Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác trả công lao động trong công ty cổ phần xây dựng số 5 – vinaconex 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.69 KB, 64 trang )

Môc lôc
NguyÔn ThÞ Thu Trang 1 Líp QTNL K6
Lêi më ®Çu
Tiền lương là một trong những chính sách quan trọng của một quốc
gia, nó không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là tác động chính trị xã hội hết
sức nhạy cảm.
Tiền lương quan hệ mật thiết với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi
tiền lương được trả theo đúng sức lao động, thực hiện theo nguyên tắc tiền
lương, trả theo lao động có hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít
thì nó là động lực kích thích người lao động hăng say làm việc, không
ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động
làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp hơn. Ngược lại, tiền
lương không đảm bảo cuộc sống cho người lao động thì không kích thích
quá trình sản xuất kinh doanh mà có thể còn kìm hãm sự phát triển kinh tế,
làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Nhận thức được rõ vấn đề này, em đã chọn đề tài:” Một số giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác trả công lao động trong Công ty Cổ Phần
Xây Dựng Số 5 – Vinaconex 5”. Do kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm
điều tra nghiên cứu chưa nhiều nên việc thực hiện báo cáo không tránh
khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy giáo hướng
dẫn, các cô chú, anh chị trong phòng tổ chức của công ty.
Em xin chân thành cảm ơn!
NguyÔn ThÞ Thu Trang 2 Líp QTNL K6
PhÇn I: TiÒn c«ng vµ tiÒn l¬ng trong doanh nghiÖp
Tiền lương luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống xã
hội và sản xuất của đất nước. Đối với hàng triệu người lao động làm công
ăn lương thì tiền lương là mối quan tâm hàng ngày của họ vì đây là nguồn
thu nhập chính nhằm duy trì và nâng cao mức sống, sức lao động của họ và
gia đình. Nó là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật chất, là
nguồn dự phòng đối với người lao động. Việc sử dụng đòn bẩy tiền lương
nhằm đảm bảo sản xuất phát triển, duy trì một đội ngũ lao động có sức


khỏe, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật cao, có ý thức tổ chức kỷ
luật vững vàng.
Tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp được công bằng và hợp lý sẽ
tạo ra bầu không khí cởi mở giữa những người lao động, hình thành khối
đoàn kết trên dưới một lòng, một ý chí vì sự phát triển của doanh nghiệp và
vì lợi ích của bản thân họ. Chính vì vậy mà người lao động hăng say, nhiệt
tình làm việc. Họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được vì ở một mức
độ nhất định tiền lương có thể được xem là bằng chứng thể hiện giá trị địa
vị uy tín của người lao động đối với xã hội. Khả năng kiếm được tiền công
cao hơn sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động ra sức học tập để nâng
cao giá trị của họ đối với tổ chức thông qua sự nâng cao trình độ và sự
đóng góp cho tổ chức
Khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu công bằng
và bất hợp lý thì không những nó đẻ ra những mâu thuẫn nội bộ, thậm chí
khá gay gắt giữa những người lao động với nhau, giữa người lao động với
các cấp quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp mà có lúc có nơi còn có thể xảy ra
sự phá hoại ngầm dẫn đến sự lãng phí to lớn trong sản xuất. Vì vậy, việc tổ
chức (phân phối) tiền lương, tiền công hoặc tiền thưởng cho người lao
động phải được quan tâm và theo dõi đầy đủ, thường xuyên để có sự điều
chỉnh cho thỏa đáng và hợp lý.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 3 Líp QTNL K6
Nghị Quyết Hội nghị Trung Ương VII chỉ rõ:” Tiền lương gắn liền
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho ngêi lao
động chính là thực hiện đầu tư cho sự phát triển, góp phần quan trọng làm
lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và
hiệu quả công tác. Đảm bảo giá trị hiện thực của tiền lương và từng bước
cải thiện theo sự phát triển của kinh tế - xã hội.”
I. Các khái niệm về tiền lương – tiền công.
1. Khái niệm về tiền lương và tiền công.
1.1 Tiền lương.

Trong nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của thị trường sức lao
động (hay còn gọi là thị trường lao động), sức lao động là hàng hoá. Do
vậy, tiền lương là giá cả của sức lao động được hình thành thông qua sự
thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, chịu tác động
mang tính quyết định của quan hệ cung cầu về sức lao động trên thị trường
lao động phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật lao động.
Tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh tế, xã hội khác nhau. Tiền
lương, trước hết là số tiền mà người sử dụng lao động (mua sức lao động)
trả cho người lao động (người bán sức lao động). Đó là quan hệ kinh tế của
tiền lương. Mặt khác do tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động mà
tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còn là một vấn đề xã
hội rất quan trọng, liên quan đến đời sống và trật tự xã hội. Đó là quan hệ
xã hội.
Trong quá trình hoạt động, nhất là trong hoạt động kinh doanh, đối
với các chủ doanh nghiệp , tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí
sản xuất – kinh doanh. Vì vậy, tiền lương luôn được tính toán và quản lý
chặt chẽ. Đối với người lao động , tiền lương là thu nhập từ quá trình lao
động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã hội
có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương
NguyÔn ThÞ Thu Trang 4 Líp QTNL K6
là mục đích của mọi người lao động. Mục đích này tạo động lực để người
lao động phát triển trình độ và khả năng của mình.
1.2 Tiền công.
Trả công lao động là một hoạt động quản lý nhân sự có ý nghĩa rất
lớn trong việc giúp cho tổ chức đạt được hiệu suất cao cũng như tác động
một cách tích cực tới đạo đức lao động của mọi người lao động. Tuy nhiên,
tác dụng của trả công lao động còn tuỳ thuộc vào khả năng chi trả và ý
muốn trả công của công y cho người lao độngtrong tương quan với sự đóng
góp của họ. Một cơ cấu tiền công hợp lý sẽ là cơ sở để xác định lượng tiền
công công bằng nhất cho từng người lao động cũng như là cơ sở để thuyết

