Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.8 KB, 82 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2005 có lẽ là năm sôi động nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Tin tức về việc cổ phần hóa Vietcombank, những đợt tăng vốn điều lệ
của các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, các ngân hàng nước ngoài
trở thành cổ đông chiến lược của Sacombank, ACB, Techcombank thường
xuyên là tin chính trong các chuyên mục kinh tế trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Việt Nam – VPBank cũng đạt được nhiều thành công đáng
khích lệ: tăng vốn điều lệ từ 198 tỷ lên 310 tỷ đồng, mở rộng mạng lưới hoạt
động, tăng trưởng tốt trong hoạt động huy động vốn cũng như trong hoạt
động tín dụng, lợi nhuận tăng nhanh, Tuy vậy, trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng khốc liệt của thị trường, trong thời gian tới, VPBank cần tiếp tục
nâng cao hiệu quả hoạt động: nâng cao hiệu quả công tác quản trị, nâng cao
chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình. Một trong những biện pháp quan trọng là nâng
cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tín
dụng . Thật vậy, chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp được nâng
cao sẽ làm cơ sở cho VPBank ra những quyết định tín dụng đúng đắn, an
toàn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Với mong muốn tìm ra những biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt
động phân tích tài chính doanh nghiệp tại VPBank, đề tài: “ Nâng cao chất
lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam” đã được lựa chọn làm luận văn.
Luyện Thanh Hải 1 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
Luận văn, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1 Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng thương mại.


Chương 2 Thực trạng hoạt động phân tích Tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Việt Nam – VPBank.
Chương 3 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích Tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động tín dụng tại VPBank.

Luyện Thanh Hải 2 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế, cung cấp các loại hình dịch vụ tài chính đa dạng: huy động tiền
gửi, cho vay, cung cấp dịch vụ thanh toán, chuyển đổi tiền tệ, bảo
lãnh, Không chỉ đóng vai trò là người thu hút tiền từ trong dân cư để đầư tư,
cho vay đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, nó còn đóng vai trò là
công cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ nhằm điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Theo chức năng này, ở hầu hết các quốc gia đều có sự
phân chia thành 2 bộ phận: Ngân hàng trung ương và các Ngân hàng thương
mại (NHTM). Hiểu theo nghĩa đơn giản, NHTM là trung gian tài chính mà
một người bình thường thường xuyên giao dịch nhất. Các NHTM được phân
biệt với các tổ chức tài chính khác bởi các dịch vụ tài chính đa dạng mà nó
cung cấp cho nền kinh tế, cho dù trong điều kiện hiện nay, sự lấn sân của các
tổ chức tài chính vào việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng đang diễn ra ngày
một mạnh mẽ: NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức

kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1
Tuỳ thuộc vào cách thức phân loại mà hệ thống NHTM sẽ được tổ chức
hoạt động theo những mô hình khác nhau: Theo hình thức sở hữu: Ngân hàng
tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng quốc doanh, Ngân hàng liên doanh;
1
TS. Phan Thị Thu Hà, 2004, Giáo trình Ngân hàng thương mại.
Luyện Thanh Hải 3 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
Theo tính chất hoạt động: Ngân hàng đơn năng, Ngân hàng đa năng, Ngân
hàng bán buôn, Ngân hàng bán lẻ, Với xu hướng hoạt động trên nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành nghề và trên địa bàn rộng lớn, mô hình Ngân hàng đa năng
với mục tiêu cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng cho mọi đối tượng đang là sự
lựa chọn của nhiều Ngân hàng thương mại lớn nhằm đa dạng hóa danh mục
đầu tư, mở rộng địa bàn hoạt động, giảm thiểu rủi ro và tăng cường xây dựng
hình ảnh Ngân hàng mình, tạo vị thế cạnh tranh với các đối thủ. Trong khi đó,
mô hình Ngân hàng bán lẻ với mục tiêu chủ yếu là cung cấp các dịch vụ trực
tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ
đang là xu hướng lựa chọn của các Ngân hàng nhỏ nhằm chiếm lĩnh một phân
khúc thị trường bị bỏ qua bởi các Ngân hàng lớn.
Từ quá trình huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
uỷ thác, Ngân hàng thương mại sẽ có trong tay một lượng tiền khổng lồ. Số
tiền này sẽ được đầu tư trở lại nền kinh tế : cho vay đối với các tổ chức, cá
nhân để phục vụ quá trình sản xuất, tiêu dùng, thực hiện đầu tư , bảo lãnh, tài
trợ, chiết khấu, kinh doanh ngoại tệ, Thực hiện các hoạt động này, Ngân
hàng thương mại đã cho ta thấy rõ tính ưu việt của một trung gian tài chính: là
người dẫn vốn từ nơi dư thừa tới nơi có nhu cầu, với chi phí được giảm thiểu
một cách tối đa nhờ vào quy mô lớn cũng như khả năng tiếp cận thông tin có
hiệu quả của đội ngũ nhân viên Ngân hàng.
Từ lịch sử thành lập Ngân hàng, trải qua một quá trình phát triển lâu

dài cho đến nay, rất nhiều dịch vụ mới, hiện đại đã được các NHTM cung cấp
cho nền kinh tế: thanh toán điện tử, Ngân hàng tại nhà (Home banking), Ngân
hàng qua điện thoại (Phone banking), Tuy vậy, cho đến ngày nay, những
dịch vụ cơ bản mà NHTM cung cấp vẫn không thay đổi so với thời điểm hình
thành ban đầu: Thực hiện đổi tiền, mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay,
đầu tư, cung cấp các dịch vụ thanh toán, chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo
quản tài sản, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, Việc cung ứng đa dạng
Luyện Thanh Hải 4 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
các dịch vụ từ truyền thống đến hiện đại này của NHTM đã góp phần thúc
đẩy các hoạt động thanh toán, tiêu dùng, đầu tư, từ đó góp phần nâng cao
khả năng vận hành của nền kinh tế.
Rõ ràng, với những hoạt động cơ bản, những chức năng quan trọng
của mình, sự hoạt động có hiệu quả của Ngân hàng thương mại đóng một vai
trò quan trọng trong việc tạo sự ổn định, tăng hiệu quả, cũng như thúc đẩy sự
phát triển bền vững của nền kinh tế. Một trong những yếu tố góp phần quan
trọng đến sự thành công của một Ngân hàng thương mại chính là hoạt động
tín dụng của Ngân hàng thương mại đó.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Tín dụng của Ngân hàng thương mại
* Khái niệm
Hoạt động tín dụng được xác định: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín
dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có
hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
2
Khi nói đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại, có thể hiểu
theo nghĩa là việc Ngân hàng cho vay đối với khách hàng, là hoạt động tài trợ
của Ngân hàng cho khách hàng.
* Các hình thức tín dụng của NHTM

