn giáo có
nhiều điều phù hợp với xã hội mới”. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước”. Không chỉ yêu cầu phát huy giá trị tôn giáo, Văn kiện Đại hội XII còn nêu
ra yêu cầu phát huy văn hóa tơn giáo: Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tơn

giáo, xây dựng thiết chế văn hóa...”. Quan điểm phát huy giá trị tơn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng xuất phát từ thực tế các tơn giáo đã và đang tham gia đóng góp tích
cực trong các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện xã hội, cứu trợ xã hội, v.v… Quan điểm về
phát huy giá trị tôn giáo cũng cho thấy, Đảng chấp nhận những giá trị tốt đẹp của tôn giáo
tham gia vào hệ giá trị xã hội, góp phần làm phong phú hệ giá trị xã hội, qua đó cần tiếp
tục nghiên cứu các cách thức phát huy, cơ chế phát huy giá trị của các tôn giáo, biến giá
trị của các tôn giáo thành nguồn lực xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước.
Quan điểm về hồn thiện chính sách, pháp luật về tơn giáo. Đảng ta nhấn mạnh
tại Đại hội XII “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo,... Quan
tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Quan điểm “tiếp tục hồn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo” đề ra trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là yêu
cầu tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tơn
giáo ngày càng đầy đủ hơn. Mặt khác, yêu cầu tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tơn giáo nhằm hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ hóa với hệ thống
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung, đồng thời phù hợp với luật pháp
15


quốc tế.
Như vậy, từ Nghị quyết 24 (1990) đến Văn kiện Đại hội XII là một q trình
khơng ngừng nỗ lực tự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Hiện nay, nước
ta đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá để thực
hiện mục tiêu sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2. Một số quan điểm khác về vấn đề tôn giáo.
Bàn luận câu nói: “Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
Tuy nhiên, là người có hiểu biết, khi đứng trước mọi sự khen chê, thái độ của người
có đức tin trưởng thành không phải là tức tối, nổi loạn, nhưng là thái độ thản nhiên, bình

tĩnh suy xét, để xem lời buộc tội đó đúng hay sai, phù hợp hay khơng phù hợp, để ta có
được những cái nhìn đúng đắn, khách quan và chân thật.
Câu nói “Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã có nhiều người hiểu theo ý
nghĩa tiêu cực. Họ cho rằng câu này là để phê phán tôn giáo giống như một thứ ung nhọt,
một thứ rác rưởi, cặn bã của xã hội và cần phải loại bỏ. Thậm chí ngay cả những người tự
cho mình là bảo vệ chế độ, họ cũng dùng câu nói này để phê phán và cực lực lên án sự tồn
tại của tôn giáo. Đồng thời gây ra những mâu thuẫn khơng hề nhỏ. Có là q đáng chăng
khi cho rằng câu nói “Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đang cố gắng đánh đổ niềm
tin tuyệt đối và phá bỏ những truyền thống của họ?
Đi sâu hơn vào từng câu chữ, ta tìm thấy trong đoạn văn đầy đủ có câu “thuốc
phiện”, ý nghĩa của cả đoạn khơng mang tính tiêu cực hay đấu tố như chúng ta hay lầm
tưởng. Chẳng hạn câu “religion is the heart of the heartless world, the soul of the soulless
conditions” (tôn giáo là trái tim của một thế giới thiếu trái tim, là linh hồn của những hoàn
cảnh thiếu linh hồn), khơng mang ý chê bai chỉ trích tơn giáo, nhưng có thể coi là mang ý
nghĩa ghi nhận vai trị của tơn giáo. Trong một thế giới đầy những bất cơng, hận thù, chia
rẽ, bất an, chỉ có tơn giáo là trái tim, là linh hồn, là trạm dừng chân cuối cùng để con
người ta tìm về. Vì thế, câu tiếp theo có thể được hiểu là, người nghèo tìm đến với tơn
giáo như tìm đến “opium” - thứ giúp họ lãng quên đi phiền muộn và tạo ra hạnh phúc.
Như khẳng định, tơn giáo chính là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,
là cách để họ tạm thời lấy lại được sự sống sau những giờ lao động mệt mỏi và căng
16