phục họ về tiền công đó.
Các tổ chức cần quản trị có hiệu quả chương trình tiền công, tiền
lương của mình vì kết quả của chưowng trình đó có ý nghĩa đặc biệt lớn.
Tiền công không chỉ ảnh hưởng tới người lao động mà còn tới cả tổ chức
và xã hội.
Tiền công chính là số tiền trả cho người lao động tuỳ thuộc vào số
lượng thời gian làm việc thực tế (giờ, ngày) hay số lượng sản phẩm được
sản xuất ra hay tuỳ thuộc vào khối lượng công việc đã hoàn thành. Tiền
công thường được trả cho công nhân sản xuất, các nhân viên bảo dưỡng
máy móc, thiết bị, nhân viên văn phòng.
Tiền lương, tiền công trong nền kinh tế thị trường không chỉ bị chi
phối bởi quy luật giá trị mà còn bị chi phối bởi quy luật cung cầu. Nếu
cung lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu
cung nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương sẽ tăng lên. Có thể nói tiền
lương thường xuyên biến động xoay quanh giá trị sức lao động, nó phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu và giá cả tư liệu sinh hoạt. Sự biến động xoay
quanh giá trị sức lao động đó được coi như là sự biến động thể hiện bản
chất của tiền lương. Theo các nhà kinh tế học phương Tây thì tiền lương là
giá trị sức lao động và được coi là điểm then chốt trên thị trường sức lao
NguyÔn ThÞ Thu Trang 5 Líp QTNL K6
động. Nó không chỉ liên quan trực tiếp tới sự tồn tại của người làm công
mà còn cả với sự thành công ( hay thất bại) của người sử dụng lao động
1.3 Đặc điểm cơ bản của tiền lương trong nền kinh tế thị trường.
Tiền lương được hình thành trên thị trường có sự quản lý của Nhà
Nước trên cơ sở luật pháp. Nhà nước tổ chức giám sát, kiểm tra bảo đảm
lợi ích chính đáng của người lao động. Tiền lương không mang tính chất
đối kháng giữa người sử dụng lao động và người lao động mà được đặt trên
quan hệ hợp tác cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro.
Tiền lương có mối quan hệ thuận với mức tăng lợi nhuận, tăng năng
suất lao động xét trong phạm vi từng doanh nghiệp. Trên phạm vi toàn xã

hội, việc tăng tiền lương, thu nhập, mức sống phải dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động xã hội, tăng trưởng của nền kinh tế.
Giá trị sức lao động là căn cứ để xác định mức tiền lương, việc trả
lương cho từng cá nhân lại dựa trên kết quả lao động của họ. Người lao
động được trả lương không chỉ dựa trên “giá cả” của sức lao động mà còn
được trả thêm từ sự kết hợp giữa lao động của họ với các tài sản của doanh
nghiệp. Nói cách khác, tiền lương được trả dựa trên sự phân chia lợi ích
giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà Nước.
Thông qua chính sách tiền lương, Nhà Nước tham gia tích cực vào
các quá trình phân phối và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật, các
chÝnh s¸ch kinh tế - xã hội, khuyến khích lợi ích chính đáng, tính tích cực,
sáng tạo của họ, đồng thời hạn chế các tiêu cực.
=> Việc làm, an toàn lao động và an sinh xã hội là mối quan tâm của
người lao động. Do vậy, mức tiền lương cần phải tính đúng, tính đủ hao phí
cần thiết để duy trì cuộc sống ngay cả khi người lao động không còn sức
lao động.
2. Các nguyên tắc trả công lao động.
Tổ chức tiền lương là tổng hợp các biện pháp nhằm đảm bảo tiền
lương cho người lao động phù hợp với số lượng và chất lượng lao động.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 6 Líp QTNL K6
Tiền lương có ảnh hưởng rất lớn đến sự thực hiện công việc của người lao
động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động của tổ chức. chính sách tiền
lương của tổ chức hải tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, cơ cấu
tổ chức. Đồng thời phải đáp ứng được các mục tiêu hợp pháp, kích thích,
thoả đáng, công bằng, bảo đảm và hiệu suất nhằm thu hút và gìn giữ những
người lao động giỏi, nâng cao sự hài lòng của người lao động khi thực hiện
công việc. Nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương là cơ sở quan trọng
nhất để xây dựng được một cơ chế trả lương, quản lý tiền lương và chính
sách thu nhập thích hợp trong một thể chế kinh tế nhất định. Ở nước ta, khi
xây dựng các chế độ tiền lương và tổ chức trả lương phải theo các nguyên

tắc sau:
Trả lương theo số lượng và chất lượng lao động.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ quy luật phân phối theo lao động. Yêu
cầu của nguyên tắc là trả lương có phân biệt về số và chất lượng lao động,
không trả lương bình quân chia đều. Đòi hỏi việc trả lương phải gắn với
năng suất lao động, kết quả sản xuất biểu hiện ở chất lượng và hiệu quả của
lao động.
Theo số lượng lao động (số lượng sản phẩm ): Sản xuất cùng loại sản
phẩm đạt chất lượng như nhau nếu ai làm ra nhiều sản phẩm thì sẽ được trả
lương cao.
Theo chất lượng sản phẩm: Nếu sản phẩm A chất lượng tốt hơn sản
phẩm B thì tiền lương của 1 sản phẩm A sẽ cao hơn tiền lương của sản
phẩm B.
Theo chất lượng lao động: Lao động nào có chất lượng cao hơn thì
được trả lương cao hơn. Trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm
không phân biệt tuổi tác. Trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm
không phân biệt giới tính. Trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm
không phân biệt dân tộc.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 7 Líp QTNL K6
Để thực hiện tốt nguyên tắc này các doanh nghiệp nên có quy chế trả
lương trong đó quy định rõ ràng các tiêu chí đánh giá công việc. Những
tiêu chí này nên là những tiêu chí có thể định lượng được để tiện cho việc
đánh giá.
Trả lương ngang nhau cho lao ®éng như nhau.
Trả công ngang nhau cho lao động như nhau xuất phát từ nguyên tắc
phân phối theo lao động. Nguyên tắc này dùng thước đo lao động để đánh
giá, so sánh và thực hiện trả lương. Những người lao động khác nhau về
tuổi tác, giới tính, trình độ… nhưng có mức hao phí sức lao động (đóng
góp sức lao động) như nhau thì được trả lương như nhau.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được tính công