Các Ngân hàng thương mại lớn hiện nay đều tổ chức thực hiện đa dạng
các loại hình tín dụng từ cho vay thực hiện đầu tư dự án, cho vay hỗ trợ sản
xuất kinh doanh, bảo lãnh, cho đến các hình thức tài trợ tiêu dùng như cho
vay thấu chi, cho vay trả góp , Việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng là
một trong những yếu tố cần thiết để mở rộng tín dụng có hiệu quả, cạnh tranh,
cũng như đảm bảo phân bổ rủi ro cho Ngân hàng. Chính bởi vậy, các loại
2
Luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX
Luyện Thanh Hải 5 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
hình tín dụng rất đa dạng và ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất,
kinh doanh, và của đời sống. Việc phân loại các nghiệp vụ tín dụng có thể dựa
trên nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc tính của loại hình, cũng như
vào mục đích quản lý của Ngân hàng.
Phân theo hình thức cấp tín dụng ta có các nghiệp vụ Chiết khấu
thương phiếu, cho vay: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn
mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp , cho thuê tài sản (thuê mua), bảo
lãnh,
Phân theo hình thức đảm bảo ta có tín dụng tín chấp và tín dụng thế
chấp, trong đó tín dụng tín chấp thường rất hạn chế do nó đòi hỏi uy tín rất
cao của khách hàng để đảm bảo cho việc chi trả của khoản tín dụng được cấp.
Phân theo thời hạn tín dụng ta có tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn
Ngoài ra, việc phân loại tín dụng có thể thực hiện theo nhiều tiêu thức
khác như phân loại tín dụng theo ngành nghề kinh doanh, theo lĩnh vực tài
trợ, theo loại tiền, theo đối tượng được cấp tín dụng, Việc phân loại tín dụng
rõ ràng như vậy sẽ rất hữu ích cho nhà quản lý trong việc tổ chức vận hành,
điều hành, kiểm soát có hiệu quả các hoạt động tín dụng của Ngân hàng, góp
phần quan trọng vào thành công của Ngân hàng trên thị trường đang cạnh
tranh ngày một khốc liệt.
1.1.2.2. Các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng

Để đảm bảo cho khả năng sinh lời, cũng như đảm bảo tính an toàn cho
Ngân hàng, hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại phải dựa trên một
số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy
định, quy chế về cho vay, tổ chức hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước cũng như của chính các Ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời hạn
xác định. Nguồn gốc của các khoản tín dụng của Ngân hàng chính là từ các
khoản tiền mà Ngân hàng huy động (vay mượn) từ dân cư, các tổ chức kinh
Luyện Thanh Hải 6 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
tế, tổ chức tài chính khác. Vì vậy, để đảm bảo khả năng chi trả khi phát sinh
nhu cầu từ phía người cho vay, cũng như đảm bảo có thể bù đắp chi phí hoạt
động, giữ vững sự ổn định, phát triển, Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín
dụng phải thực hiện cam kết này.
Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng đúng mục đích đã thoả
thuận khoản tín dụng được cấp. Mục đích sứ dụng tín dụng của khách hàng
phải hợp pháp, không bị pháp luật cấm, phù hợp với quy định của Ngân hàng
Nhà nước, cũng như quy định riêng của Ngân hàng cấp tín dụng.
Thứ ba, Ngân hàng tài trợ dựa trên dự án đầu tư, phương án sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Đây là cơ sở để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong
hoạt động tín dụng của Ngân hàng, vì dự án có hiệu quả thì mới có được
nguồn trả nợ tin cậy, đảm bảo cho Ngân hàng. Tuy vậy, việc xác định tính
hiệu quả đôi khi còn khó khăn do không thể dự đoán chính xác các điều kiện
thị trường, vì vậy để đảm bảo cho khoản tín dụng, Ngân hàng có thể yêu cầu
khách hàng cung cấp tài sản đảm bảo, tuỳ theo mức độ đảm bảo của tài sản,
cũng như mức độ rủi ro của dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
1.1.2.3. Quy trình tín dụng của Ngân hàng thương mại
Để chuẩn hoá quy trình tiếp xúc, phân tích, giải ngân và thu nợ đối với
khách hàng, các NHTM đặt ra quy trình tín dụng phù hợp với đặc điểm về tổ
chức, quản lý tại chính Ngân hàng của mình. Đây chính là các bước, nội dung

công việc mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong Ngân hàng
phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Quy trình tín dụng bao gồm 4 bước cơ bản theo như mô hình được
trình bày sau đây.
Luyện Thanh Hải 7 TCDN 44B
Phân tích
trước khi cấp
tín dụng
Xây dựng và
ký kết hợp
đồng tín dụng
Giải ngân và
kiểm soát
trong khi cấp
tín dụng
Thu nợ hoặc
đưa ra các
phán quyết
tín dụng mới
Luận văn tốt nghiệp
Bước 1 Bước 2 Bước 3 Bước 4
Mô hình 1.1. Quy trình tín dụng của NHTM
 Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của hoạt động
tín dụng tài trợ cho doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các
thông tin liên quan đến khách hàng như tư cách pháp lý, uy tín, khả năng hoạt
động hiện tại của khách hàng, mục đích và năng lực sử dụng vốn vay, khả
năng tạo ra lợi nhuận cũng như chi trả, và các điều kiện khác có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp.
 Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng

Hợp đồng tín dụng là thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng, trong
đó cam kết phía Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một khoản tín dụng nhất
định trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định, với những điều khoản
quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Một hợp đồng tín dụng giữa khách hàng với Ngân hàng sẽ bao gồm
những nội dung như: thông tin về khách hàng, nhu cầu tín dụng của khách,
mục đích sử dụng khoản tín dụng, lãi suất áp dụng, thời hạn của khoản tín
dụng, cũng như các mức phí, các điều kiện về loại đảm bảo, điều kiện giải
ngân, phương thức thanh toán, và các quy định, điều kiện khác.
Đây là cơ sở để Ngân hàng tiến hành giải ngân và thu hồi nợ theo đúng
tiến độ, cũng như đảm bảo cho những yêu cầu về mặt pháp lý, về mặt an
toàn, về phương diện quản lý.
 Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi kí kết hợp đồng tín dụng, theo đúng như những cam kết trong
hợp đồng, Ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng. Sau khi giải
Luyện Thanh Hải 8 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
ngân, trong thời hạn hợp đồng vẫn còn hiệu lực, phía Ngân hàng vẫn phải
kiểm soát tài chính đối với khách hàng để đảm bảo cho khoản vay của mình.
Trong thời gian này, việc phân tích tài chính cũng cần thiết để đảm bảo Ngân
hàng có thể phát hiện những thay đổi về tình hình sản xuất kinh doanh, tình
hình tài chính của doanh nghiệp, việc thực hiện hợp đồng, tiến độ công việc
của khách hàng nhằm tránh xảy ra những kết cục bất lợi cho phía Ngân hàng.
 Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi
đã cam kết. Trong một số trường hợp, việc thanh toán gốc hay lãi của khách
hàng cho Ngân hàng không được thực hiện như cam kết: trả thiếu, trả chậm.
Trong trường hợp đó, Ngân hàng phải trực tiếp tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này. Nếu khách hàng thực sự gặp khó khăn trong kinh doanh, trong
hoạt động và vẫn đang cố gắng khắc phục khó khăn, có thiện chí trong việc

thanh toán nợ, Ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ
hoặc miễn giảm nợ , cho vay thêm để hỗ trợ khách hàng. Đó chính là sự trợ
giúp về tài chính cần thiết để giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những bất ổn
trong hoạt động của mình. Tuy vậy khi khách hàng do yếu kém trong hoạt
động sản xuất, quản lý, hoặc do có tình trạng lừa đảo, cố tình trì hoãn, nợ nần
dây dưa, thì Ngân hàng lần lượt phải xem xét đến các phương án như phân
loại lại nợ, áp dụng các biện pháp thu hồi nợ như phong toả và bán tài sản thế
chấp, nhờ đến sự trợ giúp của cơ quan Pháp luật,
Bằng việc xem xét quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng, một lần
nữa vai trò quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
tín dụng được khẳng định lại. Hoạt động phân tích tài chính của khách hàng
được thực hiện ở các giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay, và đây là yếu
tố cơ bản quyết định đến chất lượng của một khoản tín dụng, tác động trực
tiếp tới khả năng hoạt động, cũng như lợi nhuận của Ngân hàng. Việc phân
Luyện Thanh Hải 9 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
tích chính xác các thông tin là điều kiện tiên quyết đối với hiệu quả sử dụng
của một khoản tín dụng cả về phía Ngân hàng cũng như về phía khách hàng.
1.2. CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm, mục tiêu phân tích Tài chính doanh nghiệp
* Khái niệm
Phân tích Tài chính doanh nghiệp là việc sử dụng một tập hợp các khái
niệm, phương pháp và các công cụ phục vụ cho việc xử lý các thông tin kế
toán, những thông tin về quản lý, những thông tin về thị trường, nhằm đánh
giá toàn diện về thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, mức độ và chất
lượng hiệu quả hoạt động, đánh giá rủi ro, cũng như đưa ra những dự báo
trong tương lai của doanh nghiệp.

* Mục tiêu phân tích Tài chính doanh nghiệp đối với NHTM
Từ khái niệm về phân tích Tài chính doanh nghiệp ta có thể thấy vai trò
quan trọng của việc phân tích này. Việc đánh giá năng lực tài chính của một
doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, không chỉ với các cán bộ quản lý doanh
nghiệp đó mà còn với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, bạn hàng, người cho
vay. Khi đánh giá đúng đắn về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, các đối
tượng trên có thể đưa ra những quyết định chính xác về khả năng tiếp cận với
doanh nghiệp trên giác độ nhà đầu tư, người cho vay hay là đối tác của doanh
nghiệp,
Người cho vay phải phân tích tài chính doanh nghiệp để xác định khả
năng vay và trả nợ của người vay vốn. Đặc biệt đối với các NHTM, khi giữ
vai trò là người cho vay, việc hoàn trả gốc và lãi vay đúng thời hạn là một yếu
tố rất quan trọng, tác động trực tiếp tới khả năng thanh khoản, khả năng sinh
Luyện Thanh Hải 10 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
lãi cũng như khả năng hoạt động của Ngân hàng. Việc hoàn trả các khoản gốc
và lãi vay đúng kì hạn hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực hoạt động, vào
nguồn trả nợ của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có hoạt động kinh
doanh yếu kém hoặc hoạt động kinh doanh không có triển vọng cải thiện hay
phát triển sẽ có rất ít cơ hội được tiếp cận với các khoản tín dụng của ngân
hàng. Trong khi đó, một doanh nghiệp có thể kinh doanh hiệu quả nhưng có
yếu kém trong công tác quản lý tài chính cũng có thể tác động xấu đối với
việc thanh toán đầy đủ, đúng hạn khoản tín dụng của NHTM, gây bất lợi cho
Ngân hàng. Bởi vậy, vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp là một bước
quan trọng để xem xét việc có xác lập quan hệ tín dụng giữa NHTM và khách
hàng hay không.
Như vậy, mục đích của phân tích tài chính doanh nghiệp là việc xác
định đúng năng lực tài chính của doanh nghiệp để Ngân hàng ra quyết định
cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoặc tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các
doanh nghiệp đang sử dụng khoản tín dụng của mình. Phân tích tài chính

