Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

những vấn đề chung về quỹ đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.99 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán tập hợp rất nhiều hàng hoá (cổ phiếu), vì thế cho
dù chỉ tập trung vào một lĩnh vực thì nhà đầu tư cũng không làm sao nắm bắt
hết các chiều hướng chuyển biến của nó. Đa số các nhà đầu tư lại là những
người không chuyên nghiệp, nhiều nhà đầu tư lớn đã phải thuê các cố vấn
riêng. Những nhà đầu tư khác vì lý do nào đó không thể tự quản lý việc mua
bán trong các danh mục đầu tư của mình có thể mở các trương mục uỷ thác
phân quyền (advisory account) hoặc những trương mục uỷ thác toàn quyền
(discretionary account) tại các trung tâm môi giới. Và cùng với thời gian, thị
trường đã hình thành một định chế giúp các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu
tư nhỏ, thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán được gọi là các
quỹ đầu tư. Sau thời gian thành lập, bên cạnh những kết quả đạt được các
quỹ đầu tư cũng bộc rất nhiều vướng mắc trong hoạt động cần xem xét sửa
đổi bổ sung để Quỹ đầu tư hoạt động hiệu quả hơn.
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ
1.Khái niệm quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là phương tiện đầu tư tập thể , là một tập hợp tiền của các
nhà đầu tư và được ủy thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp
tiến hành đầu tư để mang lại mức lợi nhuận hợp lý phù hợp với mức độ
chịu đựng rủi ro và yêu cầu thanh khoản của nhà đầu tư .
Theo luật đầu tư chứng khoán , quỹ đầu tư được định nghĩa là quỹ hình
thành từ vốn góp của các nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc
đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác , trong đó các
nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết
định đầu tư của Quỹ .
2.Lợi ích cơ bản của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư thông qua Quỹ
đầu tư.
Trước hết và quan trọng hơn cả là khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư
.Một cá nhân bình thường với số vốn hạn chế rất khóa có thể đa dạng hóa
tối ưu danh mục đầu tư của mình . Nhưng bằng phương thức kết hợp vốn
cùng nhiều người khác trong qũy đầu tư , cá nhân có điều kiện chia phần


lợi trong một tập hợp các chứng khoán được đa dạng tối đa .
Một lợi ích khác do quỹ đầu tư mang lại là trình độ quản lý đầu tư chuyên
nghiệp .Một số nhà đầu tư hạn chế về mặt quản lý đầu tư của mình một
cách khôn ngoan nhất, và không có khả năng hoặc nhận thấy nếu “mua”
sự quản lý chuyên nghiệp cho mình thì họ không còn lợi nhuận .Nhưng
khi tham gia các quỹ đầu tư , tiền đầu tư của họ sẽ được quản lý bởi các
chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh nghiệm người mà được lựa chọn định
kỳ căn cứ vào tổng lợi nhuận họ làm ra .
Mặt khác, do các quỹ đầu tư là các danh mục đầu tư được quản lý
chuyên nghiệp cho nên chúng chỉ gánh một mức hoa hồng giao dịch thấp
hơn so với các cá nhân .Do đó , các nhà đầu tư cá nhân có thể tiết kiệm
được chi phí giao dịch.
Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần góp vốn vào quỹ
này có tính thanh khoản. Điều này có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn rút
lui khỏi tổ chức đầu tư này, họ có thể bán lại phần tài sản của họ với một
giá phải chăng để chuyển thành tiền mặt trong một thời gian ngắn. Do
các chứng khoán mà các quỹ đầu tư mua bán thường thuộc những loại
đầu tư có điều kiện bán nhanh nhất, nên những người mua cổ phần quỹ
đầu tư không phải lo bị chôn vốn. Họ có thể thực hiện thanh lý việc nắm
giữ cổ phần của họ vào bất cứ ngày nào có giao dịch, ở mức giá được
công bố hiện hành và nhận tiền sau một khoảng thời gian qui định,
thường là một tuần. Việc tính toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất đơn
giản, vì tổng tài sản của quỹ đầu tư hầu hết là các chứng khoán có độ linh
hoạt cao, giá của nó được cập nhật vào sau mỗi phiên giao dịch và dựa
vào thị trường chứng khoán.
3. Vai trò của quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán
Quỹ đầu tư là một định chế trung gian tài chính phi ngân hàng,có nhiều
điểm nổi bật so với các trung gian tài chính khác với những vai trò chủ
yếu như :
− Góp phần huy động vốn cho sự phát triển nền kinh tế nói chung và

góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp .
− Góp phần ổn định thị trường thứ cấp thông qua hoạt động đầu tư
chuyên nghiệp với phương pháp khoa học .
− Tạo ra các phương thức huy động vốn đa dạng thông qua thị
trường chứng khoán
− Quỹ đầu tư tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ ,
ít có sự hiểu biết vè chứng khoán ưu thích .Vì vậy các quỹ đầu tư
còn làm tăng thêm tính xã hội hóa trong hoạt động đầu tư chứng
khoán.
Với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nên kể từ khi quỹ đầu tư
thiết lập vào cuối thế kỷ 19 đến nay , quỹ đầu tư ngày càng phát triển
mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới .
4.Các loại hình quỹ đầu tư
4.1.Dựa vào nguồn vốn huy động :
− Quỹ đầu tư tập thể : Quỹ huy động vốn bằng cách phát
hành rộng rãi ra công chúng . Nhà đầu tư là thể nhân
hoặc các tổ chức kinh tế , nhưng đa phần là nhà đầu tư
riêng lẻ ít am hiểu về thị trường .
− Quỹ đầu tư tư nhân : Huy động vốn bằng phương thức
phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư , có
thể được lựa chọn trước .Các nhà đầu tư thường đầu tư
lượng vốn lớn nên họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ
rất cao .
4.2.Căn cứ vào cấu trúc vận động của vốn
Dựa trên cấu trúc vận động của vốn , quỹ đầu tư được chia ra làm ba
loại chủ yếu :
− Quỹ đầu tư dạng đóng (closed-end fund) : Điểm đặc biệt
dễ nhận thấy ở quỹ đầu tư dạng đóng là quỹ chỉ phát hành cổ phiếu
hoặc chứng chỉ quỹ ra công chúng một lần và không thực hiện việc
mua lại chứng chỉ qũy / cổ phiếu theo yêu cầu của nhà đầu tư .Khi

có nhu cầu , các nhà đầu tư có thể chuyển nhượng cho nhà đầu tư
khác trong quỹ hoặc giao dịch thông qua sàn chứng khoán .Chứng
chỉ quỹ có thể được niêm yết và giá của nó có thể thoát ly
NAV( net asset value )
− Quỹ đầu tư dạng mở (open-end fund) : Khác với quỹ đầu
tư dạng đóng , quỹ dạng mở lại liên tục phát hành cổ phiếu /chứng
chỉ quỹ ra công chúng và thực hiện mua lại khi nhà đầu tư yêu
cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với qũy dạng mở là giá
của cổ phiếu / chứng chỉ quỹ luôn gắn liền với giá trị tài sản thuần
của quỹ .Một điểm nữa mà ta có thể phân biệt giữa cổ phiểu /
chứng chỉ quỹ mở và cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ đóng là cổ phiếu /
chứng chỉ quỹ mở không được niêm yết .
4.3. Căn cứ theo mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ
− Quỹ đầu tư dạng công ty(corporate): Trong mô hình này, quỹ
đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành
theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao
nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư)
bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ,
lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của
công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ.
Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà
tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản
lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh
doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo
quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách pháp
nhân.
− Quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư.
Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ
đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra
thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu

tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó,
ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của
quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát
được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền
lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát
việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư
là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông
như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư
cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất
từ khoản vốn đóng góp của họ.
PHẦN II: HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ
1. Huy động vốn
1.1.Phương thức hình thành vốn
a. Phương thức phát hành
Đối với các quỹ khác nhau thì phương thức phát hành sẽ khác nhau. Đối với
quỹ đầu tư dạng công ty quỹ phát hành cổ phần để hình thành nên quỹ. Đối
với quỹ đầu tư dạng họp đồng quỹ sẽ phát hành chứng chỉ quỹ dưới hình
thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được chuyển nhượng như cổ phiếu.
b. Định giá ban đầu
Việc định giá cổ phiếu (CP) hay chứng chỉ quỹ (CCQ) do tổ chức thành lập
quỹ phát hành lần đầu.Đối với quỹ theo mô hình công ty việc định giá do
các tổ chức bảo đảm (fund sponser) . Đối với quỹ đầu tư dạng hợp đồng do
công ty quản lý quỹ định giá .
c. Phương thức chào bán
Về cơ bản có hai phương thức chào bán là chào bán qua tổ chức bảo lãnh và
chào bán trực tiếp từ các quỹ hoặc công ty quản lý quỹ .
d. Các chi phí liên quan tới phát hành
Chi phí chào bán ( có đăng báo, quảng cáo, roadshow…), chi phí in cáo
bạch, chi phí trả cho các đại lý phân phối CP/CCQ.
1.2.Nội dung cơ bản của bản cáo bạch