bằng và bình đẳng trong trả lương. Thực hiện tốt nguyên tắc này làm cho
tiền lương thực sự gắn bó với quá trình sản xuất kinh doanh, kích thích
người lao động hăng say làm việc, tránh được tình trạng bình quân trong
trả lương, thực hiện tốt công bằng xã hội, góp phần hạn chế mặt tiêu cực
của người lao động.
Trả lương phải đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động phải tăng
nhanh hơn tiền lương bình quân.
Năng suất lao động không ngừng tăng lên đó là một quy luật tất yếu.
tiền lương của người lao động cũng tăng lên không ngừng do tác động của
nhiều nhân tố khách quan. Giữa tăng tiền lương và tăng năng suất lao động
có liên quan chặt chẽ với nhau.
Xét các yếu tố, các nguyên nhân trực tiếp làm tăng tiền lương và tiền
lương bình quân là do trình độ tổ chứcvà quản lý sản xuất ngày càng có
hiệu quả hơn… Đối với tăng năng suất lao động, ngoài những yếu tố gắn
liền với việc nâng cao kỹ năng làm việc và trình độ tổ chức quản lý lao
động như trên thì tăng năng suất lao động còn do các nguyên nhân khác tạo
ra như đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật
trong lao động khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
NguyÔn ThÞ Thu Trang 8 Líp QTNL K6
nhiên … Rõ ràng là năng suất lao động có khả năng khách quan tăng nhanh
hơn tiền lương bình quân.
Mặt khác, khi xem xét các mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất
lao động và tiền lương thực tế, giữa tích luỹ và tiêu dùng trong thu nhập
quốc dân ta thấy chúng có liên hệ với tốc độ phát triển của khu vực sản
xuất tư liệu sản xuất (Khu vực I) và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng
(Khu vực II). Quy luật tái sản xuất mở rộng đòi hỏi khu vực I phải nhanh
hơn khu vực II. Do vậy, tổng sản phẩm xã hội (Khu vực I + khu vực II) có
tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của tổng san phẩm của riêng khu vực II.
Do đố, tổng sản phẩm xã hội tính theo đầu người tăng nhanh hơn tốc độ
tăng sản phẩm bình quân tính theo đầu người của khu vực II. Ta cũng thấy

thêm rằng không phải toàn bộ sản phẩm của khu vực II được dùng cho tiêu
dùng để nâng cao tiền lương mà một phần trong đó được dùng để tích luỹ.
Điều này cũng chỉ ra rằng muốn tăng tiền lương thì phải tăng năng suất lao
động xã hội với tốc độ cao hơn.
Trong mỗi doanh nghiệp, tăng tiền lương dẫn đến tăng chi phí sản
xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao động lại làm giảm chi phí cho từng
đơn vị sản phẩm. Một doanh nghiệp chỉ thực sự kinh doanh có hiệu quả khi
chi phí nói chung cũng như chi phí cho một đơn vị sản phẩm giảm đi, tức
là mức giảm chi phí do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi
phí do tăng tiền lương bình quân.Chính vì vậy, nguyên tắc này luôn phải
đảm bảo trong mọi thời điểm.
Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm việc trong các nghề khác nhau nhằm đảm bảo sự công bằng, bình
đẳng trong trả lương cho người lao động. Nguyên tắc này thực sự cần thiết
NguyÔn ThÞ Thu Trang 9 Líp QTNL K6
của mỗi doanh nghiệp trong trả công lao động và nó dựa trên những cơ sở
sau:
+ Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành. Do
đặc điểm và tính chất phức tạp khác nhauvề kỹ thuật và công nghệ ở các
ngành nghề khác nhau nên trình độ lành nghề bình quân của người lao
động giữa các ngành khác nhau cũng khác nhau. Sự khác nhau này cần
thiết phải được phân biệt trong trả lương. Có như vậy mới khuyến khích
người lao động tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ lành nghề và
kỹ năng làm việc, nhất là trong những ngành nghề đòi hỏi kiến thức và tay
nghề cao.
+ Điều kiện lao động khác nhau có ảnh hưởng đến mức hao phí sức
lao động trong quá trình làm việc. Những người làm việc trong điều kiện
nặng nhọc, độc hại, hao tốn nhiều sức lực phải được trả lương cao hơn so

