Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng dnvvn tại ngân hàng tmcp nhà hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.08 KB, 96 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Không ai có thể phủ nhận, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia. Ở Việt Nam, DNVVN chiếm 90%
trong tổng số 90 vạn doanh nghiệp của cả nước, mỗi năm đóng góp khoảng 30%
GDP. Họ góp khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức
bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá và 100% giá trị sản lượng hàng
hoá một số ngành như: chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.
Trước đây, các ngân hàng tranh giành gay gắt thị phần doanh nghiệp nhà
nước, các tổng công ty lớn. Đến nay, tình thế có nhiều thay đổi, tất cả ngân hàng
cổ phần Việt Nam đều nhằm thị trường mục tiêu là khách hàng cá nhân và
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng bắt đầu
mở rộng cho vay ngoài quốc doanh.
Thế nhưng ở nước ta, vấn đề vốn tín dụng ngân hàng cho DNVVN lại luôn
là một thực tế bức xúc. Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất cản trở sự phát triển của
DNVVN. Rủi ro khiến các ngân hàng phải dè chừng. Các món vay mà DNVVN
nhận được thường có thời hạn ngắn, giá trị nhỏ, mâu thuẫn với nhu cầu đầu tư
thiết bị công nghệ; và luôn cần đến tài sản đảm bảo có giá trị lớn so với số lượng
xin vay…
Habubank được thành lập từ năm 1989, qua 17 năm hoạt động, hiện có quy
mô vốn và thị phần ở mức trung bình trong khối ngân hàng TMCP. Khách hàng
mục tiêu của Habubank, như đã nói ở trên, là dân cư đô thị và DNVVN. Để
giành được lợi thế trong việc phục vụ đối tượng khách hàng này, Habubank cần
phải có “một chiến lược rõ ràng về khách hàng mục tiêu, sản phẩm và khu vực
hoạt động” phải có biện pháp quản trị rủi ro hữu hiệu; nâng cao chất lượng thẩm
định, giảm thời gian xét duyệt khoản vay…
Trên cơ sở nhận thức các thực trạng đó, em lựa chọn vấn đề: “Hoàn thiện
phương pháp chấm điểm tín dụng DNVVN tại ngân hàng TMCP Nhà Hà
Nội” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chấm điểm tín dụng DNVVN khác với doanh nghiệp lớn, cần một hệ
thống riêng. Để xây đựng hệ thống này, cần phân tích tổng hợp một khối lượng


Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
lớn các món cho vay DNVVN, ít nhất là toàn bộ cơ sở dữ liệu của Habubank.
Việc phân tích phải được thực hiện bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm và các
cán bộ tín dụng của chính Ngân hàng. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết
hướng tới chứng minh việc phát triển chấm điểm tín dụng DNVVN là có thể
thực hiện được và sẽ giúp giải quyết một số hạn chế trong tín dụng DNVVN của
Ngân hàng. Được sự giúp đỡ của thầy Đặng Anh Tuấn, kết hợp nghiên cứu lý
luận chấm điểm tín dụng với thực tế Habubank, người viết cũng mạnh dạn đưa
ra hướng xây dựng nội dung bảng chấm điểm, mong rằng sẽ là một gợi ý hữu
ích với Ngân hàng.
Thích hợp với mục tiêu về nội dụng này, kết cấu của luận văn được xây
dựng như sau:
Chương 1. Chấm điểm tín dụng và hoạt động tín dụng ngân hàng với
khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng đối với khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
Chương 3. Phát triển phương pháp chấm điểm tín dụng nâng cao chất
lượng nghiệp vụ tín dụng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội.
Vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ, thời gian và năng lực nghiên cứu còn
hạn chế, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2006.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Chương 1. Chấm điểm tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng
ngân hàng với khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nói DNVVN tức là đã nhìn nhận doanh nghiệp bởi các tiêu chí về quy mô
như: vốn và lao động, doanh thu thuần, giá trị nộp cho ngân sách , và theo đó,
loại doanh nghiệp này là những doanh nghiệp có các yếu tố quy mô nằm trong
một giới hạn nào đó.
Theo NĐ 90 ngày 23/11/2001, DNVVN được định nghĩa như sau:
“DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
bình quân hàng năm không quá 300 người (linh hoạt áp dụng với một trong hai
chỉ tiêu vốn hoặc lao động hoặc cả hai chỉ tiêu).
1.1.1.2. Đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Kể từ năm 2000, hàng năm, có khoảng hơn 20000 doanh nghiệp được
thành lập mới. Những doanh nghiệp này đa phần gia nhập vào đội hình DNVVN
khiến cho hầu như 190 ngàn DNVVN của Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp
trẻ ngoài quốc doanh. Yếu tố “trẻ”, “ngoài quốc doanh” chính là nguyên nhân
quyết định nhất tới các đặc điểm dưới đây của DNVVN.
Đặc điểm nổi bật đầu tiên phải nói tới là các DNVVN có tính tự chủ cao
nhưng quy mô vốn thấp. Ở các doanh nghiệp này, chủ sở hữu cũng thường là
người quản lý. Họ phải tự bươn chải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình.
Do vậy, người quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh. Doanh
nghiệp đói vốn, muốn vay vốn nhưng không có điểm tựa tài chính là Nhà nước
để dễ dàng được Ngân hàng chấp nhận cho vay như các doanh nghiệp trong khu
vực quốc doanh. DNVVN luôn chỉ được vay khi có tài sản đảm bảo. Hơn nữa,
đúng kiểu đã nghèo lại mắc cái eo, giá trị tài sản thấp, chủ yếu là đất ở của chủ
doanh nghiệp, nên lượng vốn được phép vay cũng nằm trong giới hạn rất khiêm
tốn so với nhu cầu vốn.
Thứ hai, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú.
Các doanh nghiệp này thâm nhập vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
mại dịch vụ, sản xuất, gia công chế biến…. Nhờ vậy, việc mở rộng tín dụng cho

các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc rủi ro gây
biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do quy mô
nhỏ bé, nên khi diễn biến thị trường bất lợi, một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy
sẽ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi. Tuy nhiên, nhìn dưới giác độ
khác, tính chất “đa dạng, phong phú” lại trở thành “nhỏ lẻ manh mún”. Có
những doanh nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến
hàng chục khoản mục từ xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ thiết kế, tư vấn,…
nên tính chuyên nghiệp không cao. Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy
theo thương vụ, thường xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng, sản phẩm, dịch vụ mà
doanh nghiệp cung cấp nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
Thứ ba, như đã nói ở trên, DNVVN thường được quản lý theo kiểu “gia
đình”. Giám đốc các doanh nghiệp chính là chủ doanh nghiệp; nhân viên kế toán
là anh em họ hàng đi học các lớp ngắn hạn rồi về “giúp” Kiểu quản lý như vậy
có yếu tố tích cực nhưng cũng nhiều yếu tố tiêu cực.
Điểm tốt là ở chỗ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận
cao. Doanh nghiệp có số lao động ít nên cơ cấu tổ chức cũng gọn nhẹ, linh hoạt.
Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người
lao động khá chặt chẽ. Do quy mô nhỏ, số lượng lao động ít nên không có nhiều
các khâu trung gian. Lãnh đạo doanh nghiệp dễ nắm bắt tình hình tác nghiệp của
đơn vị mình; các quyết định, chỉ đạo của họ cũng nhanh chóng đến với người
lao động, giảm độ trễ giữa các khâu tạo ra; công tác kiểm tra, giám sát cũng
nhanh chóng, hiệu quả và ít chi phí hơn.
Không tốt ở chỗ, cũng chính vì quy mô vừa và nhỏ nên nhiều doanh nghiệp
chưa quan tâm đến việc xây dựng nội quy lao động để đưa người lao động vào
một “khuôn khổ, quy củ” nhất định. Doanh nghiệp được quản lý chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm, nên ngoài hạn chế về vốn, còn bị hạn chế cả về trình độ, công
nghệ. Phần lớn các DNVVN hiện nay hoạt động trong tình trạng thiếu cập nhật
thông tin. Do thiếu am hiểu về thị trường và luật pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu nên khả năng tiếp cận với thị trường rất khó khăn. Hiện nay,