thẳng. Nó là trái tim của thế giới khơng có trái tim, là tinh thần của trật tự khơng có tinh
thần. Bởi lẽ nếu khơng có tơn giáo thì nhân dân lao động sẽ khơng cịn là con người, họ sẽ
bị biến thành những cái máy vô hồn, làm việc trong các băng truyền hay con Rơ-bốt
khơng có trái tim. Chính trong xã hội đó - một xã hội mà đời sống tinh thần nghèo nàn thì
tơn giáo lại món ăn tinh thần duy nhất mà họ bởi vậy mới là tinh thần của trật tự khơng có
tinh thần. Có thể nói chỉ ở nơi tơn giáo, con người lao động mới tìm thấy được
phần “người” ít ỏi cịn sót lại ở trong cuộc sống và trong các mối tương quan của họ. Nhờ

tôn giáo, họ hiểu rằng, bản thân họ không phải là những cỗ máy vô cảm, nhưng là một
con người đích thực, có lý trí, có ý chí, có nhận thức, có tình cảm và là một nhân vị hồn
hảo, độc nhất vơ nhị giữa cuộc đời. Những điều mà một con Rơ-bốt khơng thể tìm thấy
trên băng chuyền sản xuất hay những người công nhân cũng vậy
Dường như nhiều người nghe đến câu nói này sẽ nghĩ ngay đến điều đang ám chỉ
tôn giáo là một thứ tiêu cực, giống như thuốc phiện vậy. Thực chất, nó muốn ám chỉ rằng
vào thời đó là lúc mà con người còn cảm thấy họ là một con người và họ có thể tìm được
bản thân mình ở những thú vui tinh thần còn lại duy nhất này mà khơng phải là máy móc
hay con vật. Tơn giáo khơng phải là thứ hại nhân dân, đó thực sự đó là liều thuốc tính
thần cịn lại duy nhất để giúp người dân tìm lại được chính họ cịn là con người trong một
xã hội vốn khơng có tình người, là liều thuốc giảm đau duy nhất đối với những đau khổ
mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu trong chính xã hội Tư bản.
Đặt câu nói trong bối cảnh thế giới chúng ta đang sống là thế kỷ phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật thì chúng cần được xem xét ở góc độ khác. Bởi lẽ thực chất dù
khoa học phát triển đến đâu thì vẫn có những lỗ hổng mà khoa học không thể giải quyết
được. Chính vì thế, khoa học cần đến tơn giáo, và con người tìm đến tơn giáo như một
điểm tựa quan trọng cho đời mình. Khoa học soi sáng cho tơn giáo và tôn giáo chỉ lối cho
khoa học đi đúng đường. Khoa học và tôn giáo như là đôi cánh chắp cho nhau để cả hai
cùng bay xa và bay cao hơn trên bầu trời tri thức và chân lý. Do đó, bất kỳ triết gia nào,
nhà khoa học nào cũng không thể nhân danh khoa học để phủ định sạch trơn tôn giáo,
nhưng phải nhớ rằng tôn giáo và khoa học đều là hai mặt của một thể thống nhất, ln có
sự khác biệt, nhưng lại thống nhất và bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, xóa bỏ tơn giáo
17


cũng đồng nghĩa xóa bỏ cả khoa học, vì khi tơn giáo khơng cịn nữa thì khoa học cũng coi
như bị hủy diệt. Sự tồn tại của tôn giáo là điều tất yếu để khoa học tồn tại và phát triển.
Tơn giáo khơng phải là thuốc phiện vì nếu hiểu tôn giáo là giáo lý về một nhận thức
sâu sắc hơn đối với sự sống, là giáo lý không phải là một mớ lý thuyết hời hợt, nhưng là
nhìn sâu vào sự sống, giáo lý dạy người ta hành động một cách nhân bản, giúp thăng tiến

