Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

pháp luật quốc tế và luật việt nam quy định hoạt động nhập khẩu. thực trạng áp dụng tại công ty cổ phần thiết bị thắng lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.86 KB, 68 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đều biết, sau ngày Đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất hai
miền Nam Bắc, thì trong suốt một thời gian dài chúng ta phải sống trong nền kinh tế
bao cấp, kế hoạch hóa tập trung, hoạt động kinh doanh hoàn toàn là của các cơ quan
nhà nước, không có kinh tế tư nhân, và không có sự giao lưu với các nước bên ngoài.
Đến năm 1986, nhận thấy những vấn đề bất cập, không còn phù hợp của nền kinh tế
bao cấp, Đảng và Nhà nước đã quyết định “mở cửa nền kinh tế nước ta”, khuyến khích
hoạt động ngoại thương, tăng cường giao lưu với bạn bè thế giới trên mọi lĩnh vực, mà
khởi đầu là giao lưu kinh tế.
Dưới sự tác động của xu thế phát triển nền kinh tế tri thức, Việt nam có cơ hội
và điều kiện đón nhận những thành tựu khoa học của Thế giới vào phát triển kinh tế
Quốc gia. Xuất phát từ điều kiện và trình độ phát triển kinh tế, để có thể tiến tới nền
kinh tế tri thức, Việt nam tiến hành Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Thực
chất, công nghiệp hóa nền kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, gia tăng sản xuất và thu nhập từ công nghiệp
trong nền kinh tế Quốc dân. Hiện đại hóa là quá trình chuyển cơ cấu kinh tế từ kinh tế
vật chất sang kinh tế tri thức, bằng việc đầu tư phát triển các ngành kinh tế tri thức, các
ngành sản xuất công nghệ cao, các ngành dịch vụ. Sự phát triển các ngành này là cơ sở
cho sự phát triển một cách vững chắc nền kinh tế quốc dân.
Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa tạo ra nhiều thuận lợi cho Việt Nam thực
hiện chính sách kinh tế mở. Trong quá trình thực hiện, Việt nam đã đưa ra các quan
điểm rất đúng đắn: đa phương hóa các quan hệ kinh tế thương mại (“muốn làm bạn với
tất cả các nước trên Thế giới”), đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại. Những
1
1
năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam rất phát triển, Việt Nam đã có quan
hệ với hơn 170 nước, tham gia vào các tổ chức Quốc tế Khu vực và Thế giới, vào các
diễn đàn kinh tế Quốc tế. Hoạt động ngoại thương, hợp tác đầu tư nước ngoài, dịch vụ
Quốc tế. Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, Việt Nam có điều kiện lợi dụng những
ưu thế bên ngoài (vốn và khoa học công nghệ), khai thác tiềm năng bên trong của nền
kinh tế (tài nguyên và lao động), góp phần đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện


đại hóa Đất nước.
Thực hiện chiến lược, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất,
kinh doanh xuất nhập khẩu. Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất
khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định là có vai trò hết sức quan trọng, hướng
mục tiêu cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại
hóa Đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và Thế giới.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến nay, rất nhiều công ty đã được
thành lập để hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đóng góp vào thành tựu chung
của nền kinh tế nước nhà. Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi là một trong số các
doanh nghiệp như thế. Thực tập tại công ty sẽ tạo cơ hội tiếp xúc được với thực tế của
hoạt động xuất nhập khẩu cũng như những thuận lợi và những bất cập do những quy
định của pháp luật tạo ra cho những hoạt động này.
Đứng trước một vấn đề mang tính thời sự như vậy, đề tài “Pháp luật Quốc tế và
Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu. Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ
Phần Thiết bị Thắng Lợi”, sẽ đề cập đến những quy định pháp luật chủ yếu áp dụng
cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào Việt nam và thực tiễn thi hành tại công ty
Thắng Lợi. Qua đó, đề tài cũng thu thập, đưa ra một vài khuyến nghị cho sự hoàn thiện
hệ thống pháp luật đó.
2
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn
thể các cô chú, các anh chị trong công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi đã cho tôi cơ hội
được học hỏi, thâm nhập thực tế để mở mang kiến thức cũng như sự hiểu biết về hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS. Trần Thị Hòa Bình, thầy giáo- ThS.
Nguyễn Anh Tú, đã cho những ý kiến đóng góp quý báu để bản báo cáo này được hoàn
thành.
3

3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1.1. Khái niệm hoạt động nhập khẩu
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất.
Sản xuất phát triển, các mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất với người sản xuất,
giữa người sản xuất với người tiêu dùng, và giữa những người tiêu dùng với nhau ngày
càng phát triển và diễn ra ngày càng phức tạp. Khi sản xuất xã hội phát triển đến trình
độ nhất định, các mối quan hệ kinh tế phát triển không chỉ trong phạm vi một Quốc gia
mà còn vươn ra bên ngoài, hình thành các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và kinh tế
Quốc tế.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được hiểu là quan hệ kinh tế của một nước với các
nước khác và với các tổ chức Quốc tế được xem xét từ góc độ nền kinh tế của nước đó.
Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ kinh tế lẫn nhau của hai hay nhiều nước, là
tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước.
Trong phạm vi kinh tế Thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế ảnh hưởng trở lại đến
sự phát triển lực lượng sản xuất của từng nước và sự phát triển của phân công lao động
Quốc tế. Quan hệ thương mại hàng hóa Quốc tế chính là một hình thức của quan hệ
kinh tế quốc tế.
Theo quy định của Luật Thương mại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2005: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lời khác.
Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt nam năm 2003 thì có quy định chi tiết hơn,
theo đó: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại
của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân
4
4
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn;
kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường

bộ; và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Điều 28 Luật Thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động nhập khẩu:
“Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài
hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật”.
1.2. Tính tất yếu của sự phát triển hoạt động nhập khẩu đối với nền
kinh tế Việt Nam:
Vài thập niên gần đây, thuật ngữ toàn cầu hóa được nhắc nhiều trên sách báo,
trên các diễn đàn kinh tế Quốc tế và khu vực, và ngay cả trong các cuộc gặp gỡ cấp cao
giữa các nguyên thủ Quốc gia.
Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện và phát triển như một tất yếu khách quan do sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự đổi mới nhanh chóng về công nghệ,
công cụ sản xuất và năng suất lao động tăng ngày càng cao hơn. Sự phát triển đó đã
phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của nền sản xuất khép kín trong phạm vi từng vùng, từng
nước, làm cho sản xuất và tiêu dùng của các nước mang tính chất Quốc tế.
Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng không chỉ tác động mạnh mẽ đến
sản xuất Thế giới mà còn tạo sự chuyển biến sâu sắc và căn bản trong công nghệ, trong
kinh tế, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện nhiều vấn đề có tính chất
toàn cầu như: chiến tranh – hòa bình, phát triển kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ, bảo vệ môi trường, chống dịch bệnh… không chỉ giải quyết trong phạm vi
từng Quốc gia, mà phải giải quyết trên phạm vi Thế giới. Thế giới ngày nay là ngôi nhà
5
5
chung, đòi hỏi các Quốc gia phải hợp tác với nhau cùng giải quyết và lợi ích của các
Quốc gia gắn liền với nhau.
Hoạt động Thương mại Quốc tế nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói
riêng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam,
là do sự phát triển khoa học công nghệ và sự phát triển kinh tế không đều giữa các
Quốc gia đưa đến sự khác nhau về những điều kiện tái sản xuất: vốn, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm quản lí. Do đó đòi hỏi các Quốc gia cần có sự trao đổi các yếu tố

sản xuất.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với hoạt động lao động sáng
tạo- lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ ngày càng phát
triển và được ứng dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, và trở
thành một yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở các Quốc gia khác
nhau, sự phát triển khoa học công nghệ có khác nhau. Một số Quốc gia có nền khoa
học công nghệ phát triển, ứng dụng được những thành tựu khoa học công nghệ vào đời
sống kinh tế xã hội, nền kinh tế phát triển cao. Còn một số Quốc gia lại có nền khoa
học công nghệ kém phát triển, có nhiều khó khăn trong việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào phát triển kinh tế, nền kinh tế chậm phát triển. Sự khác nhau về khoa học
công nghệ giữa các Quốc gia là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển và
khả năng tích lũy các điều kiện tái sản xuất.
Sự phát triển nền kinh tế tạo ra những điều kiện phát triển lực lượng sản xuất.
Song trên thực tế, sự phát triển kinh tế không đều đưa đến lực lượng sản xuất và trình
độ phát triển khác nhau ở các Quốc gia. Ở các Quốc gia có nền kinh tế phát triển cao,
quy mô nền kinh tế lớn, vốn tích lũy nhiều, có hiện tượng dư thừa các yếu tố sản xuất:
vốn và khoa học công nghệ. Ở các Quốc gia kinh tế chậm phát triển, quy mô nền kinh
tế nhỏ, trình độ thấp, hầu như không có tích lũy vốn, có hiện tượng thiếu vốn và khoa
học công nghệ kém phát triển.
6
6
Ngày nay, hoạt động sản xuất của một Quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các
nguồn lực trong nước mà còn phụ thuộc vào các nguồn lực ngoài nước. Để phát triển
nền kinh tế Quốc dân, một Quốc gia cần có 4 yếu tố kinh tế cơ bản: điều kiện tự nhiên
(tài nguyên), lao động, vốn và khoa học công nghệ. Trên Thế giới, không có Quốc gia
nào có đủ lợi thế hoàn toàn cả 4 yếu tố kinh tế này. Vì thế, muốn phát triển kinh tế, các
nước cần biết khai thác lợi thế bên ngoài để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế.
Điều đó đòi hỏi các nước cần thiết tham gia trao đổi Quốc tế.
Trong vài chục năm trở lại đây, các Tổ chức quốc tế phát triển nhanh về số
lượng và đa dạng về hình thức. Các tổ chức Quốc tế được hình thành trên cấp độ toàn