Việt Nam đang vận động gia nhập WTO, điều đó đồng nghĩa với cạnh tranh
khốc liệt gấp bội ngay cả trên sân nhà nhưng thực sự các doanh nghiệp vẫn chưa
có sự chuẩn bị hợp lý.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện
nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị,
các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử
dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc
hậu. Đại đa số những người chủ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có kiến
thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và
chuyển giao công nghệ. Với nhiều người, mua công nghệ chỉ đơn giản là mua
máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các
phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một
phần là do thiếu vốn, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư nhỏ giọt, làm
từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải
tiến Những yếu điểm này, thêm vào đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phải
gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng nên không ít
doanh nghiệp đã thất bại. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là
yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay.
Nhiều DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do
yếu kém về quản trị doanh nghiệp, nên các báo cáo tài chính không đáp ứng
được yêu cầu. Bên cạnh đó, vẫn còn có những doanh nghiệp lập báo cáo tài
chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế, nên đã cố tình làm giảm khấu hao, tăng
sản phẩm dở dang, nợ treo…Một số doanh nghiệp khác còn làm trái chức năng
được cấp phép, làm trái pháp luật, sử dụng giấy tờ có giá để lừa cơ quan quản lý
nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Những
“tai tiếng” này khiến DNVVN khó tiếp cận vốn ngân hàng, còn ngân hàng thì dù
muốn nhưng vẫn ngại cho DNVVN vay vốn.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế.

Không ai có thể phủ nhận, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan
trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia. Theo các con số thống
kê, ở hầu hết các quốc gia, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm trên 90% số
lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời doanh nghiệp vừa và nhỏ
tạo công ăn việc làm cho hơn 50% hoặc thậm chí tới 2/3 lực lượng lao động ở
mỗi quốc gia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng góp từ 1/4 đến 1/3 giá trị
GDP hàng năm, con số này lần lượt ở Pháp, Mỹ, Bỉ là 45%, 39%, 36%. Ở Việt
Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90% trong tổng số 9 vạn doanh nghiệp
của cả nước, mỗi năm đóng góp khoảng 30% GDP. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
góp khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64%
tổng lượng vận chuyển hàng hoá và 100% giá trị sản lượng hàng hoá một số
ngành như: chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.
DNVVN là bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực sẵn có
của đất nước. Các doanh nghiệp này đặc biệt có khả năng khai thác các nguồn
vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong dân cư, thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc
lao động tạm thời nhàn rỗi do công việc có tính chất thời vụ, nhanh chóng tiếp
thu và làm chủ kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến.
Phát triển DNVVN là cách tốt nhất để giảm tỷ lệ thất nghiệp và tệ nạn xã
hội. Thực tế cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua, năm
cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1.6 triệu lao động. Trong khi đó theo số
liệu hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tạo ra việc làm cho khoảng 50 –
80% lao động trong các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều
thời kỳ, khi các doanh nghiệp lớn sa thải số lượng lớn công nhân thì khu vực
doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ.
Phát triển DNVVN là giảm cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Các
DNVVN thu hút lượng lớn nguồn vốn trong dân. Tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán,
do yêu cầu vốn yêu cầu ban đầu không nhiều nên chủ DNVVN có thể tận dụng
vốn của bản thân, bạn bè, gia đình…Mặt khác, các DNVVN ở nông thôn sẽ thu

hút nhiều lao động chưa có việc làm, lao động tạm thời nhàn rỗi theo thời vụ vào
sản xuất – kinh doanh, rút dần lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp -
dịch vụ nhưng vẫn sống ở quê hương mà không di chuyển, theo phương châm:
“ly nông bất ly hương”. Một điều hết sức quan trọng nữa là: các DNVVN cũng
là yếu tố chủ đạo giúp phát huy nghề truyền thống, làm thay đổi bộ mặt làng
quê; trong các làng nghề truyền thống đã hình thành nhiều DNVVN nhằm tìm
kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, đóng góp không
nhỏ vào sự phát triển của làng nghề.
Phát triển DNVVN làm mạnh thêm các doanh nghiệp lớn, tạo ra sự phân
cấp sản xuất (Doanh nghiệp lớn thiết kế, lắp ráp; doanh nghiệp nhỏ gia công phụ
kiện).
Theo báo “Người lao động”, 12/9/2002: Ở Việt Nam cũng như các nước,
DNVVN là xương sống của nền kinh tế, đóng góp hơn 70% tổng sản lượng quốc
nội (GDP), tạo công ăn việc làm cho 90% lao động xã hội.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2. Tín dụng ngân hàng với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2.1. DNVVN, thị trường mục tiêu hiện tại của rất nhiều NHTM
Trước đây, các ngân hàng tranh giành gay gắt thị phần khách hàng doanh
nghiệp nhà nước, các tổng công ty lớn. Hiện nay, cơ chế ngày càng mở theo
hướng nâng cao năng lực tự chủ của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng hơn,
khu vực kinh tế tư nhân đang mở rộng và phát triển rất năng động. Đa phần các
ngân hàng đã tiến công vào đối tượng DNVVN đang đói vốn và chưa được phục
vụ đúng mức.
Ngoài hệ thống mạng lưới rộng khắp của các ngân hàng thương mại quốc
doanh, tính đến 31/7/2005, trên địa bàn Hà Nội, khối ngân hàng TMCP, có 6 hội
sở chính, 19 chi nhánh cấp 1, 71 chi nhánh cấp 2, 27 phòng giao dịch. Cuộc
chiến giữa các ngân hàng đang rất quyết liệt. Tất cả các ngân hàng cổ phần đều
nhằm thị trường mục tiêu là khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn tập trung chăm sóc các tổng công ty,

các doanh nghiệp lớn nhưng cũng bắt đầu mở rộng cho vay DNVVN.
Xin đưa ra 4 lý do giải thích về việc các ngân hàng thương mại chú trọng
thị trường DNVVN như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước giới hạn khả năng cho vay một khách
hàng doanh nghiệp trong phạm vi 15% vốn tự có của Ngân hàng thương mại.
Các Ngân hàng cổ phần có quy mô vốn tự có thấp, thì khả năng cho vay cũng
nhỏ, phù hợp với nhu cầu của DNVVN và cá nhân.
Thứ hai, DNNN chủ yếu tìm đến các ngân hàng thương mại quốc doanh
không chỉ bởi mối quan hệ từ nhiều năm mà còn bởi sự tương xứng về quy mô.
Ngoài ra, còn một lý do tế nhị, tại các ngân hàng này, sự hậu thuẫn vay vốn của
Nhà nước là lớn nhất. Nhưng so với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc
doanh, tỷ trọng số đầu DNNN đang nhỏ dần. Thị trường DNVVN mới là thị
trường rộng lớn và phát triển nhanh chóng. Các ngân hàng thương mại quốc
doanh không thể thờ ơ với DNVVN mãi.
Thứ ba, thực tế đã chứng minh, DNVVN mới chính là động lực của nền
kinh tế. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, quan liêu.
Do còn bất cập trong giải quyết mối quan hệ giữa người sở hữu và người quản
lý, nên nỗ lực kinh doanh của DNNN không bằng DNVVN. Hiệu quả sử dụng
vốn giảm dần theo quy mô, các DNVVN tự chủ hơn nên dám dấn thân vào các
hoạt động rủi ro hơn. Tỷ suất lợi nhuận của khối DNVVN cao hơn hẳn.
Thứ tư, các DNVVN đang nhận được nhiều hơn các chính sách ưu đãi cả
từ Nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IFC. Ở nhiều nước đã có
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
các tổ chức đứng ra nhận bảo lãnh vay vốn cho các DNVVN khi đáp ứng được
một số điều nhất định mà tổ chức này đặt ra. Chính sách thuế hay hành lang
pháp lý cũng được các chính phủ quan tâm sao cho ngân hàng thương mại có thể
nới lỏng hơn điều kiện cho vay DNVVN của mình. Tại Việt Nam, với những
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế trong những năm qua, các
DNVVN đã được qua tâm hơn và nhìn nhận bình đẳng hơn. Đảng, Nhà nước đã