với những người làm việc trong điều kiện bình thường. Sự phân biệt này
làm cho tiền lương bình quân trả cho người lao động làm việc ở những nơi,
những ngành có điều kiện lao dộng khác nhau cũng khác nhau. Để làm
tăng tính linh hoạt trong trả lương phân biệt theo điều kiện lao động, người
ta thường sử dụng các loại phụ cấp về điều kiện lao động để trả cho người
lao động ở những công việc có điều kiện làm việc rất khác nhau.
+ Ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nền
kinh tế bao gồm rất nhiều ngành khác nhau. Trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn của sự phát triển của mỗi nước, một số ngành được coi là trọng điểm
vì có tác dụng rất lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Các
ngành này cần phải được ưu tiên phát triển. Trong đó, dùng tiền lương để
thu hút và khuyến khích người lao động trong các ngành có ý nghĩa kinh tế
quan trọng, đó là một biện pháp đòn bẩy về kinh tế và cần phải được thực
hiện tốt. Thực hiện sự phân biệt này thường rất đa dạng, có thể trong tiền
lương cũng có thể dùng các loại phụ cấp khuyến khích.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 10 Líp QTNL K6
+ Sự phân bố theo khu vực sản xuất. Một ngành có thể được phân bố
ở những khu vực khác nhau về địa lý, kéo theo những khác nhau về đời
sống vật chất, tinh thần, văn hoá, tập quán. Những khác nhau đó gây ảnh
hưởng và làm cho mức sống của người lao động hưởng lương khác nhau.
Để thu hút, khuyến khích người lao động làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh,
vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn phải có chính sách tiền lương
thích hợp với những loại phụ cấp, ưu đãi thoả đáng. Có như vậy thì mới có
thể sử dụng hợp lý lao động xã hội và khai thác có hiệu quả các nguồn lực,
tài nguyên thiên nhiên ở mọi vùng, miền của đất nước.
Tiền lương phụ thuộc vào khả năng tài chính.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ cách nhìn nhận vấn đề tiền lương là một
chính sách xã hội, bộ phận cấu thành trong tổng thể các chính sách kinh tế -
xã hội của Nhà nước có quan hệ với thực trạng tài chính quốc gia cũng như
thực trạng tài chính ở cơ sở.

Tiền lương của viên chức trong các cơ quan quản lý Nhà nước phụ
thuộc vào ngân sách, tiền lương trong doanh nghiệp phụ thuộc vào hiệu
quả sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Nguyên tắc này đòi
hỏi ở doanh nghiệp không nên quy định cứng các mức lương cho người lao
động bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì tiền lương ở doanh nghiệp
không những phụ thuộc vào kết quả lao động của cá nhân mà còn phụ
thuộc vào hiệu quả sản xuất - kinh doanh – dịch vụ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nào hoạt động có hiệu quả cao thì tiền lương cá nhân được
hưởng cao và ngược lại. Ngân sách quốc gia dồi dào, tiền lương của công
nhân viên chức được hưởng cao và ngược lại.
Phải đảm bảo kết hợp hài hòa các dạng lợi ích trong trả lương.
Nguyên tắc này xuất phát từ mối quan hệ hài hòa giữa ba dạng lợi
ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động.
Do đó, yêu cầu trong trả lương cho cá nhân ngoài việc căn cứ vào
những đóng góp, công sức cá nhân còn phải tính đến lợi ích của tập thể,
NguyÔn ThÞ Thu Trang 11 Líp QTNL K6
những cống hiến của tập thể lao động cho sự nghiệp chung đối với kết quả
lao động cuối cùng sao cho đạt được sự thống nhất giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân không mâu thuẫn với lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội mà phải đặt trong quan hệ hài hòa, hợp lý.
• Ngoài ra, còn có một số yêu cầu kèm theo khi trả công lao động
như:
Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Mức lương được
trả phải không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định dùng
để trả cho những người lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều
kiện và môi trường lao động bình thường, chưa qua đào tạo nghề. Những
lao động lành nghề, lao động có trình độ chuyên môn – kỹ thuật nghiệp vụ
phải được trả mức lương cao hơn.
Tiền lương phải được phân biệt theo điều kiện lao động và cường độ
lao động. tiền lương được trả cho người lao động làm công việc có điều

kiện lao động nặng nhọc – độc hại – nguy hiểm, làm đêm, làm thêm giờ
phải cao hơn bình thường. mức trả do doanh nghiệp quy định trong khuôn
khổ quy định hiện hành của pháp luật lao động.
Tiền lương phải có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm và hiệu quả lao động. Muốn vậy, tổ chức trả lương phải sử
dụng đòn bẩy kích thích vật chất gắn liền với các tiêu chí tăng năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả lao động.
Tiền lương phải đảm bảo không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động. Mức lương mà người lao động được nhận
phải dần được nâng cao do thâm niên công tác tăng lên hoặc do điều chỉnh
tiền lương, đảm bảo tốt hơn và thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của
cá nhân, gia đình người lao động.
Tiền lương được trả phải dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao động được ghi trong hợp đồng lao động và kết
NguyÔn ThÞ Thu Trang 12 Líp QTNL K6
quả lao động của người lao động. Tiền lương phải do chính chủ sử dụng
lao động chịu trách nhiệm trả cho người lao động. Phải quy định rõ các
trường hợp khấu trừ lương trong khuôn khổ luật định. Không được cúp
lương, xử phạt kỷ luật lao động bằng cách trừ tiền lương.
Tiền lương phải được trả theo loại công việc, chất lượng và hiệu quả
công việc. Mức lương được trả cho người lao ®ộng trong doanh nghiệp có
thể dựa trên quy định trong hệ thống thang bảng lương của Nhà nước hoặc
theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng lao động. Hình thức trả lương do người
sử dụng lao động lựa chọn và duy trì trong thời gian nhất định.
Tiền lương phải đơn giản, dễ hiểu và dễ tính. Tiền lương luôn là mối
quan tâm hàng đầu của mọi người lao động. một chế độ tiền lương đơn
giản, rõ ràng, dễ hiểu có tác động trực tiếp tới động cơ và thái độ làm việc
của họ, đồng thời làm tăng hiệu quả của hoạt động quản lý, nhất là quản lý
về tiền lương.
3. Vai trò của trả công lao động.