cầu hay khu vực, hoạt động trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa xã
hội… mà nhiều nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Hoạt động của các tổ chức Quốc tế nhằm
phối hợp các nước giải quyết các vấn đề Quốc tế, làm gia tăng các mối quan hệ kinh tế
Quốc tế. Điển hình như những hoạt động của Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO với
mục đích thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn hóa và các hoạt động có liên quan, tạo điều
kiện cho trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy hợp tác trong các hoạt động trí tuệ,
khoa học và kinh tế.
Sự phát triển liên minh kinh tế các nước như Liên Minh Châu Âu EU, Thị
trường chung Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á AFTA, các tam
giác, tứ giác kinh tế phát triển… Đặc biệt là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO. Sự hình thành thể chế Thương mại Quốc tế nhiều bên đánh dấu sự hình
thành khuôn khổ Thương mại quốc tế mới, lấy tự do hóa thương mại Quốc tế làm trung
tâm. Chế độ bảo hộ thương mại nhường chỗ cho chế độ tự do hóa thương mại và mở
cửa nền kinh tế.
Ngày nay, trên Thế giới, tất cả các nước đều lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường. Có nhiều loại mô hình kinh tế thị trường như: kinh tế thị trường tự do (mô hình
kinh tế Mỹ), kinh tế thị trường xã hội (mô hình kinh tế Đức, Thụy Điển), kinh tế thi
7
7
trường hỗn hợp, và kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế các nước lựa
chọn có thể khác nhau, song đặc điểm chung nhất của mô hình kinh tế thị trường là nền
kinh tế phát triển gắn liền với sự phát triển thị trường trong nước và thị trường ngoài
nước. Để phát triển kinh tế, các nước cần khai thác được nguồn lực cả trong và ngoài
nước, tham gia vào quá trình phân công lao động và trao đổi Quốc tế.
Xuất nhập khẩu là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế Quốc dân. Hoạt động
xuất nhập khẩu là một bộ phận quan trọng nhất của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong
đó, xuất nhập khẩu hàng hóa có vai trò trọng yếu đối với tăng trưởng và phát triển nền
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tê; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa
Đất nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế Quốc tế của Quốc Gia, thúc đẩy quá trình tham gia
sâu rộng vào phân công lao động Quốc tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.

8
8
CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỘ PHÁP LÍ QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU
2.1. Những quy định của Luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam về Hợp
đồng nhập khẩu:
Ngày nay, pháp luật Thương mại Quốc tế đã trở thành một hệ thống khá hoàn
chỉnh và đồ sộ, tạo lập hành lang pháp lí cho các hoạt động kinh tế. Thương mại Quốc
tế là “bà đỡ” cho quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế Quốc tế.
Trong hơn một thế kỷ qua, động lực của toàn cầu hóa chính là sự bùng nổ thương mại
hàng hóa và dịch vụ. Trong tương lại, thương mại Quốc tế vẫn sẽ tiếp tục thúc đẩy hội
nhập toàn cầu, đăc biệt là ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bởi
vậy công cụ hỗ trợ đắc lực và hữu hiệu nhất cho thương mại Quốc tế, cho toàn cầu hóa,
chính là Luật Thương mại Quốc tế.
Luật Thương mại Quốc tế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt
động Thương mại Quốc tế- những hoạt động thương mại phát sinh giữa các chủ thể có
Quốc tịch khác nhau ở các Quốc gia khác nhau.
Luật Thương mại Quốc tế được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: pháp
luật của các Quốc gia, các Điều ước Quốc tế, Tập quán thương mại… Trong đó, nguồn
luật quan trọng trước nhất là pháp luật Quốc gia. Một Điều ước Quốc tế chỉ có thể
được áp dụng thực tiễn tại một Quốc gia khi nó có sự hài hòa, thống nhất với những
quy định pháp luật của nước sở tại. Chính vì vậy mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, các Quốc gia đều đang có xu hướng nội luật hóa các Điều ước Quốc tế, tức là đưa
các quy định đã cam kết trong Điều ước Quốc tế song phương hoặc đa phương vào các
văn bản quy phạm pháp luật quốc gia để đảm bảo tính khả thi của các cam kết đó.
9
9
Ở Việt nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại Quốc tế nói
chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng đang được hoàn thiện theo xu hướng đó.

Công ước Quốc tế thông dụng nhất điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế là
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Trước đây, khi Luật
Thương mại 1997 của Việt Nam còn hiệu lực pháp lí thì nhìn chung các quy định trong
Luật này rất xa rời thực tiễn và nói chung là không có sự đồng thuận nào với các Công
ước Quốc tế về mua bán hàng hóa nên việc áp dụng không đem lại hiệu quả cho công
tác quản lí các hoạt động kinh doanh Thương mại cả trong và ngoài nước. Đến nay, khi
Luật Thương mại 2005 ra đời thay thế cho Luật Thương mại 1997 thì tương quan về
luật định đã có sự thay đổi rất tích cực. Xét một cách tổng thể thì các quy định của Luật
Thương mại 2005 là tương đối thống nhất với các quy định của Công ước Viên về Hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Do vậy, khi xem xét các quy định pháp luật đối với hoạt động mua bán hàng hóa
Quốc tế, mà cụ thể ở đây là hoạt động nhập khẩu, người ta có thể nghiên cứu đồng thời
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế (sau đây gọi là Công ước
Viên 1980) và Luật Thương mại Việt Nam 2005 (sau đây gọi là Luật Thương mại
2005) để có thể thấy sự phù hợp của hai văn bản này cũng như để có thể nắm bắt đầy
đủ các quy định dành cho thương nhân Việt Nam khi tham gia ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận
1
.
Cơ sở pháp lí của việc mua bán hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hóa, do
1
Điều 2 khoản 8 Luật thương mại 2005
10
10
đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hóa, có nghĩa rằng nó