đánh giá đúng đắn tiềm năng, vai trò và tầm quan trọng của các DNVVN. Vì
vậy, gần đây đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích và kích thích sự phát
triển của các DNVVN: Nghị định 90/2001/NĐ –CP (ngày 23/11/2001) về việc
trợ giúp phát triển DNVVN, quyết định 12/2003/QĐ – TTg (ngày 17/01/2003)
về hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN, ngành ngân hàng cũng đã đề ra
nhiều chính sách thích ứng cho việc tài trợ cho DNVVN.
1.1.2.2. DNVVN khó tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng
Hiện nay, thị trường OTC, thị trường chứng khoán dành cho DNVVN, đã
ra đời. Các DNVVN đã có thêm một kênh huy động vốn mới. Tuy nhiên, thị
trường OTC nói riêng và thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung chưa có
ảnh hưởng đáng kể đến thị phần tín dụng của các ngân hàng thương mại. Vậy
mà, nguồn tín dụng ngân hàng vẫn chỉ xếp thứ hai sau nguồn huy động từ gia
đình bạn bè hay từ chính các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Điều này có vẻ như mâu thuẫn với thực tế các Ngân hàng thương mại chú
trọng thị trường DNVVN, vậy nguyên nhân do đâu?
Nguyên nhân đầu tiên kể đến xuất phát chính từ các DNVVN, trong phần
đặc điểm DNVVN, người viết đã lồng ghép vào đó phần đánh giá ảnh hưởng
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
của các đặc điểm tới khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, ở đây xin
không nhắc lại.
Nguyên nhân thứ hai đến từ phía ngân hàng. Ngân hàng đã xác định
DNVVN là thị trường mục tiêu, tất nhiên họ mong muốn cấp được nhiều khoản
vay cho các DNVVN. Nhưng cho vay DNVVN, với những đặc điểm trên, là
hoạt động khá nhiều rủi ro. Trong khi năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng
còn yếu.
Thứ nhất, hệ thống thông tin khách hàng của ngân hàng còn thiếu và bị sai
lệch. Doanh nghiệp vừa và nhỏ uy tín còn thấp, hơn nữa, đây là khu vực chứa
đựng các doanh nghiệp ma, tồn tại thực hư không xác định, cộng thêm đó là tấm
gương kinh điển từ vụ Minh Phụng – Epco khiến các DNVVN bị ngân hàng

“ngại”.
Cũng do thông tin thiếu và sợ rủi ro, nên các loại hình cho vay mà ngân
hàng cung cấp chưa thoả mãn nhu cầu của DNVVN, hơn nữa thời gian xét duyệt
khoản vay còn quá dài, DNVVN lại thường yếu thế trong đàm phán các điều
kiện vay vốn do không thông thạo thủ tục, chính sách của ngân hàng, điều này
đẩy nhiều doanh nghiệp đến lựa chọn nguồn tài trợ phi ngân hàng.
Khả năng thẩm định năng lực khách hàng chưa cao, các ngân hàng chưa có
cái sàng để lọc ra đâu là khách hàng tốt, đâu là khách hàng xấu nên nhiều doanh
nghiệp làm ăn chân chính, hiệu quả vẫn bị bác đơn vay.
1.1.2.3. Đặc điểm các khoản tín dụng ngân hàng dành cho DNVVN.
Để bảo vệ mình trong việc cho vay, các ngân hàng đặt ra những điều kiện
khá khó với DNVVN, như lãi suất cao, phải có TSĐB, …mặc dù có những
doanh nghiệp kinh doanh tốt, đạt doanh số và nộp thuế rất cao nhưng các ngân
hàng vẫn không dám mạnh dạn cho vay, nhất là đối với khoản vay lớn không có
tài sản thế chấp. Các khoản tín dụng mà DNVVN hiện nay nhận được từ ngân
hàng thường có đặc điểm sau:
Về mức cho vay DNVVN: Theo nguyên tắc, mức cho vay của tổ chức tín
dụng (TCTD) đối với doanh nghiệp phụ thuộc vào tổng mức đầu tư dự án và
hiệu quả cũng như hệ số nợ của doanh nghiệp. Nhưng theo điều tra thực tế, mức
cho vay đối với DNVVN lại phụ thuộc vào giá trị tài sản thế chấp và thành phần
kinh tế. DNNN được vay vốn với mức cao hơn doanh nghiệp dân doanh trong
khi hiệu quả kinh doanh của DNNN lại thấp hơn, mặc dù về mặt lý thuyết thì
không có sự phân biệt này. Do giá trị tài sản cầm cố, thế chấp thấp nên mức vốn
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
được vay nhỏ, vì vậy hầu hết các DNVVN đều thiếu vốn nghiêm trọng cả hiện
tại và tương lai. Mặc dù cho đến nay đã có nhiều ngân hàng cung cấp vốn tín
dụng và hoạt động khá sôi nổi, nhưng dường như phần đông DNVVN vẫn còn
xa lạ với kênh dẫn vốn quan trọng này. Do vậy để có đủ vốn cho sản xuất kinh
doanh, DNVVN phải vay từ nhiều nguồn khác nhau với lãi suất cao và bị động,

nên nhiều cơ hội đầu tư đã không được đón bắt kịp thời hoặc bị bỏ qua.
Về thời hạn vay vốn: Hầu hết các DNVVN vay vốn để đầu tư mua sắm máy
móc, thiết bị, nên cần những khoản vốn vay dài hạn. Trong khi đó ngân hàng
thích cung cấp các khoản vay ngắn hạn nhằm tạo cân đối với nguồn huy động và
tránh rủi ro tiềm tàng từ đối tượng khách hàng này. Tình trạng doanh nghiệp sử
dụng vốn vay sai mục đích cũng có phần từ chính những bất cập này.
Về đảm bảo tiền vay: Hầu như toàn bộ các khoản tín dụng Ngân hàng cấp
cho DNVVN đều yêu cầu tài sản đảm bảo.
Về lãi suất cho vay: Lãi suất mà các ngân hàng áp dụng với DNVVN còn
cao, một phần vì yếu tố rủi ro, một phần vì khoản vay quy mô nhỏ thì chi phí
trên một đồng vốn cho vay càng lớn trong khi ngân hàng chưa có biện pháp hữu
hiệu để tiết kiệm.
1.2. Phương pháp chấm điểm tín dụng tại NHTM
1.2.1. Khái niệm và mục đích chấm điểm tín dụng doanh nghiệp
Chấm điểm tín dụng là một quá trình đánh giá khả năng thực hiện các
nghĩa vụ tài chính của một doanh nghiệp đối với ngân hàng cho vay như trả lãi
và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định mức rủi ro trong hoạt động cung cấp
tín dụng của ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng
khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa
vào thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của doanh nghiệp tại thời điểm
chấm điểm. Điểm mấu chốt của hệ thống chấm điểm tín dụng là quy việc đánh
giá khách hàng vay vốn từ nhiều yếu tố về chỉ một yếu tố “điểm tín dụng”, từ
điểm tín dụng có thể đánh giá đâu là khoản cho vay tốt, xấu.
Chấm điểm tín dụng giúp đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình hoạt
động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của
doanh nghiệp, căn cứ vào đó ngân hàng ra các quyết định cho vay như hạn mức
tín dụng, số tiền cho vay, thời hạn, lãi suất.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Chấm điểm tín dụng cũng giúp quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, có thể