Tiền lương phải đóng vai trò chủ yếu trong việc thực hiện quy luật
phân phối theo lao động, đồng thời phải chịu tác động của các quy luật
kinh tế khác.
Sự chênh lệch giữa mức lương cao nhất và mức lương thấp nhất phải
phản ánh khách quan mức độ phức tạp của trình độ lao động xã hội, là
thước đo giá trị lao động để khuyến khích lao động, vừa chống bình quân
vừa không tạo ra sự phân cực lớn.
Tiền lương phải là nguồn thu nhập chủ yếu bảo đảm đời sống vật
chất, tinh thần cho người lao động theo sự phát triển kinh tế - xã hội trong
quá trình làm việc cũng như khi hết độ tuổi lao động.
Tiền lương được xác định dựa trên các yếu tố điều kiện lao động, các
tiêu chuẩn lao động và chế độ làm việc ngày càng được hoàn thiện theo
quy định của pháp luật lao động.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 13 Líp QTNL K6
Tiền lương phải được đặt trong mối quan hệ hợp lý với các chỉ tiêu
lợi nhuận, năng suất lao động, sự tăng trưởng của nền kinh tế và các chính
sách xã hội.
Tiền lương phải thể hiện đầy đủ hơn, ưu tiên hơn đối với lực lượng
lao động mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức.
II. Các hình thức trả công lao động trong doanh nghiệp.
1. Hình thức trả lương theo thời gian.
1.1 Khái niệm tiền lương thời gian.
Trong hình thức trả lương theo thời gian, tiền lương của công nhân
được tính toán dựa trên cơ sở mức tiền công đã được xác định cho công
việc và số đơn vị thời gian (giờ hoặc ngày) thực tế làm việc, với điều kiện
họ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn thực hiện công việc tối thiểu đã được
xây dựng trước nếu muốn tiếp tục được nhận mức tiền công cho công việc
đó.
Tiền lương trả theo thời gian thường được áp dụng cho các công việc
sản xuất nhưng khó định mức được cụ thể; hoặc các công việc đòi hỏi chất

lượng cao, các công việc mà năng suất, chất lượng phụ thuộc chủ yếu vào
máy móc, thiết bị hay các hoạt động tạm thời, sản xuất thử.
TL
TG
= ML x T
LVTT
Trong đó:
TL
TG
: là tiền lương thời gian
ML : mức lương tương ứng với các bậc trong thang
lương, bảng lương.
T
LVTT
: Thời gian làm việc thực tế.
1.2 Các loại lao động ứng dụng cho loại hình tiền lương này.
Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những
người làm công tác quản lý. Đối với công nhân sản xuất thì hình thức trả
lương này chỉ áp dụng ở những bộ phận lao động bằng máy móc là chủ yếu
hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và
NguyÔn ThÞ Thu Trang 14 Líp QTNL K6
chính xác, hoặc vì tính chất của sản xuất nếu thực hiện trả công theo sản
phẩm sẽ không bảo đảm được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu
quả thiết thực. Hình thức tiền lương này được áp dụng chủ yếu với:
- Công chức, viên chức.
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.
- Những người thực hiện quản lý, chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ
trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh.
- Công nhân sản xuất làm những công việc không thể định mức lao
động, hoặc do tính chất sản xuất nếu trả lương theo sản phẩm sẽ khó đảm

bảo chất lượng, chẳng hạn công việc sửa chữa, KCS, công việc sản xuất
hay pha chế thuốc chữa bệnh…
* Để áp dụng có hiệu quả hình thức trả lương theo thời gian cần đảm bảo
những điều kiện sau:
- Phải thực hiện chấm công cho người lao động chính xác: Vì tiền
lương thời gian phụ thuộc vào độ dài thời gian làm việc thực tế. Thời gian
làm việc thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định đến tiền lương của người
lao động nhận được nhiều hay ít. Người lao động làm nhiều giờ công hơn
thì được hưởng tiền lương cao hơn, làm ít giờ công thì hưởng tiền lương ít
hơn, làm nhiều ngày công hơn thì tiền lương nhận được cũng nhiều hơn.
Do vậy, đòi hỏi phải chấm công chính xác để trả lương.
- Phải đánh giá chính xác mức độ phức tạp của công việc: Đánh giá mức
độ phức tạp của công việc thông qua đó để xác định được mức độ hao phí
sức lao động mà người lao động bỏ ra trong quá trình lao động. Công việc
giản đơn thì mức độ hao phí sức lao động ít hơn so với công việc phức tạp.
Do vậy, đòi hỏi phải trả lương cao hơn cho công việc phức tạp và trả lương
thấp hơn cho công việc giản đơn. Công việc có mức độ phức tạp cao hơn
đòi hỏi phải trả lương cao hơn và ngược lại.
1.3 Các hình thức trả lương theo thời gian.
1.3.1 Hình thức trả lương theo thời gian đơn giản.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 15 Líp QTNL K6
+ Khái niệm: Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản là chế độ trả
lương mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương
cấp bậc cao hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định.
+ Điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương này áp dụng chủ yếu đối với
khu vực hành chính sự nghiệp hoặc đối với công việc khó xác định mức lao
động chính xác, khó đánh giá công việc chính xác.
+ Công thức tính:
TL
tg

= ML x T
LVTT.
Trong đó:
TL
tg :
Tiền lương thời gian ‘
ML: Tièn lương cấp bậc
T
LVTT
: Thời gian làm việc thực tế của người lao động.
Có hai chế độ trả lương theo thời gian đơn giản đó là: chế độ trả
lương ngày và lương tháng.
-Chế độ trả lương tháng là chế độ trả lương tính theo mức lương
cấp bậc hoặc chức vụ tháng của công nhân viên chức.
Chế độ trả lương tháng được áp dụng chủ yếu đối với viên chức
làm việc trong khu vực Nhà nước.
Công thức tính:
Mức lương tháng = Mức lương cấp bậc hoặc chức vụ + Các khoản phụ
cấp (nếu có).
Lương tháng trả cố định hàng tháng theo thang, bảng lương Nhà nước
ban hành hoặc theo mức lương thỏa thuận được ghi trong hợp đồng lao
động. Lương tháng có thể trả lương cả tháng một lần, nhưng thường thì trả
làm hai kỳ trong tháng là đầu tháng và cuối tháng.
Ưu điểm: Chế độ trả lương này đơn giản, dễ hiểu, dễ tính, nhân viên
trong công ty có thể tự tính lương của mình.
Nhược điểm: của chế độ trả lương này còn mang tính chất bình quân,
không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên
NguyÔn ThÞ Thu Trang 16 Líp QTNL K6
vật liệu; không tập trung công suất của máy móc, thiết bị để làm tăng năng
suất lao động; chưa gắn liền tiền lương với hiệu suất công tác của mỗi