cũng là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán về việc xác lập quyền và nghĩa vụ
của các bên. Ngoài ra, hợp đồng này còn có thêm một yếu tố Quốc tế- là yếu tố vượt ra
khỏi phạm vi một Quốc gia nên nó còn phải thỏa mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi
hỏi. Hoạt động Thương mại Quốc tế có các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập
tái xuất, tạm xuất tái nhập; hàng hóa chuyển khẩu. Các hợp đồng thỏa thuận về các
hoạt động này đều được gọi chung là Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Công ước Viên 1980 đưa ra quan điểm về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
một cách gián tiếp ngay tại Điều 1 của Công ước này: “Công ước này áp dụng đối với
những Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại
các Quốc gia khác nhau”. Như vậy, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là
sự thống nhất về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có yếu tố nước
ngoài mà thông qua đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lí
giữa các chủ thể đó với nhau.
Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là những thương nhân có trụ
sở tại các Quốc gia khác nhau. Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định: Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Hiện nay, các thương nhân Việt
Nam đều có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu những mặt hàng mà pháp luật không
cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh. Như vậy, ở Việt Nam, cá
nhân muốn là thương nhân thì phải có Đăng ký kinh doanh và phải hoạt động thường
xuyên, liên tục. Đây là một khái niệm hạn chế hơn so với Luật Quốc tế, dẫn đến có
những đối tượng có tham gia vào hoạt động Thương mại Quốc tế nhưng pháp luật
không điều chỉnh hành vi của họ. Ví dụ Thương lái tức là những người đi thu gom
hàng hóa đúng ra là thương nhân, nhưng vì công việc của họ không quanh năm (mà chỉ
theo mùa vụ) tức là không thường xuyên nên pháp luật Việt Nam không coi họ là
11
11
thương nhân và hoạt động của họ không bị điều chỉnh bởi luật thương mại, vì thế mà
rất có thể những hành vi sai trái của họ được “lọt lưới” pháp luật.
2.1.1. Các điều khoản cơ bản của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế

Hợp đồng là văn bản có giá trị pháp lí để đảm bảo quyền và việc thực hiện nghĩa
vụ của các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và hoạt động mua bán
hàng hóa Quốc tế nói riêng. Do đó, những quy định về nội dung của bản hợp đồng là
những quy định cơ bản nhất và cũng là quan trọng nhất để các bên có thể đảm bảo lợi
ích của mình khi tham gia hoạt động thương mại Quốc tế.
Về hình thức, Theo công ước Viên 1980 thì hình thức của Hợp đồng mua bán
hàng hóa Quốc tế có thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào. Hợp đồng không cần phải
được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về
hình thức của Hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng
những lời khai của nhân chứng
2
.
Còn theo pháp luật Việt Nam, mua bán hàng hóa Quốc tế phải được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương
đương. (Điều 27 khoản 2 Luật Thương mại 2005)
Một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế được ký kết bằng văn bản thường bao
gồm các điều khoản chủ yếu sau:
2.1.1.1 Điều khoản tên hàng (Commodity Article)- đối tượng của hợp đồng
Tên hàng là một trong những điều khoản quan trọng, không thể thiếu trong hợp
đồng nhằm xác định đối tượng cụ thể của hợp đồng, giúp các bên phân biêt rõ với
những sản phẩm khác, tránh được những yếu tố có thể dẫn đến tranh chấp sau này.
Trong thực tiễn Thương mại Quốc tế, có nhiều cách diễn đạt tên hàng:
2
Điều 11 Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
12
12
o Tên hàng bao gồm tên thông thường, tên Thương mại, tên khoa học của
hàng hóa. Ví dụ: Cooking Oil Marvela,…
o Tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra hàng hóa đó (xuất xứ sản
phẩm) nếu nơi sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm (ví dụ: rượu vang

Bordeaux, nước mắm Phú Quốc,…); hoặc kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng hóa đó
(ví dụ: cà phê Trung Nguyên, Điện thoại Nokia,…)
o Tên hàng kèm theo quy cách chính của hàng hóa đó (ví dụ: Tivi màn
hình phẳng,…)
o Tên hàng kèm theo nhãn hiệu hàng hóa (Bia Hà Nội, xe máy Future,…)
o Tên hàng kèm theo công cụ của hàng hóa (Bột chiên tôm,…)
o Tên hàng kèm theo số hiệu hạng mục của hàng hóa đó trong danh mục
hàng hóa thống nhất, thường áp dụng trong trường hợp hàng hóa là các loại máy móc,
linh kiện, thiết bị kỹ thuật (ví dụ: mô-tơ điện mục 100, 101)
o Ngoài ra, trong một số trường hợp, có thể kết hợp một vài phương pháp
với nhau để ghi tên hàng hóa theo cách mô tả tổng hợp.
2.1.1.2 Điều khoản về số lượng, khối lượng hàng hóa
 Đơn vị tính số lượng
Trong Thương mại Quốc tế, người ta áp dụng nhiều hệ thống đo lường khác
nhau:
o Đơn vị đo chiều dài: mét, inch, foot, yard, mile;
o Đơn vị đo diện tích: square inch, square foot, square yard, square mettre
o Đơn vị đo thể tích: Gallon, Bushel, Barrel, lit
o Đơn vị đo khối lượng: Tấn, kg, pound, Grain
o Đơn vị tính số lượng tập hợp: tá, gross (12 tá), hộp, đôi,…
Cần lưu ý rằng, nhiều đơn vị đo lường có cùng tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có
nội dung khác nhau. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, các bên
13
13
phải có sự thống nhất về đơn vị tính số lượng, khối lượng của từng loại hàng hóa trong
hợp đồng.
 Phương pháp quy định số lượng, khối lượng hàng hóa
Thông thường có 2 cách quy định:
 Quy định chính xác số lượng hàng hóa trong hợp đồng và 2 bên không được phép
giao nhận theo số lượng khác (ví dụ: 1500 kiện vải, 700 thùng dầu). Phương pháp này