giám sát và đánh giá khách hàng, nhận biết các dấu hiệu xấu và có biện pháp đối
phó kịp thời, ước lượng mức vốn đã cho vay không thể thu hồi về để trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng đồng thời phát triển chiến lược Marketing hướng tới khách
hàng có ít rủi ro hơn.
1.2.2. Nội dung phương pháp chấm điểm tín dụng
1.2.2.1. Nguyên tắc chấm điểm tín dụng
Bảng chấm điểm phải gồm cả chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, số lượng
và nội dung các chỉ tiêu phải lựa chọn ở mức hợp lý để đảm bảo đánh giá chính
xác khả năng và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp.
Thang điểm tín dụng phải được phân chia thành các khoảng hạng mức tín
nhiệm. Các khoảng điểm này phải được mô tả bằng các đặc tính rủi ro tương
ứng.
Thông tin về doanh nghiệp vay vốn được đưa vào bảng chấm điểm phải
chuẩn xác, các tiêu chí phải được xác định với thái độ độc lập và thận trọng cần
thiết.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sử dụng
các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí để chấm điểm tín dụng:
+ Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số
thực tế gắn với trị số nào gần nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm
giữa hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
+ Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng
100% giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn,
thì cả doanh nghiệp và bên bảo lãnh cùng được NH cho vay chấm điểm tín
dụng; khách hàng đã có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạng tín dụng
của bên bảo lãnh. Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống
như quy trình áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ
cần tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng cho chính khách hàng.
Phải có sự kết hợp giữa kết quả chấm điểm tín dụng tự động trên máy và
phân tích đánh giá của chính cán bộ tín dụng để có cái nhìn toàn diện nhất về
khả năng của khách hàng.

1.2.2.2. Quy trình chấm điểm tín dụng
Quy trình gồm các bước cơ bản sau:
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Bước 1: Thu thập thông tin
Để có thông tin sử dụng cho chấm điểm, cần phải thu thập thông tin toàn
diện về khách hàng. Có thể thu thập thông tin từ các nguồn như hồ sơ vay vốn
của khách hàng, thông tin lưu trữ tại ngân hàng (đây sẽ là nguồn đáng tin cậy
nếu hoạt động xử lý và lưu trữ thông tin trước đó chính xác, an toàn), thông tin
từ các cuộc điều tra phỏng vấn trực tiếp, thông tin thu thập được từ các nguồn
khác như Ngân hàng bạn, bạn hàng hay đối thủ cạnh tranh của khách hàng, qua
trung tâm thông tin tín dụng quốc gia, phương tiện thông tin đại chúng, hay
thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan thuế, kiểm toán….
Nguồn thông tin chính thức chủ yếu và quan trọng nhất là từ hệ thống báo
cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cần lưu ý số liệu trên báo cáo tài chính
chưa hẳn đã tin cậy nếu chưa được kiểm toán, do vậy, các số liệu này phải được
xem xét cẩn thận với thái độ nghi ngờ cần thiết, thông tin được thu thập từ
những nguồn như trực tiếp khảo sát thực tế, thông tin từ công ty kiểm toán, từ cơ
quan quản lý, dịch vụ thông tin… sự chính xác và toàn diện của thông tin là yếu
tố quyết định đến chất lượng kết quả chấm điểm.
Các nguồn thông tin không chính thức như: Thông tin từ các đối thủ cạnh
tranh, các nhà cung cấp yếu tố đầu vào, khách hàng, các đại lý tiêu thụ… của
doanh nghiệp. Thông tin thu thập từ các nguồn này đòi hỏi phải được gạn lọc,
xác định độ tin cậy bằng các phương pháp khác nhau, để đảm bảo tính khách
quan trong chấm điểm tín dụng.
Bước 2: Xác định lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Việc phân loại ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần
thiết. Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ không được thấy rõ nếu chỉ dựa vào
kết quả riêng biệt của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp có tỷ lệ tăng

trưởng 20%/năm có thể được coi là có vị thế tốt song nếu ngành nghề nó hoạt
động có mức tăng trưởng 40%/năm thì dẫn đến một kết luận khác, doanh nghiệp
có vị thế cạnh tranh yếu. Chính vì thế, việc chấm điểm tín dụng của doanh
nghiệp phải được đặt trong bối cảnh ngành.
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà phân chia nhóm ngành theo mức độ chi
tiết khác nhau. Báo cáo tín dụng có thể phân chi tiết tới 9, 10 ngành nghề kinh tế
(Ví dụ, hiện nay Habubank quản lý dư nợ phân theo 9 ngành nghề kinh tế là
Nông lâm nghiệp; thuỷ sản; công nghiệp mỏ; Sản xuất và phân phối điện, khí
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
đốt, nước; công nghiệp; xây dựng; thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải,
kho bãi, thông tin liên lạc) nhưng có thể chỉ cần xây dựng khoảng bốn biểu điểm
khác nhau cho các gói ngành nghề lớn hơn như nông, lâm và ngư nghiệp;
thương mại và dịch vụ; xây dựng; công nghiệp.
Ví dụ: Bảng hướng dẫn phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề trong
quy trình chấm điểm tín dụng của Ngân hàng Công thương
Nông, lâm ngư nghiệp - Chăn nuôi
- Trồng trọt: cây lương thực, hoa màu, cây ăn
quả, cây công nghiệp
- trồng rừng
- Khai thác lâm sản
- Đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản
- Làm muối
Thương mại, dịch vụ - Cảng sông, biển
- Khách sạn, nhà hàng, giải trí. Du lịch
- Siêu thị, đại lý phân phối, kinh doanh , bán
buôn bán lẻ các loại nông sản, lâm sản, thuỷ
sản, thực phẩm, rượu bia, dược phẩm, mỹ
phẩm…
- In ấn, xuất bản sách, báo chí