doanh nghiệp là một khâu quan trọng xuyên suốt trong hoạt động tín dụng của
NHTM, từ lúc phát sinh nhu cầu tín dụng từ phía khách hàng, qua quá trình
phân tích tín dụng, trong giai đoạn cho vay, cho đến khi tất toán một hợp
đồng tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn và sinh lợi cho khoản tín dụng của
Ngân hàng.
1.2.1.2. Nội dung phân tích Tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng
thương mại
Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Việc xác định những thông tin được sử dụng trong phân tích là rất quan
trọng. Do đặc điểm hoạt động Ngân hàng là phải đảm bảo chính xác, an toàn
cao, những thông tin mà Ngân hàng cần tập hợp để phân tích, xử lý không chỉ
giới hạn trong những báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Có thể phân
Luyện Thanh Hải 11 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
chia nguồn thông tin cần thiết phục vụ công tác phân tích theo nguồn thông
tin như sau:
* Thông tin do khách hàng cung cấp : là những thông tin có được do
quá trình tiếp xúc lần đầu với khách hàng, thông tin do khách hàng cung cấp
trong hồ sơ vay vốn. Những thông tin về tài chính của khách hàng có thể có
được trong hồ sơ tài chính, gồm các báo cáo tài chính trong một số năm, các
kế hoạch tài chính trong tương lai. Một thông tin cũng rất quan trọng là
phương án vay vốn với sự phản ánh chi tiết về sử dụng tiền vay và kế hoạch
trả nợ của khách hàng.
Bằng việc kiểm nghiệm ban đầu giữa thông tin được cung cấp bởi các
nhà quản lý doanh nghiệp với thông tin được cung cấp thông qua các tài liệu,
hồ sơ tài chính cũng do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng có thể bước đầu
đánh giá được mức độ tin cậy, cũng như tính chính xác của các thông tin. Cán
bộ tín dụng có thể sử dụng thông tin kế toán của doanh nghiệp như là một
nguồn thông tin quan trọng nhất. Do bản chất của hoạt động kế toán là việc
phản ánh và giám đốc một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các

mặt hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp, kế toán hoạt động như một
nhà cung cấp thông tin đáng tin cậy cho việc phân tích tài chính. Thông tin kế
toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán − là những báo cáo
tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn vốn của chủ sở hữu và công nợ cũng
như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Việc
phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được thực hiện dựa trên các báo cáo
kế toán chủ yếu: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo
cáo ngân quỹ (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
 Bảng cân đối kế toán (Bảng tổng kết tài sản) là một báo cáo tài
chính phản ánh tổng quát tình hình vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm
nhất định theo tài sản và theo nguồn hình thành nên tài sản (nguồn vốn). Về
bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với
nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả.
Luyện Thanh Hải 12 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên
cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình, kết quả kinh doanh, trình độ sử
dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Nhìn vào
Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được về loại hình doanh
nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế
toán là một tài liệu quan trọng giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả
năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của
doanh nghiệp.
 Báo cáo kết quả kinh doanh: là một báo cáo tài chính phản ánh
các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cho
một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và
kết quả sử dụng các nguồn lực về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý
trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường, báo cáo kinh doanh được NHTM sử dụng để phân tích
là báo cáo về Lợi nhuận, lỗ: phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

gồm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động
bất thường.
Đối với nhà phân tích, báo cáo kinh doanh cũng đóng một vai trò quan
trọng vì nó cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh
doanh, cho phép dự tính về khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương
lai. Báo cáo kinh doanh sử dụng kết hợp với Bảng cân đối kế toán sẽ cho
phép cán bộ tín dụng tính toán được các chỉ tiêu về hoạt động, về khả năng sử
dụng tổng hợp các nguồn lực của doanh nghiệp (sẽ được làm rõ trong phần
tiếp theo). Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh
thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa dịch vụ, so sánh tổng chi phí
với số tiền thực xuất quỹ phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp, từ đó xác
định lại các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, làm rõ khả năng chiếm
dụng vốn hay tình trạng bị chiếm dụng vốn của doanh nghiệp,
Luyện Thanh Hải 13 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (báo cáo ngân quỹ) là báo cáo tài
chính phản ánh các khoản thu và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo từng
hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Mục đích của
báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp cho người sử dụng biết được các
thông tin về sự biến động của tiền và các khoản tương đương tiền, sự vận
động của dòng tiền đối trọng với dòng vật chất của doanh nghiệp
Cán bộ tín dụng khi xem xét báo cáo ngân quỹ có thể dự đoán được
lượng tiền mang lại từ các hoạt động tương lai của doanh nghiệp thông qua
xem xét thu và chi trong quá khứ, có thể đánh giá khả năng thanh toán của
doanh nghiệp cũng như khả năng quản lý của nhà lãnh đạo, tìm ra mối liên hệ
giữa lợi nhuận (lỗ) ròng và luồng tiền tệ vì doanh nghiệp không thể thu được
lợi nhuận nếu trong quá trình hoạt động, họ thiếu tiền để phục vụ sản xuất
kinh doanh. Cán bộ tín dụng cũng có thể xác định những nhu cầu tài chính
trong tương lai của doanh nghiệp như nhu cầu đầu tư tài sản cố định, đầu tư
vào mở rộng quy mô hay vào các hoạt động khác,