thường dùng trong mua bán hàng hóa tính bằng cái, chiếc thùng,…
 Quy định phỏng chừng về số lượng hàng hóa. Khi thực hiện hợp đồng, các bên có
thể giao nhận với số lượng cao hơn hoặc thấp hơn số lượng quy định trong hợp đồng
và khoảng chênh lệch đó gọi la dung sai về số lượng (ví dụ: 10000 tấn gạo ± 5%).
Phương pháp này thường được dùng trong khi mua bán hàng hóa có khối lượng lớn.
khó có thể cân đong đo đếm một cách chính xác được. Để diễn đạt khoảng dung sai,
người ta thường dùng các từ ngữ sau: khoảng (about), trên dưới (more or less), xấp xỉ
(approximately), từ… đến… (from… to…).
 Phương pháp xác định trọng lượng
Để xác định trọng lượng hàng hóa, người ta thường dùng các phương pháp sau:
 Trọng lượng cả bì là trọng lượng của hàng hóa cùng với trọng lượng của các
loại bao bì bảo quản hàng hóa.
 Trọng lượng tịnh: là trọng lượng thực tế của bản thân hàng hóa
 Trọng lượng thương mại: là phương pháp áp dụng trong mua bán những mặt
hàng hút ẩm, có độ ẩm không ổn định và có giá trị kinh tế tương đối cao.
2.1.1.3 Điều khoản phẩm chất
14
14
Đây là điều khoản thể hiện chi tiết về chất lượng hàng hóa (tính năng, quy cách,
kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất). Việc xác định cụ thể phẩm chất của hàng
hóa rất quan trọng vì nó là cơ sở để xác định giá cả của hàng hóa.
Để xác định phẩm chất, những tiêu chuẩn mà hàng hóa phải đạt được, có một số
phương pháp chủ yếu sau:
o Xác định phẩm chất dựa vào mẫu hàng do người bán đưa ra và người
mua chấp nhận. Trong trường hợp người mua đưa ra mẫu hàng trước thì người bán
phải có mẫu đối chiếu. Trong tập quán thương mại Quốc tế, người ta thường ký hoặc
đóng dấu vào 3 mẫu hàng: một mẫu giao cho người bán lưu, một mẫu giao cho người
mua và một mẫu giao cho người thứ ba được hai bên thỏa thuận chỉ định giữ hàng mẫu
để đối chiếu khi cần thiết.
o Xác định phẩm chất dựa vào phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn: cần phải tìm hiểu

nội dung của tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó, ghi chính xác số hiệu tiêu chuẩn và năm
ban hành tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó.
o Xác định phẩm chất dựa vào quy cách của hàng hóa là những chi tiết về
chất lượng như công suất, kích cỡ, trọng lượng… Phương pháp này thường được dùng
trong việc mua bán các thiết bị, máy móc, công cụ vận tải…
o Xác định phẩm chất dựa vào hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hóa,
quy định tỉ lệ phần trăm của thành phần chất chủ yếu chiếm trong hàng hóa. Phương
pháp này thường được dùng trong mua bán nguyên liệu, lương thực- thực phẩm.
o Xác định phẩm chất hàng hóa dựa vào nhãn hiệu hàng hóa, ghi rõ năm
sản xuất và sêri sản xuất của loại hàng có nhãn hiệu đó. Phương pháp này thường được
áp dụng đối với những mặt hàng công nghiệp hoặc hàng nông sản chế biến như đồ hộp,
thuốc lá, cà phê, rượu…
15
15
o Xác định phẩm chất dựa vào các tài liệu kỹ thuật. Trong việc mua bán
các máy móc, thiết bị, hàng công nghiệp, tiêu dùng lâu bền, thì trên hợp đồng mua bán
người ta thường dẫn chiếu đến một số tài liệu như: bản vẽ kỹ thuật, sơ đồ lắp ráp, bản
thuyết minh tính năng tác dụng, bản hướng dẫn sử dụng… Trong những trường hợp
này, người ta còn ký và đóng dấu vào tài liệu kỹ thuật và quy định rằng tài liệu đó là
một phần không thể tách rời của hợp đồng.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào hiện trạng hàng hóa. Phương pháp
này thường chỉ dùng trong mua bán Quốc tế về hàng nông sản và khoáng sản.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào sự mô tả hàng hóa. Khi mua bán
những loại hàng hóa mà chất lượng của chúng khó tiêu chuẩn hóa trên thị trường Quốc
tế, người ta thường dùng một số chỉ tiêu phỏng chừng FAQ, GMQ…
2.1.1.4 Điều khoản giá cả
Đây là một trong những điều khoản quan trọng nhất của hợp đồng mua bán
hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Thông thường,
điều khoản này xác định các vấn đề quan trọng: đồng tiền tính giá, mức giá, phương
pháp quy định mức giá, phương pháp xác định mức giá…