người.
- Chế độ trả lương ngày là chế độ trả lương tính theo mức lương (cấp
bậc hoặc chức vụ) ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng.
Chế độ trả lương ngày được áp dụng với công nhân viên chức trong
cơ quan, đơn vị mà có thể tổ chức chấm công và hạch toán ngày công cho
mỗi người được cụ thể, chính xác.
Mức lương ngày được xác định như sau:

thángđôchêngày
ML
ML
tháng
ngày
=
Tiền lương của người lao động được xác định theo công thức:
Tiền lương = Mức lương ngày x Số ngày làm việc thực tế.
Mức lương ngày dùng để trả đối với lao động theo hợp đồng thời hạn
một tháng trở lên, thường thì cơ quan hợp đồng lao động hay doanh nghiệp
tổ chức chấm công theo ngày và trả gộp 15 ngày 1 lần cùng kỳ với người
hưởng lương tháng. Đối với lao động làm công nhật hoặc làm công việc có
tính tạm thời theo mùa vụ, làm công việc thời hạn dưới 3 tháng thì có thể
trả ngay sau mỗi ngày làm việc nhưng phải tính thêm cho họ khoản bảo
hiểm xã hội ít nhất là 15% vào tiền lương để người lao động tự lo vấn đề
bảo hiểm cho mình.
Ưu điểm: Giảm bớt được tính bình quân trong trả lương, có tác dụng
khuyến khích việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian lao động trong
tháng.
Nhược điểm: Chưa phản ánh được hiệu quả lao động trong ngày làm
việc.
* Ngoài hai chế độ trả lương trên, trên thực tế còn có chế độ trả

lương tuần và trả lương giờ. Đối với công việc có điều kiện lao động và
môi trường lao động bình thường thì giờ công quy định là 8 giờ/ ngày. Đối
với công việc có điều kiện lao động và môi trường lao động đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thì giờ công quy định là 6 giờ/ ngày.
1.3.2 Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 17 Líp QTNL K6
+ Khái niệm: Chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa chế độ trả
lương theo thời gian đơn giản với tiền thưởng nếu cán bộ công nhân viên
chức đạt được các chỉ tiêu và điều kiện thưởng quy định.
+ Điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương này chủ yếu được áp dụng đối
với những công nhân phụ làm công việc phục vụ như công nhân sửa chữa,
điều chỉnh thiết bị… Ngoài ra, còn áp dụng đối với những công nhân chính
làm những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc
những công việc bộ phận sản suất hoặc những công việc chưa có điều kiện
trả lương theo sản phẩm hay những công việc đòi hỏi phải đảm bảo tính
chính xác cao, những công việc có trình độ cơ khí hóa, tự động hóa cao.
+ Tiền lương của người lao động được tính bằng cách lấy lưong trả
theo thời gian đơn giản (mức lương cấp bậc) nhân với thời gian làm việc
thực tế, sau đó cộng với tiền thưởng. Lương theoe thời gian đơn giản, trong
chế độ trả lương này không những phụ thuộc vào trình độ thành thạo và
thời gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng
người thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được
Công thức:
TL
tg
= ML x T
LVTT
+ Tiền thưởng
Chế độ trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với chế độ trả lương
theo thời gian đơn giản. Chế độ này không những phản ánh trình độ thành

thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt tiền lương với thành tích
công tác của từng người lao động thông qua các chỉ tiêu xét thưởng mà họ
đã đạt được. Vì vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách
nhiệm và kết quả công tác của mình. Do đó, cùng với ảnh hưởng của tiến
bộ kỹ thuật, chế độ trả lương này ngày càng mở rộng.
2. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
2.1 Khái niệm.
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương căn cứ vào
số lượng sản phẩm hay công việc đảm bảo chất lượng quy định do một hay
một nhóm công nhân đã hoàn thành và đơn giá tiền lương của một đơn vị
sản phẩm hay một đơn vị công việc. Đây là hình thửctả lương được áp
dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
Thực hiện trả lương theo sản phẩm thì tiền lương của người lao động
nhận được nhiều hay ít tùy thuộc vào đơn gi¸ của sản phẩm, số lượng, chất
NguyÔn ThÞ Thu Trang 18 Líp QTNL K6
lượng của sản phẩm được nghiệm thu hay khối lượng công việc đã hoàn
thành. Nếu những người lao động cùng làm một loại sản phẩm thì tiền
lương của họ nhận được phụ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm
được nghiệm thu.
2.2 Các loại lao động ứng dụng cho loại hình tiền lương này.
Hình thức trả lương này áp dụng rộng rãi cho công việc có thể định
mức lao động để giao việc cho người lao động trực tiếp sản xuất.
*Để hình thức trả lương này phát huy đầy đủ tác dụng và đem lại
hiệu quả khi trả lương cần phải có đầy đủ các điều kiện sau:
Phải xác định đơn giá trả lương sản phẩm chính xác.
Đơn giá là chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm.
Công thức tính:
ĐG = (L
CBCV
+ PC) M

tg.
Hoặc:
SL
CBCV
M
PCL
ĐG
+
=
-
Trong đó:
L
CBCV:
Lương cấp bậc công việc
PC: Phụ cấp
ĐG: Đơn giá
M
tg:
Mức thời gian
M
SL:
Mức sản lượng.
Nếu sản phẩm làm ca đêm và được hưởng phụ cấp làm đêm là 30% thì đơn
giá của sản phẩm làm đêm (ĐG
đêm
) là:
ĐG
đêm
= 1,3 x ĐG.
Điều kiện để xác định đơn giá chính xác: Muốn xác định đơn giá