- sửa chữa nhà cửa, các loại máy móc, phương
tiện truyền thông
- Chăm sóc sức khoẻ, làm đẹp
- Tư vấn, môi giới
- Thiết kế thời trang, gia công máy móc
- Bưu chính viễn thông
- Vận tải đường bộ, đường sông, đường biển,
đường không
- Vệ sinh môi trường, văn phòng…
-
Xây dựng - Hạ tầng giao thông, khu công nghiệp
- Hạ tầng đô thị và nhà ở
- Xây lắp (XDCB)
Công nghiệp - Chế biến các loại nông sản, lâm sản, thuỷ sản,
thực phẩm rượu bia
- Sản xuất thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ
phẩm, văn hoá phẩm, hàng tiêu dùng, mỹ
nghệ…
- Sản xuất lắp ráp hàng điện tử, máy móc…
- Sản xuất điện, khí đốt
- Khai thác khoáng sản
- Khai thác than, vật liệu xây dựng (cát, đá, …)
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Việc phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề/lĩnh vực sản xuất kinh doanh
căn cứ vào ngành nghề/lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính trên giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
lưu ý, ít doanh nghiệp chuyên sâu vào một hoạt động mà đăng ký đa ngành
nghề, thực hiện rất nhiều các hoạt động khác nhau. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường rất linh hoạt để thích ứng với diễn biến của thị trường nên nhiều khi kết

quả xác định có thể khác với lĩnh vực đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Bước 3: Chấm điểm quy mô doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có quy mô về vốn, tài sản, lao động khác nhau cũng có sự
khác biệt tương đối rõ nét. Những doanh nghiệp có ưu thế về quy mô sản xuất,
tiềm năng nhân sự và tiềm lực tài chính thì việc thực hiện nghĩa vụ nợ với ngân
hàng được đánh giá là có khả năng tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Vì
vậy việc xếp loại doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng về tín dụng
giữa các doanh nghiệp, việc so sánh đó phải đặt trong điều kiện quy mô cùng
loại.
Quy mô của doanh nghiệp có thể xác định dựa vào các tiêu chí như vốn,
lao động, doanh thu thuần hay giá trị nộp ngân sách.
Vốn có thể được xác định dựa vào vốn chủ sở hữu trong bảng tổng kết tài
sản.
Lao động là số lao động thực tế sử dụng (được nêu trong thuyết minh báo
cáo tài chính) tính bình quân trong 3 năm gần nhất, nếu doanh nghiệp mới đi vào
hoạt động chưa đến 3 năm thì tính bình quân cho toàn bộ số năm hoạt động.
Giá trị nộp NSNN: Căn cứ bảng Tình hình thực hiện nghĩa vụ NSNN trong
báo cáo tài chính. Lấy theo số thực nộp vào NSNN theo số phát sinh trong kỳ
(không kể số thiếu của kỳ trước nộp kỳ trước nộp kỳ này) bao gồm các loại thuế
và các khoản nộp khác theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không
tính các khoản thuế xuất nhập khẩu, đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn, các khoản tiền phạt, phụ thu).
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Ví dụ: Bảng chấm điểm quy mô doanh nghiệp Ngân hàng Ngoại thương
STT Tiêu chí Nội dung Điểm
Điểm
đạt
được

1 Vốn
Hơn 50 tỉ đồng
Từ 40 đến 50 tỉ đồng
Từ 30 đến 40 tỉ đồng
Từ 20 đến 30 tỉ đồng
Từ 10 đến 20 tỉ đồng
Dưới 10 tỉ đồng
30
25
20
15
10
5
2 Lao động
Hơn 1.500 người
Từ 1000 đến 1500 người
Từ 500 đến 1000 người
Từ 100 đến 500 người
Từ 50 đến 100 người
Ít hơn 50 người
15
12
9
6
3
1
3 Doanh thu thuần
Hơn 200 tỉ đông
Từ 100 đến 200
Từ 50 đến 100

Từ 20 đến 50
Từ 5 đến 20
Dưới 5 tỉ đồng
40
30
20
10
5
2
4
Nghĩa vụ đối với
nhà nước
Hơn 10 tỉ đồng
Từ 7 đến 10 tỉ đồng
Từ 5 đến 7 tỉ đồng
Từ 3 đến 5 tỉ đồng
Từ 1đến 3 tỉ đồng
Dưới 1 tỉ đồng
15
12
9
6
3
1
Bước 4: Chấm điểm tài chính.
Hệ thống chấm điểm tín dụng sẽ chứa các bảng chấm điểm tài chính. Căn
cứ vào lĩnh vực SXKD và quy mô của doanh nghiệp để lựa chọn bảng chấm cho
thích hợp và tiến hành chấm điểm theo bảng.
Để đánh giá độ an toàn tài chính của một doanh nghiệp các tổ chức và ngân
hàng thương mại trên thế giới sử dụng nhiều hệ số tài chính khác nhau tuỳ theo

từng quốc gia, chủ thể và khách thể chấm điểm cụ thể.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Theo nghiên cứu của tiến sỹ Trần Thị Kỳ - trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, bảng chấm điểm phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay nên có 11 chỉ tiêu tài chính, chia thành 4 nhóm, gồm: nhóm chỉ tiêu
thanh toán, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh và cơ
cấu tài chính và nhóm chỉ tiêu về sự tăng trưởng quy mô.
A- Nhóm chỉ tiêu thanh toán
Phân tích các chỉ tiêu trong nhóm này, là cơ sở để ngân hàng thương mại,
đánh giá khả năng thanh toán khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp trong tương
lai gần và khả năng thanh toán ngay các khoản vay ngắn hạn đến hạn.
Nhóm này gồm hai chỉ tiêu: Hệ số thanh toán ngắn hạn được thiết kế trên
cơ sở so sánh tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với nợ ngắn hạn; và hệ số
thanh toán nhanh: so sánh giữa tài sản có tính thanh khoản cao với nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Hệ số này phản ánh mức đảm bảo tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn để
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh toán
càng cao và ngược lại.
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số thanh toán nhanh phản ánh mức đảm bảo của các tài sản có tính
thanh khoản cao (tiền, đầu tư tài chính, phải thu) cho các khoản nợ ngắn hạn đến
hạn. Khi tính chỉ tiêu này để đưa vào bảng chấm, ngoài loại trừ Hàng tồn kho
còn nên loại trừ dự phòng phải thu khó đòi, trả trước người bán….
Khi phân tích hai chỉ tiêu này cần chú ý đến đặc điểm hoạt động kinh
doanh của các ngành khác nhau và phải loại trừ một số khoản ra khỏi công thức
phân tích để đảm bảo độ chính xác.
B- Nhóm chỉ tiêu hoạt đông
Nhóm này gồm 2 chỉ tiêu: thời gian luân chuyển hàng tồn kho (hoặc vòng
quay hàng tồn kho) và kỳ thu tiền bình quân, những chỉ tiêu này cần đưa vào hệ

thống chỉ tiêu chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp vay vốn, vì thông qua phân
tích 2 chỉ tiêu trên sẽ giúp ngân hàng đánh giá chất lượng sử dụng và quản lý
hàng tồn kho và nợ phải thu, khả năng chuyển đổi những tài sản này ra tiền
nhanh hay chậm, kết hợp với nhóm chỉ tiêu A, sẽ giúp ngân hàng đánh giá chính
xác hơn khả năng thanh toán nợ vay ngân hàng.
Khi phân tích các chỉ tiêu này cần chú ý đến đặc điểm kinh doanh của
ngành, chính sách bán hàng của doanh nghiệp.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
C- Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh và cơ cấu tài chính
Chấm điểm các chỉ tiêu trong nhóm này, sẽ giúp ngân hàng đánh giá khả
năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp bao gồm cả vốn gốc và lãi vay,
trên cơ sở phân tích tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mạnh hay yếu, hiệu quả
sản xuất kinh doanh tốt hay xấu, mức độ đảm bảo vững chắc cho việc hoàn trả
các khoản nợ vay trước những biến cố bất lợi, bất ngờ có thể xảy ra đối với
doanh nghiệp.
Nhóm này gồm các chỉ tiêu: Hệ số nợ, Hệ số lợi nhuận trên tài sản, Hệ số
lãi vay, xu hướng tăng lợi nhuận và hệ số lợi nhuận trên doanh thu
D- Nhóm chỉ tiêu về quy mô và sự tăng trưởng
Nhóm chỉ tiêu này gồm 4 chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng về doanh thu, lợi
nhuận, quy mô vốn và doanh thu.
Phân tích các chỉ tiêu trong nhóm này sẽ giúp ngân hàng đánh giá mức độ
an toàn của khoản tín dụng, qua việc xem xét sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình sản xuất kinh doanh có vững mạnh và ổn định không? Điều này
không chỉ là cơ sở cho khoản tín dụng được hoàn trả ở mức độ nào.
Tham khảo bảng chấm điểm của một số các ngân hàng lớn, Ngân hàng
Công thương Việt Nam và ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và phát
triển, Nông nghiệp đều lựa chọn 11 chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu thanh khoản:
1. Khả năng thanh toán hiện hành