Đồng tiền tính giá: Đồng tiền tính giá và thanh toán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng.
Giá cả của hàng hóa có thể được xác định ngay trong lúc ký kết hợp đồng, cũng
có thể xác định trong thời hạn hiệu lực hợp đồng hoặc khi thực hiện hợp đồng. Thông
thường, giá cả trong hợp đồng được xác định theo một trong 3 cách sau:
• Định giá trung lập (Neutral pricing) là định giá có căn cứ rõ rang, không nhằm
mục đích cơ hội nào. Có 2 căn cứ để xác định giá trung lập:
i. Định giá căn cứ vào sản xuất;
ii. Định giá căn cứ vào thị trường.
16
16
• Định giá thâm nhập (Penetration Pricing) là cách định giá cơ học để nhằm
thâm nhập vào thị trường. Giá thâm nhập bao giờ cũng thấp, thậm chí cũng có lúc nó
thấp hơn cả giá thành.
• Định giá hớt váng (Skim Pricing) là xác định giá thời cơ để nhằm tận dụng cơ
hội có lợi cho mặt hàng của mình. Giá hớt váng bao giờ cũng cao hơn giá trung lập.
Cũng có thể phân biệt các loại giá dựa trên cơ sở các tiêu chí định giá khác
như:
• Giá xác định ngay (hay giá cố định- fixed price) là giá được quy định vào lúc
ký kết hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thỏa thuận khác.
• Giá quy định sau là giá được định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
• Giá có thể xét lại (rivesable price) là giá quy định trong hợp đồng nhưng có
thể được xem xét lại nếu sau này, vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hóa có sự
biến động đến mức đáng kể. Trong hợp đồng vận dụng giá này, các bên phải thỏa
thuận với nhau nguồn tài liệu phán đoán sự biến động giá cả và thỏa thuận quy định
mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường và giá hợp đồng.
• Giá di động hay giá trượt (sliding scale price) là giá được tính toán dứt khoát
khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban đầu, có tính đến những biến
động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng.
2.1.1.5 Điều khoản giao hàng

Nội dung cơ bản của điều khoản này là sự xác định thơi hạn giao hàng, địa điểm
giao hàng và thông báo giao hàng.
 Thời hạn giao hàng (time of shipment)
17
17
Là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua.
Thời hạn giao hàng do các bên thỏa thuận và phụ thuộc số lượng hàng hóa theo hợp
đồng. Thông thường, có 3 cách quy định thời hạn giao hàng:
• Thời hạn giao hàng có định kỳ: có thể là một ngày cụ thể hoặc một khoảng
thời gian xác định nào đó.
• Thời hạn giao hàng không định kỳ: là thời gian quy định chung chung, phổ
biến. Theo cách này, có thể thỏa thuận như sau:
i. Giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên (shipment by first available steamer)
ii. Giao hàng khi nào có khoang tàu (subject to shipping space)
iii. Giao hàng khi nhận được L/C (subject to the opening of L/C)
• Thời hạn giao hàng ngay là việc các bên giao dịch thỏa thuận:
i. Giao nhanh;
ii. Giao ngay lập tức;
iii. Giao càng sớm càng tốt
 Địa điểm giao hàng
Địa điểm giao hàng gắn liền với việc chuyển quyền sở hữu và dich chuyển rủi
ro từ người bán sang người mua.
 Phương thức giao hàng
Việc xác định phương thức giao hàng chủ yếu là quy định phương thức giao
nhận hàng hóa tại một nơi nào đó là giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao
nhận về số lượng và chất lượng.
Giao nhận sơ bộ là bước đầu xem xét hàng hóa và xác nhận sự phù hợp về số
lượng, chất lượng hàng so với hợp đồng.
Giao nhận cuối cùng là xác nhận việc người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng.

18
18
Giao nhận hàng hóa về số lượng là xác định số lượng thực tế hàng hóa được
giao bằng các phương pháp cân, đong, đo, đếm.
Giao nhận hàng hóa về chất lượng là việc kiểm tra hàng hóa về tính năng, công
dụng, hiệu suất, kích thước, hình dáng…
Hoạt động giao nhận hàng hóa có thể tiến hành trên toàn bộ hàng hóa hoặc chỉ
tiến hành kiểm tra điển hình.
 Điều kiện vận tải (điều kiện thuê tàu và phương thức giao hàng): thường áp
dụng trong trường hợp hàng hóa được mua bán có khối lượng lớn.
2.1.1.6 Điều khoản về thanh toán:
Các cách thức quy định thời hạn thanh toán thường được áp dụng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế:
 Trả tiền trước khi giao hàng: thỏa thuận người mua trả một khoản tiền theo tỷ lệ
giá trị lô hàng để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng.
 Thanh toán ngay: thường được áp dụng sau khi giao hàng xong và thực hiện
trong một thời gian nhất định do các bên thỏa thuận.
 Phương thức thanh toán: bao gồm thanh toán bằng tiền mặt, séc, điện chuyển
tiền, hối phiếu, thư tín dụng, bao thanh toán.
2.1.1.7 Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp
Cơ sở pháp lí để xác định trách nhiệm pháp lí và giải quyết tranh chấp là dựa
vào hợp đồng. Theo luật Thương mại Việt Nam thì có 4 phương thức giải quyết tranh
chấp được quy định tại điều 317.
Phương thức giải quyết tranh chấp được các thương nhân ưa chuộng nhất là
phương thức giải quyết thông qua Trọng tài kinh tế. Phương thức trọng tài là theo sự
19
19
lựa chọn của các bên. Nếu không thỏa thuận hoặc điều khoản lựa chọn phương thức
trọng tài vô hiệu thì Tòa Án sẽ thụ lí giải quyết.
Điều khoản thỏa thuận về trọng tài phải nêu đúng tên của một trung tâm trọng