chính xác phải dựa trên các điều kiện sau:
NguyÔn ThÞ Thu Trang 19 Líp QTNL K6
+ Phải có hệ thống mức lao động tiên tiến. Hệ thống mức lao động
tiên tiến là hệ thống mức lao động chủ yếu được xây dựng bằng phương
pháp định mức kỹ thuật lao động, không có mức sai. Các mức lạc hậu, mức
tạm thời hết hạn được sửa đổi kịp thời.
Các khâu công việc trong doanh nghiệp phải được xác định chính xác
cấp bậc kỹ thuật. Các khoản phụ cấp được tính trong đơn giá phải được
xác định đúng đắn. Những phụ cấp được xác định trong đơn giá là: phụ cấp
chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm, phụ cấp khu vực, phụ cấp độc hại nguy hiểm,
phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thu hút, phụ cấp làm đêm, phụ cấp đắt đỏ,
phụ cấp đặc biệt, phụ cấp lưu động.
+ Phải tổ chức phục vụ tốt cho nơi làm việc. Tổ chức phục vụ nơi
làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các loại phương tiện vật chất kỹ
thuật cần thiết và tạo các điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình lao
động.
Phục vụ nơi làm việc bao gồm phục vụ chuẩn bị sản xuất; phục vụ
dụng cụ; vận chuyển năng lượng; điều chỉnh thiết bị; sửa chữa, kiểm tra
kho tàng sinh hoạt và văn hóa trong sản xuất. Việc tổ chức phục vụ tốt sẽ
góp phần tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu
quả của hình thức trả lương sản phẩm.
+ Phải tổ chức kiểm tra nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ. Tổ chức kiểm
tra nghiệm thu sản phẩm là một khâu quan trọng trong trả lương sản phẩm.
Kiểm tra nghiệm thu nhằm mục đích đánh giá đúng đắn số lượng và chất
lượng sản phâm do công nhân làm ra để trả lương. Vì tiền lương sản phẩm
công nhân nhận được nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đạt
tiêu chuẩn chất lượng quy định. Do vậy, muốn trả lương sản phẩm chính
xác phải tổ chức tốt công tác nghiệm thu sản phẩm.
2.3 Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
2.3.1 Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp cho cá nhân.

NguyÔn ThÞ Thu Trang 20 Líp QTNL K6
+ Khái niệm: Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân là chế
độ trả lương cho công nhân căn cứ vào số lượng sản phẩm (hay chi tiết sản
phẩm) đảm bảo chất lượng quy định và đơn giá tiền lương cố định.
+ Chế độ này được áp dụng rộng rãi đối với những người trực tiếp
sản xuất, kinh doanh trong các đơn vị kinh tế mà quá trình lao động của họ
mang tính độc lập tương đối, công việc có thể định mức lao động và kiểm
tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể, riêng biệt. Tiền lương của họ do
chính năng suất lao động cá nhân quyết định.
+ Công thức tính:
ĐG = (L
CBCV
+ PC) M
TG.
Hoặc:
SL
CBCV
M
PCL
ĐG
+
=
Trong đó:
L
CBCV :
Lương cấp bậc công việc
PC :Phụ cấp
M
tg
: Mức thời gian

M
SL
: Mức sản lượng.
+ Ưu điểm:
Chế độ trả lương này đơn giản, dễ hiểu, dễ tính, công nhân có thể dễ
dàng tính được tiền lương trực tiếp trong kỳ.
Gắn được thu nhập tiền lương với kết quả lao động, năng suất, chất
lượng lao động cá nhân
=> Khuyến khích công nhân phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng
tiền lương một cách trực tiếp
+ Nhược điểm: Dễ làm công nhân chỉ quan tâm đến số lượng mà ít
chú ý đến chất lượng sản phẩm.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 21 Líp QTNL K6
Nếu thiếu những quy định chặt chẽ, hợp lý công nhân sẽ ít quan tâm
đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu, coi nhẹ việc tiết kiệm chi phí sản xuất, ít
quan tâm đến việc bảo quản máy móc.
2.3.2 Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể.
+ Khái niệm: Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể là chế độ trả
lương căn cứ vào số lượng sản phẩm hay công việc do một tập thể công
nhân đã hoàn thành và đơn giá tiền lương của một đơn vị sản phẩm hay
một đơn vị công việc.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể được áp dụng đối với
những công việc hay sản phẩm do đặc điểm về tính chất của sản phẩm (hay
công việc) không thể tách riêng từng chi tiết, từng phần việc để giao cho
từng người mà phải có sự phối hợp của một nhóm công nhân cùng thực
hiện.
Chế độ này còn được áp dụng để trả cho một nhóm người lao động
(tổ sản xuất…) khi họ hoàn thành một khối lượng sản phẩm nhất định. Chế
độ trả lương sản phẩm tập thể áp dụng cho những công việc đòi hỏi nhiều
người cùng tham gia thực hiện mà công việc của mỗi cá nhân có liên quan

đến nhau.
+ Công thức tính đơn giá:
SL
CBCV
M
)PCL(
ĐG

+
=
Hoặc:

+=
tgCBCV
M)PCL(ĐG
Trong đó:

+ :)PCL(
CBCV
Tổng số tiền lương và phụ cấp tính theo cấp
bậc công việc của cả nhóm công nhân.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 22 Líp QTNL K6
Sau khi xác định được tiền lương sản phẩm tập thể người ta có thể áp
dụng các phương pháp khác nhau để chia lương sản phẩm tập thể cho từng
công nhân Có ba phương pháp chia lương sản phẩm tập thể đó là:
*Phương pháp dùng hệ số điều chỉnh:
Áp dụng phương pháp hệ số điều chỉnh chia lương cho từng công nhân tiến
hành theo ba bước:
Bước 1: Tính tiền lương thời gian thực tế của công nhân (nhóm)
Bước 2 : Tính hệ số điều chỉnh