Bên cạnh những báo cáo tài chính trên, cán bộ tín dụng cũng có thể
dựa vào Thuyết minh báo cáo tài chính để phục vụ cho việc phân tích của
mình. Đây là một báo cáo được lập dựa trên các sổ kế toán kỳ báo cáo, Bảng
cân đối kế toán kỳ báo cáo, Báo cáo kết quả kinh doanh kỳ báo cáo và Thuyết
minh báo cáo tài chính của năm trước. Vì được lập dựa trên các báo cáo tài
chính quan trọng như vậy nên Thuyết minh báo cáo tài chính cũng là một
nguồn thông tin tổng hợp đáng tin cậy cho việc phân tích.
Như vậy, bằng việc xem xét đến các báo cáo tài chính của một doanh
nghiệp, cán bộ tín dụng có thể tiến hành phân tích, đánh giá Tài chính doanh
nghiệp một cách khá đầy đủ, chi tiết, nhằm phục vụ cho việc ra quyết định
của mình. Bên cạnh nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp, cán bộ tín dụng
cần quan tâm tới các thông tin khác được cung cấp bên ngoài doanh nghiệp,
nhằm tránh tình trạng chỉ nhận được thông tin từ một chiều, dễ gây sai lệch về
kết quả đánh giá.
Luyện Thanh Hải 14 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
* Thông tin do Ngân hàng tìm hiểu, mua lại: để làm phong phú thêm
nguồn tin, tăng độ tin cậy của thông tin, bằng các cách khác nhau, Ngân hàng
có thể khai thác thêm những thông tin liên quan đến các hoạt động, cũng như
tình trạng hiện tại, thông tin nội bộ, của doanh nghiệp. Đó có thể là những
thông tin xác minh những hồ sơ mà doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng,
thông tin bổ sung làm rõ cho các báo cáo trong quá khứ và hiện tại, cũng có
thể là thông tin có liên quan, tác động mật thiết tới hoạt động tương lai của
doanh nghiệp. Nói chung, đây là những thông tin mà để có được, Ngân hàng
phải chịu những tốn kém về thời gian và chi phí.
* Thông tin do Ngân hàng nắm giữ, lưu trữ : là những thông tin mà
Ngân hàng đã có được từ các quá trình giao dịch trước đây của khách hàng
với Ngân hàng, những thông tin về môi trường, lĩnh vực kinh doanh, ngành
nghề của doanh nghiệp mà cán bộ tín dụng đã tích luỹ được qua quá trình làm
việc với các khách hàng tương tự, từ sự am hiểu về công việc sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, Đây là thông tin đáng tin cậy nhất vì nó được xây
dựng, đã qua quá trình xử lí, kiểm nghiệm trên nền tảng vững chắc, lâu dài,
hơn nữa đó là những thông tin không bị “bóp méo” do những lý do khác
nhau. Tuy vậy, để trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy nhất, công tác lưu
trữ và xử lý thông tin từ trước phải được diễn ra một cách an toàn, chính xác,
đảm bảo dễ dàng cho việc tra cứu.
Việc kết hợp sử dụng các nguồn thông tin hợp lý là nền tảng cho hoạt
động phân tích bởi để phân tích có hiệu quả, không chỉ phụ thuộc vào khả
năng, kĩ năng của cán bộ tín dụng mà còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố chất
lượng nguồn thông tin sử dụng cho phân tích. Bằng việc xác định chính xác
các thông tin, việc phân tích sẽ được tiến hành dễ dàng, với độ tin cậy cao, từ
đó nâng cao hiệu quả hoạt của động tín dụng Ngân hàng.
Phương pháp phân tích
Luyện Thanh Hải 15 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
Phương pháp truyền thống trong phân tích tài chính doanh nghiệp là
phương pháp tỷ số, trong đó các tỷ số được sử dụng để đánh giá, so sánh. Các
tỷ số này là các tỷ số đơn, được thiết lập bằng cách lấy tỷ lệ của chỉ tiêu này
so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao, hiệu quả lớn
bởi lẽ, thứ nhất, nguồn thông tin kế toán như ta đã biết – sẽ cung cấp một
lượng thông tin đáng kể với độ tin cậy khá cao; thứ hai, việc áp dụng các
công nghệ phân tích xử lý hiện đại cho phép nhà phân tích có thể xử lý thông
tin một cách nhanh chóng, chính xác với số lượng lớn; và thứ ba, phương
pháp này giúp cho nhà phân tích khai thác số liệu một cách hiệu quả, dựa vào
đó có thể phân tích có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục,
hoặc cho từng giai đoạn.
Để phát huy có hiệu quả kết quả của phân tích thông qua phương pháp
tỷ số, cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu, và qua đó phải so sánh
giữa trị số mà doanh nghiệp đạt được với trị số tham chiếu đó. Như vậy, song
song với phương pháp tỷ số, chúng ta sẽ áp dụng phương pháp so sánh. Khi

phân tích, cán bộ tín dụng thường so sánh các bộ số liệu nhận được qua thời
gian (so sánh giữa các thời kỳ) để nhận biết xu hướng thay đổi trong tình hình
tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ; so sánh theo không gian
(so sánh với mức trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong
ngành; so sánh giữa chỉ tiêu đạt được với chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp
để thấy được mức độ phấn đấu, cũng như khả năng dự tính của doanh
nghiệp,
Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng còn có thể sử dụng phương pháp phân
tích tài chính DUPONT để phục vụ cho công việc của mình. Bản chất của
phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh thực trạng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập trên
vốn chủ sở hữu (ROE), thành tích số của một chuỗi các tỷ số có mối quan
hệ nhân quả. Với phương pháp này, người phân tích có thể nhận biết được
Luyện Thanh Hải 16 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
nguyên nhân dẫn đến các kết quả đạt được của doanh nghiệp, thông qua phân
tích ảnh hưởng của từng tỷ số thành phần tới tỷ số tổng hợp.
Tóm lại, để phân tích Tài chính doanh nghiệp có hiệu quả, cán bộ tín
dụng không những phải có khả năng tiếp cận, đánh giá nguồn thông tin mà
còn phải có kĩ năng phân tích, xử lí thông tin, phải có đủ năng lực chuyên
môn mới có thể đưa ra kết luận chính xác, phục vụ tốt cho việc phân tích của
mình. Để làm rõ hơn vấn đề này, chúng ta có thể xem xét nội dung phân tích
Tài chính doanh nghiệp của NHTM trong hoạt động tín dụng của mình.
Nội dung phân tích Tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng thương mại
* Phân tích các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính
 Đánh giá tài sản của khách hàng
Trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, phần tài sản phản ánh
số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm. Các thông tin về tài sản cho biết quy
mô, chất lượng tài sản, khả năng quản lý của khách hàng. Hơn nữa, đối với