xã hội và nâng cao nhân phẩm con người. Đức tin đòi hỏi người ta phải đón nhận nó một
cách trưởng thành và có ý thức, nghĩa là một đức tin thông hiểu, một đức tin với sự trải
nghiệm. Chỉ khi đó, người ta mới có thể lý giải câu nói trên một cách hợp lý được.
Cách nói tơn giáo như thuốc phiện thời ấy khơng hồn tồn mang tính lên án, bơi
nhọ, ngược lại nó xuất hiện trong bối cảnh nước Đức như là đỉnh cao của một loạt những
lập luận thực chứng về tơn giáo. Có người cho rằng: “Thật thú vị câu nói trên nằm trong
một đoạn văn rất sâu sắc về tư duy triết học kết hợp với hồn thơ phơi phới được diễn tả
một cách rất tài tình.
Nhiều nhà tư tưởng đã đồng thuận với nhau rằng, khơng có khổ đau nào lớn hơn
những khổ đau vô nghĩa, là phải khổ mà không biết tại sao, là không giữ được tài sản cuối
cùng là lịng hy vọng. Tơn giáo cho chúng ta niềm tin, nơi ấy mỗi khổ đau đều có giá trị
tích cực, như vịng nguyệt quế trên đầu các chiến binh. Bản chất cốt lõi thực sự của mọi
tôn giáo là hướng thiện, là tốt đẹp chắc chắn tồn tại mãi mãi với lồi người, chứ khơng
phải là liều thuốc ru ngủ nhân dân như người ta xưa nay vẫn nghĩ.
Tôn giáo không phải là thuốc phiện của nhân dân, bởi khi xét trên khía cạnh vai trị,
thì tơn giáo vẫn đóng một vai trị quan trọng trong tất cả mọi lãnh vực của đời sống con
người và xã hội. Tôn giáo là nhịp cầu giao lưu văn hóa giữa quốc gia, các khu vực vốn
cách xa nhau về mặt địa lý lại với nhau, góp phần hình thành và phát triển một nền kinh tế
xã hội bền vững, kiến tạo và củng cố hịa bình, nâng cao, phát triển và hoàn thiện nhân
cách và phẩm giá con người. Tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo, giá trị nhân văn mà tôn giáo
này mang lại là vô cùng sâu sắc. Vì thế, một câu hỏi đặt ra: “Nếu tơn giáo là thuốc phiện
của nhân dân, thì liệu tơn giáo ấy có thể trường tồn cùng dịng lịch sử hơn hai mươi thế kỷ
được chăng? Để khẳng định tính vĩnh hằng của Kitơ giáo, Linh mục C.Beard đã khẳng
định: “Tơi khơng hiểu vì sao người ta vẫn tiếp tục cầu nguyện, trừ phi người ta tin rằng có
18


những lỗ tai đang nghe họ”. Do đó, luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân[4]” cần thiết phải được nhìn dưới những lăng kính khách quan và đa chiều hơn là như
vậy.

Nguyên bản Tiếng Anh: “Religious suffering is, at one and the same time,
the expression of real suffering and a protest against real suffering. Religion is the sigh of
the oppressed creature, the heart of a heartless world, and the soul of soulless conditions.
It is the opium of the people”. Dịch nghĩa Tiếng Việt “…Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là
tinh thần của trạng thái khơng có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

19


KẾT LUẬN
1. Kết luận đề tài
Điều đáng mừng, mặc dù nghiên cứu quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về tơn giáo đã đạt được những thành tựu cơ bản, nhiều vấn đề xem như là đã
được đóng đinh nhưng cho đến nay vẫn có những cơng trình, bài viết dưới các góc độ
khác nhau tiếp tục nghiên cứu và thành tựu được ghi nhận.
Có thể nói thành tựu nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về tơn giáo trong chặng đường 25 năm của Viện Nghiên cứu Tôn giáo là một
trong những thành tựu nổi bật. Những thành tựu ấy vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị
thực tiễn cao.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã từng bước đổi
mới về vấn đề tôn giáo và công tác tơn giáo. Trong q trình đó, tư duy lý luận của Đảng
ta về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện
hơn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Đại
hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng".
Đảng ta khẳng định tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo
sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã khám phá, chinh phục được thiên nhiên,
khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là đã giải quyết được nguồn gốc tự nhiên. Đây là
một nhận định mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc của Đảng, phản ánh đúng tính

tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát triển của tín ngưỡng, tơn giáo.tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thừa nhận và khuyến khích phát huy
những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây
dựng xã hội mới,giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tơn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
2. Nhận xét và đánh giá
Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội mới. Phát huy những giá trị văn
20


hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,
theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước.Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo,... Quan tâm và tạo
điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
[2] Kinh tế Chính trị Mác – Lênin (in lần thứ 2 có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh Tuấn,
Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2007
[3] Tơn giáo tại Việt Nam, truy
cập ngày 25/04/2021
[4] Nguyễn Mạnh Hùng(2011). “Quốc phịng toàn dân”.

[5] Những phác thảo của V.I.Lênin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Thị
Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị, 13 Tháng 4 2016
[6] Feuerbach là một trong những người phê phán gay nhất chủ nghĩa duy tâm với ý
niệm tuyệt đối của Hegels và sự sáng tạo thế giới bằng ý niệm tuyệt đối.
[7] Cf. C.Mác, Phê phán triết học pháp quyền của Heghen 1843-1844 , NXB Sự Thật,
Hà Nội, 1962, tr.5-7.
[8] Cf. Sergio Vuscovic Rojo, “Tôn giáo, thuốc phiện của nhân dân và s phản kháng
chống lại khốn cùng”. Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 2-2000, tr. 12-17.

22


×