tài cụ thể. Thỏa thuận Trọng tài có thể được xác lập ngay trong hợp đồng, trong văn
bản riêng hoặc trong biên bản hòa giải không thành. Có một quy định rất đặc biệt là
mặc dù hợp đồng mua bán có thể xác lập bằng lời nói thì thỏa thuận lựa chọn Trọng tài
kinh tế lại bắt buộc phải được xác lập bằng văn bản.
Phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm, nghĩa là các bên không kháng
cáo, kháng nghị, và chỉ có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu do điều khoản thỏa thuận vô
hiệu. Nếu không bị tuyên bố vô hiệu thì phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay lập tức.
Và nếu bên bị thi hành không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành có quyền yêu
cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành.
Cơ sở pháp lí giải quyết tranh chấp trong luật thương mại Quốc tế thì ngoài hợp
đồng, còn căn cứ áp dụng luật theo sự thỏa thuận hay theo sự lựa chọn của các bên.
Nếu các bên có thỏa thuận lựa chọn Trung tâm Trọng tài nhưng không thỏa
thuân về luật áp dụng thì việc áp dụng sẽ do Trung tâm Trọng tài đó quyết định dựa
trên nguyên tắc “áp dụng luật của nơi có liên quan gần nhất”.
Một tranh chấp trong Thương mại Quốc tế hoàn toàn có thể được giải quyết bởi
một Trung tâm trọng tài nước ngoài. Để đảm bảo phán quyết của Trọng tài nước ngoài
được thi hành, Việt Nam và một số nước đã tham gia Công ước New York 1958. Công
ước được áp dụng khi nơi ra phán quyết và nơi thi hành là khác nhau (ở hai Quốc gia
khác nhau), và áp dụng cho những phán quyết mà không được coi là phán quyết trong
nước (ví dụ: Trọng tài Singapore sang Việt Nam tiến hành giải quyết tranh chấp và ra
phán quyết, thì đó không được coi là phán quyết trong nước của Việt nam). Thủ tục xét
đơn yêu cầu công nhận và thi hành tại Việt nam quyết định của Trọng tài nước ngoài
được quy định tại Chương 29 Bộ luật tố tụng dân sự nước CHXHCN Việt Nam.
20
20
2.1.2. Các quy định về chào hàng trong Thương mại Quốc tế
Điều 23 Công ước Viên 1980 quy định: Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ
lúc sự chập nhận chào hàng có hiệu lực. Như vậy, ta có thể nhận ra ngay vai trò vô
cùng quan trọng của lời chào hàng trong hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế.
Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là

một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn
tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ
chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp hoặc
gián tiếphoặc quy định thể thức xác định các yếu tố này
3
.
Tại điều 390 Bộ luật dân sự Việt Nam cũng có đưa ra quan điểm thê nào là một
chào hàng với cách gọi khác là đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, đề nghị giao kết
hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị
này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
Như vậy, lời chào hàng phải đủ rõ để thể hiện ý định giao kết hợp đồng để
người nhận lời chào hàng có đủ thông tin ra quyết định chấp nhận hay thay đổi lời
chào.
Trong trường hợp người nhận lời chào có sự thay đổi điều kiện để chấp nhận lời
chào, mà điều kiện đó lại là điều kiện cơ bản thì sự thay đổi đó coi như một lời chào
hàng mới.
Nếu giữa hai bên cứ liên tục có sự thay đổi như trên thì sau cùng, hai bên sẽ đưa
ra một bản cuối cùng làm vô hiệu tất cả các giao dịch trước đó.
Khi một bên đưa ra lời chào thì bên đó bị ràng buộc với lời chào của mình trong
thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn
bộ lời chào và trả lời chấp nhận trong thời hạn quy định thì quan hệ hợp đồng đã được
3
Điều 14 khoản 1 Công ước Viên 1980
21
21
hình thành. Trường hợp một bên đưa ra lời chào hàng, nhưng sau khi gửi đi mà thấy
cần thay đổi thì bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rut lại đề nghị trong các
trường hợp tại khoản 1 điều 392 Bộ luật dân sự. Điều này cũng được quy định trong
Công ước Viên 1980: Cho tới khi hợp đồng được giao kết, người chào hàng vẫn có thể
thu hồi chào hàng, nếu như thông báo về việc thu hồi đó tới nơi người được chào hàng

trước khi người này gửi thông báo chấp nhận chào hàng. Chào hàng dù là loại chào
hàng cố định, vẫn có thể bị hủy nếu như thông báo về việc hủy chào hàng đến người
được chào trước hoặc cùng lúc với chào hàng.
Nếu lời chào hàng được chấp nhận thì hợp đồng được coi như mặc nhiên xác
lập. Chấp nhận chào hàng hay đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề
nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Nếu bên
nhận lời chào có sự thay đổi lời chào mà sự thay đổi đó là không đáng kể thì vẫn coi là
đã ký kết hợp đồng. Sự thay đổi không đáng kể là sự thay đổi nhỏ mà không làm ảnh
hưởng đến mục tiêu của hợp đồng. Chẳng hạn đối với một hợp đồng nhập khẩu thì sự
thay đổi về lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vô cùng quan trọng, và sự
thay đổi điều khoản này là một sự thay đổi đáng kể; con sự thay đổi không đáng kể có
thể là dịch chuyển thời gian thực hiện hợp đồng trong một khoảng chênh lệch rất ngắn,

Chấp nhận chào hàng có thể được thể hiện dưới mọi hình thức để người chào
hàng hiểu là lời chào đã được chấp nhận. Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của
người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng.
Sự im lặng hoặc bất tắc vi không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận
4
.
2.2. Các phương thức thanh toán thông dụng trong thương mại quốc tế
- Tiền mặt: bao gồm các loại
+ Tiền mặt trả trước- CIA (cash in advance)
4
Điều 18 khoản 1 Công ước Viên 1980
22
22
+ Tiền mặt trả trước lúc giao hàng- CBD (cash before delivery)
+ Tiền mặt trả khi giao hàng- COD (cash on delivery)
+ Tiền mặt trả khi trao chứng từ- CAD (cash against document)
- Séc

Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình ra để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả
theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt
hoặc bằng chuyển khoản.
Điều cơ bản trong việc lập séc là người phát hành séc phải có tiền trên tài khoản
mở tại ngân hàng, số tiền trên tờ séc không được vượt quá số dư trên tài khoản ở ngân
hàng. Séc có thể được phát hành để trả tiền cho một cơ quan, tổ chức, một hoặc nhiều
cá nhân, hoặc có thể là séc do một ngân hàng phát hành để trả tiền cho một ngân hàng
khác.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc
thanh toán nếu thời hạn có hiệu lực của nó chưa hết. Thời hạn có hiệu lực của séc được
ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó phụ thuộc vào không gian lưu hành séc và phụ thuộc
vào luật pháp các nước.
- Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất. Theo đó, người mua (nhà nhập
khẩu) thông qua ngân hàng gửi tiền trả người bán (nhà xuất khẩu). Phương tiện thanh
toán theo phương thức chuyển tiền gồm điện chuyển tiền và thư chuyển tiền. Trả tiền
bằng điện hay bằng thư đều phải thông qua ngân hàng làm trung gian. Do đó, người
chuyển tiền phải trả thủ tục phí cho ngân hàng.
- Phương thức thanh toán bằng ghi sổ: được thực hiện bằng cách người nhập
khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ về tiền mua
23
23
hàng hóa hay các khoản chi phí khác liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu
định kỳ (hàng tháng, hàng quý hoặc nửa năm 1 lần) thanh toán khoản nợ hình thành
trên tài khoản của người xuất khẩu.
Phương pháp này thực chất là một hình thức tín dụng thương nghiệp, ít được áp
dụng trong thanh toán Quốc tế bởi nó không có sự bảo đảm đầy đủ cho người xuất
khẩu cho người xuẩt khẩu có thể kịp thời thu được tiền hàng.
- Hối phiếu:

Hối phiếu là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người
khác, yêu cầu người này, khi nhin thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc
có thể xác định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó
theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc cho người cầm phiếu.
Trước đây, người ta phân biệt hối phiếu và kỳ phiếu: Hối phiếu là giấy đòi nợ,
còn kỳ phiếu là giấy cam kết trả nợ.
Hiện nay, hối phiếu được chia thành 2 loại: hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận
nợ (tương đương với kỳ phiếu trước đây), được quy định chi tiết trong Luật các công
cụ chuyển nhượng, số 49/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
- Tín dụng thư chứng từ:
Phương thức thanh toán bằng tín dụng thư chứng từ (L/C) chỉ được áp dụng khi
trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế giữa người bán và người mua có điều khoản
thỏa thuận thanh toán bằng L/C, tức là hai bên thỏa thuận có ngân hàng bảo đảm thanh
toán.
Theo đó, người mua phải chọn một ngân hàng để mở thư tín dụng, và hợp đồng
này chỉ bắt đầu có hiệu lực khi người mua mở được thư tín dụng. Việc người mua có
24
24
mở được thư tín dụng hay không là phụ thuộc vào độ tín nhiệm của ngân hàng đối với
người mua.
Trong một số trường hợp, người bán không tin tưởng vào ngân hàng mà người
mua mở thư tín dụng, nên người bán có quyền ra điều kiện ngân hàng của người mua
phải được bảo lãnh bởi một ngân hàng khác do người bán chọn, tức là khi mở thư tín
dụng, ngân hàng của người mua phải thông báo cho ngân hàng của người bán và được
ngân hàng này chấp nhận. Hoặc sau khi mở L/C, ngân hàng của người mua phải thông
báo cho người bán và được người bán chấp nhận.
Nếu người bán thấy thư tín dụng chưa đầy đủ nội dung theo Hợp đồng thì phải
lập tức yêu cầu bên mua bổ sung, trước khi bắt đầu thực hiện hợp đồng. Khi người bán
chấp nhận thư tín dụng thì mới bắt đầu thực hiện hợp đồng.

Khi người bán đã chuyển hàng cho người mua, có thể là gửi trực tiếp cho người
mua hoặc gửi đến một địa điểm theo thỏa thuận, thì người bán phải gửi hồ sơ gồm các
chứng từ giao hàng và hối phiếu qua ngân hàng để ngân hàng chuyển cho người mua
để người mua chấp nhận thanh toán và thanh toán. Khi đó, nếu đủ chứng từ, người mua
sẽ chuyển tiền vào ngân hàng để thanh toán cho người bán.
Ngân hàng chỉ được phép thanh toán khi người bán gửi hồ sơ gồm đủ các chứng
từ đã ghi trong thư tín dụng. Theo UCP500, các chi nhánh của cùng một Ngân hàng mẹ
đặt tại các nước khác nhau thì coi là các ngân hàng khác biệt nhau, chịu trách nhiệm
độc lập.
Như vậy, thư tín dụng là một lời cam kết của ngân hàng trên cơ sở một hợp
đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, nhưng khi đã được mở thì nó độc lập với hợp đồng,
và có thể coi là một hợp đồng thứ phát.
- Bao thanh toán: là phương thức thanh toán mà ngân hàng sẽ giúp cho nhà xuất
khẩu được thanh toán khoản tiền của mình.
25
25

×