những tài sản của khách hàng dùng để đảm bảo cho khoản vay, sẽ quyết định
đến quy mô tài trợ cũng như khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng trong
trường hợp xảy ra rủi ro. Vì vậy, các thông tin về tài sản của khách hàng khá
quan trọng đối với quyết định cho vay của Ngân hàng.
Ngân quỹ : bao gồm tiền gửi Ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản
đầu tư ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, các khoản phải
thu. Các khoản tiền gửi và tiền mặt trong ngân quỹ của doanh nghiệp luôn có
thể đáp ứng được nhu cầu chi trả, tuy vậy trong cơ cấu tài sản của doanh
nghiệp thì giá trị này thường chiếm một phần rất nhỏ, bởi các doanh nghiệp
không muốn bị ứ đọng về vốn. Chính vì vậy, khi xem xét ngân quỹ của doanh
nghiệp, Ngân hàng cần quan tâm đến các khoản phải thu, và loại trừ những
khoản không thu được, khó thu được, hay đã bán lại cho người khác. Các
khoản tín dụng ngắn hạn sẽ liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của
Luyện Thanh Hải 17 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay hoặc kì hạn trả tiền có thể tính toán dựa
vào số ngày của kì thu tiền.
Hàng tồn kho: Là một khoản mục khá quan trọng trong phân tích tài
chính của khách hàng. Rất nhiều khoản vay ngắn hạn nhằm mục đích tăng dự
trữ hàng hoá phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu hàng
tồn kho của doanh nghiệp sẽ cho phép cán bộ tín dụng đánh giá được tình
trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: hàng tồn kho có quá nhiều hay
không, nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng đột biến hàng tồn kho? Do yếu
kém trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay do việc mở rộng sản
xuất kinh doanh? Nếu hàng tồn kho quá ít thì nguyên nhân là do doanh nghiệp
trì trệ trong hoạt động kinh doanh phải cắt giảm sản lượng hay do hoạt động
sản xuất kinh doanh tiến hành có hiệu quả nên việc sản xuất, cung ứng không
đáp ứng kịp thời với nhu cầu về sản lượng?
Phân tích hàng tồn kho cũng phải gắn với việc kiểm tra sổ sách, kho
bãi của doanh nghiệp để xác định liệu hàng tồn kho có đúng như khai báo,

đánh giá phẩm chất, quy cách của hàng tồn kho, phát hiện hàng giả, hay hàng
nhận gửi,
Có thể nói, phân tích, đánh giá chỉ tiêu về tiền, phải thu và hàng tồn
kho là những đánh giá cơ bản đầu tiên của phân tích tài chính doanh nghiệp,
nhằm có được cái nhìn tổng thể ban đầu về khách hàng.
Bên cạnh đó, Tài sản cố định của doanh nghiệp cũng được xem xét,
tìm hiểu, vì thông thường, ở các doanh nghiệp sản xuất thì giá trị tài sản cố
định chiếm tỷ trọng lớn, nó sẽ liên quan đến mức độ đầu tư của doanh nghiệp
cho sản xuất, khả năng đảm bảo cho những khoản vay của doanh nghiệp.
Việc đánh giá về tài sản cố định sẽ chủ yếu phục vụ cho hoạt động tài trợ
trung và dài hạn của Ngân hàng.
 Đánh giá nguồn vốn của khách hàng
Phân tích Nợ của khách hàng: có thể phân chia Nợ thành nợ ngắn hạn
và nợ dài hạn, trong đó yếu tố quan trọng là Nợ ngắn hạn. Để có thể duy trì
Luyện Thanh Hải 18 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
hoạt động, doanh nghiệp phải quản lý tốt tình hình tài chính, đảm bảo việc
thu, chi đúng hạn. Các khoản nợ ngắn hạn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động quản lý tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Nếu không đảm bảo chi
trả trong ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản ngay cả
khi hoạt động kinh doanh vẫn đang diễn ra thuận lợi. Bởi vậy, Ngân hàng cần
quan tâm đến chỉ tiêu về nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, nguồn đảm bảo cho
việc chi trả các khoản nợ đó khi đến hạn, cũng như quan tâm đến các khoản
nợ xấu của doanh nghiệp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Các chủ nợ của
khách hàng cũng cần được quan tâm nghiên cứu để Ngân hàng xác định vị thế
của mình trong số các chủ nợ, liên quan đến thứ tự ưu tiên trong thanh toán
sau này.
Phân tích Vốn chủ sở hữu: được thể hiện dưới hình thức vốn góp ban
đầu, các quỹ, lợi nhuận giữ lại, Xem xét vốn chủ sở hữu cho phép cán bộ tín
dụng đánh giá mức độ đầu tư, mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp,