Bước 3 : Tính tiền lương sản phẩm cho từng công nhân.
*Phương pháp dùng thời gian hệ số:
Để tiến hành chia lương sản phẩm tập thể ta tiến hành theo ba bước:
Bước 1 : Tính thời gian làm việc thực tế quy đổi của từng công nhân
(nhóm)
Bước 2 : Tính lương sản phẩm cho một đơn vị thời gian quy đổi
Bước 3 : Tính tiền lương sản phẩm cho từng công nhân.
*Phương pháp chia lương theo bình điểm và hệ số lương:
Trình tự tiến hành như sau:
Bước 1 : Tính điểm quy đổi của từng công nhân
Bước 2 : Tính tiền lương sản phẩm cho một điểm quy đổi
Bước 3 : Tính tiền lương sản phẩm của từng người (nhóm).
+ Ưu điểm:
Có tác dụng nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phối
hợp có hiệu quả giữa các công nhân làm việc trong tổ, nhóm để cả tổ nhóm
làm việc có hiệu quả hơn.
Khuyến khích các tổ, nhóm lao động làm việc theo mô hình tổ chức
lao động tự quản.
+ Nhược điểm:
NguyÔn ThÞ Thu Trang 23 Líp QTNL K6
Nếu việc phân phối tiền lương của nhóm không chính xác có thể sẽ
gây mất đoàn kết nội bộ làm giảm động lực lao động.
* Ngoài các chế độ trả lương sản phẩm tập thể trên còn có một số chế
độ trả lương sản phẩm khác như: Chế độ trả lương sản phẩm gián tiếp; Chế
độ trả lương khoán; Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng; Chế độ trả
lương sản phẩm lũy tiến.
III. Hiệu quả của việc trả lương.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay mỗi doanh nghiệp muốn đứng
vững và phát triển thì không còn con đường nào khác là luôn phải tìm cách
cải tiến, đổi mới từng mặt và toàn diện hoạt động sản xuất kinh

doanh của mình nhằm loại bỏ những yếu tố bất hợp lý kìm hãm sự phát
triển và phát huy tối đa những yếu tố tích cực.
Tiền lương, tiền công liên quan đến đời sống của cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp. Nếu tiền lương của họ đáp ứng, phù hợp với mức
sống, đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động và
ngày càng tăng lên thì đây là một trong những động lực chính thúc đẩy họ
làm việc tốt hơn và họ sẽ có tinh thần trách nhiệm cao hơn trong công việc
cũng như ý thức phát triển doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tiền lương của họ
thấp, không đáp ứng đủ những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống thì họ sẽ
không tập trung vào làm việc mà luôn tìm cách để có được điều kiện sống
tốt hơn và như vậy, công việc của họ sẽ không hoàn thành, không đáp ứng
được yêu cầu của chất lượng cũng như số lượng sản phẩm. Chính vì vậy,
các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến đời sống của cán bộ
công nhân viên trong doanh nghiệp. Khi mức sống của xã hội tăng lên thì
các doanh nghiệp cũng phải tìm mọi biện pháp cũng như cách thức làm
tăng mức sống của người lao động trong doanh nghiệp. Đó chính là vấn đề
tiền lương.
NguyÔn ThÞ Thu Trang 24 Líp QTNL K6
Tiền lương cũng là mục tiêu cuối cùng của người lao động. Người
lao động khi bỏ công sức của mình ra để cống hiến cho doanh nghiệp thì
mục tiêu cuối cùng của họ là nhận được những đồng tiền lương, tiền công
xứng đáng với sức lao động cũng như trình độ mà họ đã cống hiến. Nếu số
tiền lương tiền công mà họ nhận được phù hợp với những gì họ bỏ ra thì họ
luôn tìm cách phát huy, phấn khởi làm việc, tìm tòi sáng tạo còn ngược lại,
nếu tiền lương tiền công mà họ nhận được không xứng đáng với những gì
họ bỏ ra thì họ sẽ chán nản, tìm mọi cách để chống đối, thậm chí họ có thể
sẽ bỏ việc để tìm công việc khác có mức lương cao hơn.
Tiền lương là một công cụ hết sức quan trọng quyết định ý thức và
hiệu quả làm việc của mỗi người, quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Chế độ tiền lương mang nặng tính bình quân chủ nghĩa

không khuyến khích được người lao động làm việc, cống hiến hết mình cho
sự phát triển chung của doanh nghiệp. Chính nó là một trong những nguyên
nhân rất quan trọng làm cho năng suất lao động còng như hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước thua kém so với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, tại mỗi doanh nghiệp vấn đề đặt ra là
phải làm tốt công tác trả lương và phân phối tiền lương cho từng cá nhân.
Khi người lao động được trả lương xứng đáng với công sức họ bỏ ra
thì họ sẽ phấn khởi làm việc và tìm mọi biện pháp làm tăng năng suất lao
động, tiết kiệm thời gian lao động, sử dụng một cách tốt nhất và có hiệu
quả nhất các trang thiết bị của doanh nghiệp.
Tiền công, tiền lương hợp lý phát huy hiệu quả tối đa đối với kỷ luật
lao động. Khi tiền công của người lao động được trả xứng đáng và phù hợp
với lợi ích của họ sẽ khuyến khích người lao động làm việc đúng với
những nội quy, quy định mà doanh nghiệp đã đề ra.
Như vậy, có thể nói bản chất của tiền lương không bó hẹp trong
phạm trù kinh tế đơn thuần được hiểu như một khoản thù lao bù đắp những
chi phí thực hiện trong quá trình lao động. Tiền lương còn là một phạm trù
kinh tế - xã hội tổng hợp phản ánh giá trị của sức lao động trong điều kiện
kinh tế - văn hóa và lịch sử nhất định, có tác động rất quan trọng đến sản
xuất, đời sống và mọi mặt kinh tế - xã hội. Vì vậy, xây dựng một hệ thống
NguyÔn ThÞ Thu Trang 25 Líp QTNL K6

×