2. Khả năng thanh toán nhanh
Chỉ tiêu cân nợ:
3. Nợ phải trả/Tổng tài sản
4. Nợ phải trả/ Nguồn vốn CSH
5. Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ NH
Chỉ tiêu hoạt động:
6. Vòng quay hàng tồn kho
7. Kỳ thu tiền bình quân
8. Doanh thu/ Tổng tài sản
Chỉ tiêu thu nhập:
9. Tổng TNTT/ Doanh thu thuần
10. Tổng TNTT/ Tổng tài sản
11. Tổng TNTT/ Nguồn vốn CSH
Trong khi đó, thậm chí các Ngân hàng thương mại cổ phần còn có xu
hướng giảm bớt số lượng các chỉ tiêu tài chính để phân tích khả năng trả nợ của
khách hàng. Bảng chấm điểm của các ngân hàng này đơn giản chỉ chấm các chỉ
tiêu về thanh khoản kết hợp với chỉ tiêu hệ số nợ trên tổng nguồn, chỉ tiêu lợi
nhuận ròng và ROE hay một tập hợp con khác của bảng 11 chỉ tiêu trên mà đơn
vị chấm điểm đánh giá thấy phù hợp.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Ví dụ, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) sử dụng 5 chỉ tiêu sau để
phân tích:
Nhóm chỉ tiêu tỷ số thanh khoản
1. Khả năng thanh toán ngắn hạn
2. Khả năng thanh toán nhanh
Nhóm chỉ tiêu cân nợ
3. Tỷ số nợ = Tổng nợ/Tổng nguồn vốn
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
4. Lợi nhuận ròng

5. Tỷ suất lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở hữu
Vậy tại sao lại không chấm điểm toàn bộ các chỉ tiêu tài chính? Đó là do
mối quan hệ giữa các chỉ tiêu. Có thể thấy ngay cả khi giới hạn trong 11 chỉ tiêu
mà bảng châm điểm của các NHTMQD sử dụng, vẫn tồn tại ít nhất một quan hệ
giữa các chỉ số: Doanh thu thuần/tổng tài sản (chỉ số 5); tổng số nợ/Tổng tài sản
(chỉ số 6); Tổng số nợ/Vốn chủ sở hữu (chỉ số 7); Tổng thu nhập trước thuế/vốn
chủ sở hữu (chỉ số 10). Dễ nhận thấy rằng:
x x = x
Tức là:
Chỉ số 5 x Chỉ số 7 x Chỉ số 9 = Chỉ số 6 x Chỉ số 10
Qua đó thấy rằng một trong các chỉ số đó là do các chỉ số còn lại quy định.
Trong khi đó, để đảm bảo cho mô hình có khả năng dự đoán tốt, yêu cầu quan
trọng là các biến giải thích phải độc lập với nhau hoặc có hệ số tương quan rất
nhỏ. Nên nếu trong mô hình tồn tại các biến giải thích không độc lập với nhau sẽ
làm giảm tính chính xác và dự đoán và ta hoàn toàn có thể phá vỡ chuỗi tương
quan bằng cách bỏ bớt chỉ số đi.
Việc lựa chọn chỉ số nào để phản ánh độ vững mạnh tài chính của doanh
nghiệp, sẽ không chỉ là sự lựa chọn, phân tích mang tính chất định tính mà cần
phải có sự bám sát, sử dụng mô hình kinh tế lượng. Tuy nhiên, dù bảng chấm
điểm các chỉ số tài chính có giảm xuống 10 chỉ số hay ít hơn, thậm chí cũng có
thể tăng thêm một vài chỉ số tài chính khác thì việc đánh giá năng lực thực hiện
nghĩa vụ tài chính của khách hàng với ngân hàng ít nhất phải đảm bảo thông qua
4 nhóm chỉ tiêu cơ bản về thanh toán, cơ cấu vốn, khả năng sinh lời, hiệu quả
hoạt động như trên.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Ví dụ: Bảng chấm điểm tài chính các doanh nghiệp trong ngành Thương
mại và dịch vụ của Ngân hàng Ngoại thương (phụ lục 1)
Bước 5: Chấm điểm phi tài chính
Bên cạnh chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu phi tài chính là rất cần thiết đối với

ngân hàng. Bởi vì chỉ tiêu tài chính mới chỉ là thông tin số phản ánh chủ yếu
tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm nào đó, nó có rất ít căn cứ để
dự báo về doanh nghiệp trong tương lai. Trong khi đó,“sức khoẻ” doanh nghiệp
trong thời gian sử dụng tài trợ mới là quan trọng để nhà đầu tư phán đoán tình
huống có thể xảy ra rủi ro dẫn đến không thu hồi được vốn. Vì vậy, việc chấm
điểm các chỉ tiêu này cũng nhằm góp phần đánh giá các khả năng tài chính của
doanh nghiệp trong tương lai.
Các phương diện phi tài chính cần chấm điểm:
 Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí lưu chuyển tiền tệ, hay còn gọi là chấm
điểm dòng tiền.
Ví dụ: Bảng chấm điểm dòng tiền ngân hàng Ngoại thương (phụ lục 2)
Tiêu chí dòng tiền hết sức quan trọng, bảng lưu chuyển tiền tệ là công cụ
cực kỳ hữu hiệu trong việc tính toán cơ cấu dòng thu chi tiền tệ, ảnh hưởng đến
vận mệnh một doanh nghiệp. Nó không bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc kế toán
như giá trị hàng tồn kho, hay giá vốn hàng bán….Không có cách nào (trừ khi
doanh nghiệp cố tình gian lận) che dấu lưu chuyển tiền tệ đối với nhân viên
phân tích tín dụng. Yêu cầu hàng đầu của phân tích tín dụng là đánh giá khả
năng và thiện chí hoàn trả tín dụng đối với người vay. Mà trị giá tài chính của
bất cứ doanh nghiệp hoặc tài sản nào cũng đều bắt nguồn từ dòng tiền tệ mà
người ta mong đợi doanh nghiệp hoặc tài sản đó đem lại. Khoản tiền vay sẽ chỉ
được trả nợ từ tiền mặt chứ không phải từ các con số ghi sổ của doanh thu, hệ số
lợi nhuận hay lợi nhuận. Cho nên ngân hàng trước hết quan tâm đến năng lực
của doanh nghiệp trong việc làm ra tiền mặt.
Khi đánh giá về dòng tiền của doanh nghiệp, người ta quan tâm đến các nội
dung như tổng số lưu chuyển tiền mặt, khả năng trang trải lãi vay từ kết quả hoạt
động kinh doanh, khả năng thanh toán lãi vay, nợ gốc từ nguồn tiền mặt, xu
hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ hay trạng thái lưu chuyển tiền từ
hoạt động sản xuất kinh doanh…
Tổng số lưu chuyển tiền mặt được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi
nhuận hoạt động trước khấu hao (1) .

Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Lợi nhuận hoạt động trước khấu hao = Lợi nhuận hoạt động + Khấu hao
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá nguồn hình thành tiền mặt đảm bảo khả năng
trả nợ.
Khả năng trang trải lãi vay từ kết quả hoạt động kinh doanh (2)
(2) = =
Khả năng thanh toán lãi vay từ nguồn tiền mặt (3)
(3) =
Đánh giá khả năng nguồn tiền mặt để trả nợ ngân hàng, không chỉ xem xét
khả năng nguồn tiền mặt để trả lãi tiền vay, mà phải xem xét khả năng nguồn
tiền mặt để hoàn trả vốn gốc thông qua chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền tệ trên tổng nợ
gốc.
Khả năng thanh toán nợ gốc từ nguồn tiền mặt (4)
(4) =
Xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ (5) được xác định
dựa trên việc so sánh số liệu dòng tiền thuần của ít nhất 3 năm gần nhất; nếu
không có số liệu thì 2 năm. Tuỳ theo mức trung bình ngành hoạt động mà ta có
ngưỡng để dựa vào đó đánh giá xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần là tăng
nhanh, tăng, ổn định, giảm hay âm. Ví dụ, xu hướng này được coi là tăng nhanh
khi tăng liên tục với tỷ lệ tăng trên 30%, là tăng khi vẫn tăng liên tục nhưng
dưới 30% và là ổn định nếu mức dao động tăng hoặc giảm hàng năm trong vòng
10% nhưng năm cuối tăng, xu hướng xấu nhất là khi giảm …Lưu chuyển tiền
thuần càng tăng nhanh là tốt nhất và âm là xấu nhất.
Trạng thái lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh (6) được
xác dựa vào việc so sánh dòng tiền thuần dương từ hoạt động sản xuất kinh
doanh với lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu dòng tiền thuần không
dương thì trạng thái được xác định là âm hoặc gần điểm hoà vốn. Trạng thái tốt
nhất là dòng tiền lớn hơn lợi nhuận thuần, trạng thái xấu nhất là dòng tiền âm.
Ngoài ra, một chỉ tiêu nữa cũng được quan tâm khi đánh giá dòng tiền của

doanh nghiệp là tỷ số giữa tiền và các khoản tương đương tiền/vốn chủ sở hữu.
 Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí quản lý
Tiêu chí này đặc biệt có ý nghĩa với việc đánh giá khả năng trả nợ của
doanh nghiệp, theo nhận định của các chuyên gia thì tiêu chí này có mức độ ảnh
hưởng mạnh đối với khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp ngoài quốc doanh hơn là
doanh nghiệp Nhà nước. Có thể giải thích về điều này như sau, ở các DNNN,
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
hoạt động quản lý điều hành được thực hiện trực tiếp bởi Tổng giám đốc, nhưng
có chỉ đạo từ xa của các cơ quan chức năng nên tính chủ động và linh hoạt trong
quản lý không cao. Ngược lại, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, như đã phân
tích ở trên, thường được quản lý theo kiểu gia đình, chủ doanh nghiệp chính là
giám đốc doanh nghiệp, nên yếu tố năng lực điều hành, đạo đức của giám đốc,
ban quản lý quyết định trực tiếp đến sự thành công hoặc thất bại của doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khả năng và thiện chí trả nợ
vay ngân hàng.
Các nội dung đánh giá về quản lý của doanh nghiệp như số năm kinh
nghiệm nói chung và kinh nghiệm trong ngành của Ban quản lý liên quan trực
tiếp đến phương án kinh doanh cần ngân hàng tài trợ vốn; các bằng chứng thành
tích hay thất bại của ban quản lý; về môi trường kiểm soát nội bộ; tính khả thi
của Phương án kinh doanh và dự toán tài chính…
Ví dụ: Bảng chấm điểm Quản lý ngân hàng Đầu tư và Phát triển (phụ lục
3)
 Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí tình hình và uy tín giao dịch với ngân
hàng.
Tình hình và uy tín trong giao dịch tín dụng và phi tín dụng đều cần được
đánh giá. Với giao dịch tín dụng, lịch sử vay vốn của doanh nghiệp tốt, trả nợ
đúng hạn trong một khoảng thời gian dài liên tục đến hiên tại khoảng từ ba năm
trở lên có thể là chứng minh cụ thể nhất cho năng lực kinh doanh và thiện chí trả
nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp như vậy rất có khả năng thực hiện

phương án kinh doanh đề xuất vay vốn có hiệu quả, đảm bảo hoàn trả tín dụng
đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, một doanh nghiệp thường xuyên xin gia
hạn nợ, trả nợ không đúng hạn hay không cung cấp thông tin đầy đủ và đúng
yêu cầu của ngân hàng không phải là đối tượng tin cậy để cho vay. Tuy nhiên,
một doanh nghiệp luôn hoàn trả nợ đúng hạn với ngân hàng chưa hẳn đã đáng
tin cậy. Trong điều kiện chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng thương mại chưa
tốt thì việc kiểm tra các giao dịch phi tín dụng như theo dõi tài khoản của doanh
nghiệp, việc lưu chuyển tiền của doanh nghiệp, cực kỳ có ý nghĩa.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
Ví dụ: Bảng chấm điểm uy tín giao dịch của VCB (phụ lục 4)
 Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí môi trường kinh doanh.
Cần phải phân tích tiêu chí này vì: tình hình cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường mạnh hay yếu đều ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp,
nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của ngân hàng.
Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp phải được phân tích không chỉ trong
hiện tại mà còn phải xét cả trong tương lai.
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra trên cả hai phương diện giá cả
và chất lượng sản phẩm, phụ thuộc chủ yếu vào số lượng đối thủ cạnh tranh và
đặc điểm công nghệ, độc quyền hay không độc quyền…
Đánh giá các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp như cấu trúc, số
lượng nhà cung cấp nguyên vật liệu, hàng hoá cùng những thoả thuận về giá cả,
chất lượng, sự ổn định, mạng lưới bán hàng, hệ thống sản xuất…Các điều kiện
cho kinh doanh và chất lượng sản phẩm tốt hay không đều sẽ ảnh hưởng tới yếu
tố cạnh tranh, doanh thu, lợi nhuận… của doanh nghiệp và ảnh hưởng liên đới
tới khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp.
Bước 6: Tổng hợp điểm cuối cùng và xếp hạng
Cán bộ chấm điểm tín dụng tổng hợp điểm bằng cách cộng tổng số điểm đã
chấm theo hướng trên. Sau khi tổng hợp điểm, Cán bộ chấm điểm tín dụng xếp
hạng khách hàng dựa vào quy đổi mức điểm ra hạng mức tín nhiệm.