khả năng mở rộng tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Rõ ràng, với các điều kiện tương đương thì một doanh nghiệp có vốn chủ sở
hữu lớn hơn sẽ có cơ hội cao hơn để tiếp cận với khoản tín dụng của Ngân
hàng.
 Phân tích luồng tiền
Việc khách hàng tạo ra nhiều lợi nhuận trong quá khứ hoặc có khả
năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai cũng chưa đủ để đảm bảo cho việc hoàn
thành nghĩa vụ chi trả của khách hàng, trong trường hợp việc quản lý thu –
chi của doanh nghiệp có nhiều bất cập. Liên quan chặt chẽ với khả năng hoạt
động của doanh nghiệp là hoạt động quản lý thu – chi, vào, ra của dòng tiền
đối trọng với dòng vật chất. Khi kỳ hạn thanh toán nợ lệch pha với kỳ hạn thu
tiền của doanh nghiệp, vấn đề hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cho Ngân hàng có
thể bị vi phạm. Chính vì vậy, Ngân hàng cần đánh giá chi tiết cả sự vận động
dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai để có thể đưa ra những dự tính,
những quyết định hợp lý liên quan đến việc cấp tín dụng cho khách hàng.
Luyện Thanh Hải 19 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
* Phân tích các nhóm tỷ số tài chính
Như ta đã biết, phương pháp tỷ số là phương pháp rất thông dụng
trong phân tích tài chính một doanh nghiệp. Khi sử dụng, có thể kết hợp với
phương pháp so sánh hoặc phương pháp phân tích DUPONT để có thể đánh
giá, so sánh về mặt thời gian, không gian giữa các giá trị nhận được, hoặc
phân tích ảnh hưởng, tác động của các nhân tố khác nhau tới chỉ tiêu nhân tố
tổng hợp. Liên quan đến phân tích các tỷ số, có thể phân chia thành các nhóm
chỉ tiêu sau:
 Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các
nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động
 Khả năng thanh toán hiện hành = 

Nợ ngắn hạn
Như ta đã biết, tài sản lưu động bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn
hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và hàng tồn kho; còn nợ ngắn hạn
bao gồm các khoản vay ngắn hạn các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà
cung cấp, phải trả phải nộp khác, Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có
thời hạn nhất định, tuy vậy không lớn hơn một năm.
Tỷ số này cho phép xác định khả năng thanh toán trong ngắn hạn của
doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền.
Tài sản lưu động – dự trữ
 Khả năng thanh toán nhanh = 
Nợ ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu được đo bằng tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh
với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh
chóng chuyển đổi thành tiền, gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản
phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn
Luyện Thanh Hải 20 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
trong số các tài sản lưu động, và dễ bị giảm giá trị khi bán gấp. Do vậy, tỷ số
khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp mà không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ.
Trên thực tế, việc sử dụng chỉ tiêu thanh toán nhanh sẽ hợp lý hơn việc
sử dụng chỉ tiêu thanh toán hiện hành vì một doanh nghiệp chỉ thực sự quản
lý các hoạt động tốt khi có thể đáp ứng các yêu cầu chi trả đến hạn mà không
phải bán bớt đi các khoản dự trữ - vốn là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Thêm vào đó, việc quản lý các khoản mục trong tài sản lưu
động hợp lý (được phản ánh rõ nét hơn qua chỉ tiêu thứ hai) cũng sẽ giúp cho
doanh nghiệp hoạt động có ổn định và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng

(net working capital ) hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này được xác định bằng cách xác định phần chênh lệch giữa tổng tài sản
lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hay là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên
ổn định (vốn dài hạn) với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ
thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ
thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào vốn lưu động ròng. Do
vậy sự tăng trưởng của không ít các doanh nghiệp còn được thể hiện ở khả
năng tăng trưởng vốn lưu động ròng.
 Nhóm tỷ số phản ánh khả năng cân đối vốn
Được sử dụng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ. Trong phân tích tài chính, cán bộ
tín dụng sẽ nhìn vào mức độ góp vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để có thể
đánh giá mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu các
chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ vào trong tổng vốn thì khi xảy ra rủi ro
trong kinh doanh, các chủ nợ sẽ là người gánh chịu phần lớn thiệt hại, như
vậy các chủ sở hữu vừa có thể nắm quyền điều hành hoạt động doanh nghiệp
nhưng lại phải chịu trách nhiệm rất nhỏ. Đó là việc bất hợp lý mà bất kỳ chủ
Luyện Thanh Hải 21 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
nợ nào cũng không mong muốn. Bởi vậy, việc cân nhắc tài trợ tín dụng cho
doanh nghiệp cũng phần nào bị tác động bởi kết quả phân tích về nợ của
doanh nghiệp
 Hệ số nợ : được xác định bằng tỷ số nợ trên tổng nguồn vốn (tài
sản), phản ánh nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc
góp vốn. Về phía các chủ nợ, họ thích hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng
thấp thì khoản vay của họ càng được đảm bảo an toàn, trong khi đó chủ sở
hữu doanh nghiệp thì lại ưa thích hệ số nợ cao vì họ muốn gia tăng lợi nhuận
bằng cách mở rộng đi vay phục vụ việc tăng cường hoạt động sản xuất kinh
doanh đem lại lợi nhuận lớn, lại được hưởng phần tiết kiệm thuế nhờ lãi vay,
mà vẫn có thể toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nhưng, nếu hệ số nợ quá

cao, tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp là hoàn toàn có khả
năng xảy ra, bởi vậy xác định hệ số nợ hợp lý là công việc phân tích dành
cho phía Ngân hàng khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng.
Bên cạnh hệ số nợ, tỷ suất tự tài trợ cũng là một chỉ tiêu có giá trị
tương đương trong việc phân tích khả năng tự chủ về vốn, khả năng mở rộng
tín dụng đối với doanh nghiệp. Tỷ suất tự tài trợ được xác định bằng cách lấy
tỷ số giữa vốn chủ sở hữu và tổng nguồn vốn, như vậy có thể dễ dàng nhận
thấy giữa Hệ số nợ và Tỷ suất tự tài trợ có mối liên hệ với nhau: tổng của 2
chỉ tiêu này đúng bằng 1 đơn vị.
 Khả năng thanh toán lãi vay = EBIT/ lãi vay.
Trong đó, EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay (Earning Before Tax
and Interests), phản ánh số lợi nhuận trước thuế mà doanh nghiệp đạt được
chưa tính đến yếu tố phải trả lãi vay. Chỉ tiêu này chỉ ra mức độ của lợi nhuận
đảm bảo khả năng trả lãi vay là như thế nào. Nếu chỉ tiêu này không lớn hơn
1, nó chỉ ra rằng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không
đủ để bù đắp chi phí trả lãi, và nếu tình hình tài chính không được tốt, việc
Luyện Thanh Hải 22 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
không thể hoàn trả lãi vay đến hạn đe doạ trực tiếp đến tình trạng phá sản của
doanh nghiệp.
 Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để tài trợ cho
các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do vậy, bên
cạnh phân tích chỉ tiêu về sử dụng tổng tài sản, cán bộ tín dụng có thể phân
tích các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nên tài sản.
Trong phân tích này, chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu để xem xét khả
năng hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh thu trong năm
 Vòng quay tiền = 

Tiền và các tài sản tương đương tiền bình
quân
Vòng quay tiền cho phép xác định số lần mà tiền và các tài sản tương
đương được quay vòng trong một năm. Chỉ số này cao cho thấy hiệu quả sử
dụng tiền của doanh nghiệp là tốt, và nó còn phản ánh khả năng hỗ trợ cho
việc thanh toán bằng tiền của nguồn thu từ bán hàng là tốt. Tuy vậy, do chưa
phản ánh được giá vốn của hàng bán trong đó, cũng như chưa phản ánh được
thời hạn thu tiền của doanh thu, nên chưa chắc doanh thu của doanh nghiệp
tăng là kết quả của sự gia tăng trong hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh thu trong năm
 Vòng quay hàng tồn kho = 
Giá trị hàng tồn kho bình quân
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số này cho biết số vòng quay của hàng tồn
kho trong năm kinh doanh, nếu vòng quay lớn phản ánh tài sản tồn kho quay
vòng nhanh, và đó là dấu hiệu cho thấy tình hình hoạt động khả quan của
Luyện Thanh Hải 23 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
doanh nghiệp. Tuy vậy, phải xác định rõ liệu lượng hàng tồn kho bình quân
trong năm có phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không, hay do hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn nên chỉ sản xuất
trong lượng hàng tồn kho mà không bổ sung thêm tồn kho mới, hay có hiện
tượng doanh nghiệp đi gửi hàng ở nơi khác,
Thực tế, để phản ánh chính xác hơn ý nghĩa của chỉ tiêu này, tử số của
tỷ số này được thay bằng chỉ tiêu Giá vốn hàng bán, vì giá vốn này phản ánh
chính xác lượng hàng đã được tiêu thụ - tương ứng với lượng tồn kho được sử
dụng để sản xuất ra nó; trong khi đó chỉ tiêu Doanh thu còn bao gồm cả
những khoản giảm trừ, những chi phí khác trong đó, có thể phản ánh không
đúng về bản chất của chỉ tiêu.
Doanh thu trong năm

 Vòng quay khoản phải thu = 
Phải thu bình quân
Cũng như chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho, chỉ tiêu này cho biết bình
quân số vòng quay khoản phải thu trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Số
vòng quay khoản phải thu cao cho thấy vốn của doanh nghiệp được quay
vòng nhiều (khoản thu được từ những khoản phải thu sẽ tạo vốn đi vào quá
trình sản xuất kinh doanh, từ đó tạo ra hàng hoá và hàng bán được sẽ tạo ra
những khoản phải thu mới ), hoặc cho thấy tương quan lớn giữa doanh thu
của doanh nghiệp so với các khoản phải thu, cho thấy tình hình thu tiền bán
hàng của doanh nghiệp là tốt, từ đó doanh nghiệp có khả năng tái đầu tư hoặc
khả năng thanh toán các khoản đến hạn cao.
Trên cơ sở Vòng quay khoản phải thu, cán bộ tín dụng cũng có thể xác
định chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, được xác định bằng cách lấy số ngày bình
quân của chu kỳ kinh doanh chia cho số vòng quay khoản phải thu. Chỉ tiêu
đó phản ánh số ngày bình quân để thu hồi khoản phải thu của doanh nghiệp,
và được sử dụng để phân tích bổ sung hoặc để tính những chỉ tiêu tổng hợp
Luyện Thanh Hải 24 TCDN 44B
Luận văn tốt nghiệp
khác. Thông thường, số ngày bình quân của chu kỳ kinh doanh được lấy là
360 ngày, từ đó ta có:
 Kỳ thu tiền bình quân = Phải thu × 360/ Doanh thu
 Hiệu suất sử dụng tài sản = Doanh thu / Tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ
tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, tuy vậy vẫn cần
chú ý đến các khoản làm giảm trừ doanh thu, các chi phí liên quan đến bán
hàng, quản lý, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong doanh thu chung,
bởi đây là những yếu tố góp phần ảnh hưởng tới lợi nhuận tạo ra từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó phản ánh chính xác hơn hiệu quả của việc
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.

Có thể phân chia, đánh giá chi tiết hiệu quả sử dụng của từng khoản
mục trong chỉ tiêu tài sản: hiệu suất sử dụng tài sản cố định, và các hiệu suất
như đã được phản ánh với các tên gọi khác trên đây (vòng quay hàng tồn kho,
vòng quay khoản phải thu, ). Chú ý là chỉ tiêu tài sản cố định sử dụng trong
phân tích được xác định với giá trị còn lại tính đến thời điểm lập báo cáo.
 Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi
Là những tỷ số phản ánh tổng hợp nhất về hiệu quả sản xuất - kinh
doanh và quản lý doanh nghiệp.
 Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = TNST/ Doanh thu
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy Thu nhập sau thuế của doanh
nghiệp chia cho Doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế được tạo ra bởi một đồng
doanh thu. Tỷ số này cao hay thấp, tăng trưởng hay sụt giảm so với các kỳ
trước hay so với mức trung bình ngành đều có thể là cơ sở để khẳng định về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp có xu hướng tốt hay xấu đi.
 Doanh lợi vốn chủ sở hữu: ROE = TNST/ VCSH
Luyện Thanh Hải 25 TCDN 44B

×