VD: Bảng quy đổi điểm ra hạng mức tín nhiệm của NHCTVN
Tổng điểm
tín nhiệm
Xếp hạng Mô tả hạng
tín nhiệm
76 – 100 AAA
66 – 75 AAa
56 – 65 BBB
46 – 55 BBb
36 – 45 CCC
26 – 35 CCc
0 – 25 DDD
Bước 7: Trình phê duyệt kết quả
Sau khi hoàn tất việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng,
CBCĐTD lập tờ trình đề nghị Tổng giám đốc phê duyệt. Tờ trình phải được
trưởng (phó) phòng phát triển kinh doanh và giám đốc/ phó giám đốc quản lý tín
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
dụng tại chi nhánh kiểm tra và ký trước khi trình Giám đốc. Nội dung của tờ
trình phải có những ý cơ bản sau:
- giới thiệu thông tin cơ bản về khách hàng
- Phương pháp/mô hình áp dụng để chấm điểm tín dụng
- Tài liệu làm căn cứ để chấm điểm tín dụng
- Nhận xét /đánh giá của CBCĐTD dẫn tới kết quả chấm điểm và xếp
hạng khách hàng.
- Khi tờ trình được phê duyệt, kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng
khách hàng phải được cập nhật ngay vào hệ thống thông tin tín dụng của
ngân hàng.
- Trong mọi trường hợp, hồ sơ về khách hàng phải được lưu trữ một bản
Bảng các tiêu chí cơ bản để đánh giá điểm tín dụng của khách hàng và

bảng Tỷ lệ tài chính chuẩn.
1.2.3. Sự cần thiết phải chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vay vốn
1.2.3.1. Chấm điểm tín dụng xác định hạng mức rủi ro của doanh nghiệp đi
vay là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ
yếu của hệ thống các ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết các ngân hàng thì
dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng
chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Song tín dụng cũng
là hoạt động chứa đựng rủi ro lớn nhất trong ngân hàng
Rủi ro tín dụng là hiện tượng ngân hàng không thu hồi được đầy đủ , đúng
hạn hoặc mất khả năng thu hồi các khoản cho vay đã ghi trong hợp đồng tín
dụng, dẫn đến toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi vay bị tổn thất.
Hậu quả của rủi ro tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động chiếm khoảng 80% sử dụng vốn, 70% thu
nhập Ngân hàng thu được. Việc xảy ra rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến những hậu quả
sau:
♦ Làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút, giảm phần nộp ngân sách, hạn
chế tích luỹ để đầu tư hiện đại hoá công nghệ và đầu tư đào tạo lại cán bộ,
nâng cao trình độ. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí
là phải xoá nợ, bởi vì ngoài một phần được ngân sách nhà nước cấp bù thì
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
phần chủ yếu do các ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro, giảm thu
nhập.
♦ Hạn chế sức mạnh cạnh tranh do năng lực tài chính yếu kém, công nghệ
và trình độ hạn chế, uy tín với khách hàng giảm sút.
♦ Thu nhập của ngân hàng giảm dẫn tới tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu
của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá nếu không kịp thời chấn
chỉnh, sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là
điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế ban quản lý

ngân hàng.
Do hệ thống ngân hàng có vai trò đặc biệt với sự phát triển kinh tế xã hội,
và do rủi ro vỡ nợ của ngân hàng một khi đã xảy ra thường mang tính dây
chuyền có thể gây đổ vỡ hệ thống tài chính của một quốc gia. Những hậu quả
này đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn: thất nghiệp gia tăng, đời sống dân
chúng bị bần cùng, hoạt động kinh tế - xã hội bị rối loạn.
Đo lường rủi ro tín dụng là điều mà tất cả những người quản lý ngân hàng
rất quan tâm, bởi vì nếu đo lường được các rủi ro thì việc quản trị và phòng
ngừa rủi ro trở nên dễ dàng hơn. Mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng là nhằm
hạn chế và giới hạn rủi ro ở mức nhất định, để đạt lợi nhuận tối đa và bảo vệ sự
ổn định của hệ thống ngân hàng. Để đạt mục đích trên, ngân hàng phải xác định
được rủi ro hiện có và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Chấm điểm tín
dụng là phương pháp đo lường tín dụng hiệu quả mà các ngân hàng trên thế giới
áp dụng từ hơn hai thập kỷ nay. Mức điểm tín dụng mà doanh nghiệp đạt được
sẽ cho biết hạng mức rủi ro tín dụng của doanh nghiệp. Việc tiến hành chấm
điểm tín dụng được duy trì định kỳ cho khách hàng trong suốt thời kỳ khách
hàng có quan hệ với ngân hàng. Ảnh hưởng của chấm điểm tín dụng tới công tác
quản trị rủi ro tín dụng được thể hiện qua các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn trước khi cấp tín dụng
Khi doanh nghiệp đề nghị vay vốn, ngân hàng dựa trên nguồn thông tin thu
thập được về doanh nghiệp, sử dụng bảng chấm điểm tín dụng tự động phân tích
các yếu tố định lượng và định tính, để đo lường khả năng trả nợ và thiện chí trả
nợ của doanh nghiệp. Số điểm mà doanh nghiệp đạt được là cơ sở để xác định
hạng tín nhiệm các doanh nghiệp và kết quả này là một căn cứ quan trọng để
đưa ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Đồng thời dựa vào hạng mức để
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D
Luận văn tốt nghiệp
áp dụng các chính sách tín dụng thích hợp. Ví dụ, nếu doanh nghiệp ở mức rủi
ro tín dụng thấp thì ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi, ký quỹ để mở
L/C thấp; cho vay có thể không cần đảm bảo, áp dụng các điểu kiện trong hợp

đồng tín dụng nới lỏng hơn. Ngược lại, doanh nghiệp có mức rủi ro cao, Ngân
hàng thấy khó kiểm soát được thì ngân hàng có thể không cho vay, hoặc cho vay
nhưng phải thận trọng, đưa ra biện pháp giám sát thường xuyên chặt chẽ khoản
vay đó.
Như vậy, kết quả chấm điểm tín dụng doanh nghiệp trước khi cấp tín dụng
là một trong các cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng, định giá các
khoản vay, áp dụng chính sách tín dụng thích hợp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
- Khi đang có quan hệ tín dụng, tái xét chấm điểm và xếp hạng tín
dụng doanh nghiệp theo định kỳ.
Định kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm ngân hàng tiến hành chấm điểm để
đánh giá khả năng trả nợ gốc và lãi của doanh nghiệp cho ngân hàng về các
khoản đã cho vay, dựa trên nguồn thông tin thu thập được về doanh nghiệp đi
vay từ lúc phát tiền vay đến thời điểm tái xét xếp hạng nhằm đánh giá việc thực
hiện các cam kết của doanh nghiệp trong hợp đồng tín dụng, chú trọng đến
những vi phạm hợp đồng, từ đó so sánh, đánh giá sự thay đổi rủi ro tín dụng so
với ban đầu. Qua đó, có thể điều chỉnh mức hạng của doanh nghiệp. Đồng thời,
là cơ sở để đưa ra giải pháp xử lý các khoản nợ có vấn đề, nhằm giảm thiểu
nguy cơ gây rủi ro tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng thay đổi theo chiều hướng tăng,
ngân hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải bổ sung vốn tự có hoặc tăng
tài sản thế chấp, hoặc yêu cầu bảo lãnh, cũng có thể ngân hàng cùng doanh
nghiệp tìm giải pháp để giải quyết khó khăn để tăng khả năng trả nợ.
Như vậy, chấm điểm tín dụng đinh kỳ tái xét hạng rủi ro doanh nghiệp vay
vốn để xem xét sự thay đổi rủi ro so với ban đầu, nhằm đưa ra biện pháp xử lý
tổng hợp có hiệu quả, giảm nguy cơ rủi ro tín dụng. Từ đó, tạo điều kiện tăng
thu nhập cho ngân hàng, mở rộng và đa dạng hoá hình thức tài trợ… và điều này
đặc biệt có ý nghĩa trong xu hướng đi vay tín chấp ngày càng gia tăng, giúp
ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt để cho vay. Đó cũng là cơ sở để
doanh nghiệp soi lại mình, vươn lên tốt hơn.
Đỗ Thị Hải Ninh Lớp TCDN 44D

×