Một bản báo cáo bạch phát hành bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
− Giải thích mục tiêu đầu tư.
− Mô tả các chính sách đầu tư.
− Giới hạn đầu tư hay những hoạt động dầu tư mà quỹ không được
tiến hành.
− Các chi phí giao dịch của quỹ.
− Lịch sử hoạt động kinh doanh của quỹ ( chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa
hoạt động, thay đổi vốn điều lệ…).
− Phân tích chi tiết rủi ro đối với người đầu tư (rủi ro môi trường đầu
tư, rủi ro danh muc đầu tư.
− Các thông tin liên quan đến ngân hàng giám sát, đaị lý chuyển
nhượng hoặc đại lý phân phối thu nhập, Cách thức phân phối và thông
báo về các khoản thuế cho nhà đầu tư, các dịch vụ cung cấp thêm.
− Các quỹ đầu tư do cùng một công ty quản lý quỹ thành lập và quản
lý.
1.3. Giao dịch CCQ/ CP khi đã hình thành khi quỹ đã thành lập – định
giá và chi phí phát hành.
 Khái niệm giá trị tài sản ròng NAV ( Net Asset Value) là một chỉ tiêu
quan đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ
 Giao dịch CCQ/CP của quỹ sau khi phát hành :
Sự khác biệt về cấu trúc vận động của vốn đã đề cập ở trển dẫn đến hai cách
thức giao dịch các CCQ/CP.
Đối với quỹ đầu tư dạng đóng : Giá của CCQ/CP do cung cầu trên thị trường
điều tiết và có khuynh hướng xa rời giá trị tài sản ròng .Giá của chứng chỉ
quỹ đóng có thể giao dịch trên mức giá trị tài sản ròng và có thể giao dịch
tại mức giá chiết khấu .Giá CCQ/CP của chứng chỉ quỹ mở luôn gắn vowus
giá trị tài sản ròng của quỹ .
 Cơ chế vay và cho vay vốn
Trong các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán thì hoạt động tín dụng là
lĩnh vực bị hạn chế .Luật pháp các nước thường chỉ cho phép quỹ vay tiền từ

các ngân hàng. Nhưng không được vay để tài trowjc ho hoạt động đầu tư của
Quỹ .Do vậy , các danh mục đầu tư đòn bẩy chỉ có thể đáp ứng nhu cầu về
vốn ngắn hạn .Các quỹ này cũng bị giới hạn về số lượng vay nợ tức là phải
khống chế hệ số đòn bẩy.Đồng thời , Quỹ không được sử dụng vốn và tài
sản của Quỹ để cho vay hoặc bảo lãnh cho vay .
2.Mục tiêu đầu tư –xác định danh mục đầu tư của Quỹ
Đây là hoạt động quan trọng nhất đối với một quỹ đầu tư. Các quỹ thường
đàu tư rất rộng như chứng khoán, bất động sản, các công trình cơ sở hạ
tầng
Quỹ đầu tư thường phải phân tích, đánh giá tình hình, năng động trong đa
dạng hoá danh mục tuỳ theo thị trường.
Thông thường, quy trình đầu tư của quỹ như sau:
Nghiên cứu -> Phân tích rủi ro/ lợi nhuận -> Mục tiêu đầu tư -> Phân bổ tài
sản -> Lựa chọn chứng khoán -> Xây dựng danh mục đầu tư.
- Nghiên cứu: Các công ty quản lý quỹ luôn có những bộ phận và chuyên gia
để nghiên cứu và phân tích tình hình, từ đó đưa ra các dự đoán. Thông
thường công việc này tập trung vào việc nghiên cứu và dự đoán các yếu tố
kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lãi suất , dự đoán xu hướng phát tiển của thị
trường nói chung, phân tích và dự đoán tương lai của các ngành kinh tế.
- Phân tích rủi ro lợi nhuận liên quan đến phân tích lập phương án lập quỹ,
dự đoán thu nhập và đánh gía rủi ro.
- Lựa chọn mục tiêu của quỹ: Mục tiêu này phải cụ thể hoá được tỷ lệ sinh
lời kỳ vọng và rủi ro chấp nhận đối với sản phẩm đầu tư. Có thể đó là một
trong các mục tiêu ban đầu như: thu nhập, lãi vốn, thu nhập và lãi vốn.
- Phân bổ tài sản và lựa chọn chứng khoán:
Phân bổ tài sản là sự phân chia tiền của quỹ vào các rổ đầu tư theo các mục
tiêu cụ thể phù hợp với quan điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý
quỹ. Đây là một việc quan trọng của quỹ. Việc lựa chọn chứng khoán cho
danh mục đầu tư là việc quyết định đầu tư vào từng loại chứng khoán đã
được phân bổ cân đối với tỷ trọng vốn của quỹ.

3.Chi phí liên quan hoạt động của quỹ
Hiện nay, lợi nhuận đa phần các quỹ đầu tư vào Việt Nam thu được xuất
phát từ 2 nguồn chính: chi phí quản lý quỹ đầu tư và tiền thưởng từ quá trình
hoạt động thành công của quỹ.Do đó , các quỹ đầu tư rất quan tâm đến các
chi phí liên quan đến hoạt động bao gồm:
− Chi phí liên quan đến hoạt động đầu tư ( Phí giao dịch , môi giới
trả cho công ty chứng khoán; phí tư vấn đầu tư , phí lưu ký , giám
sát;Lãi vay, thuế, phí trả cho các tổ chức định giá các khoản đầu
tư của Quỹ
− Chi phí quản lý và điều hành Quỹ :Phí trả cho công ty quản lý
quỹ, phí thưởng hoạt động trong trường hợp công ty quả lý quỹ
hoàn thành vượt mức sinh lời kỳ vọng .Phí này giao động từ
0.4%-1%
− Các chi phí quản lý hành chính khác : Phí lập báo cáo, phí kiểm
toán , phí thuê dịch vụ tư vấn pháp lý, phí tổ chức đại hội nhà đầu
tư thường niên hoặc bất thường.
4.Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ
Để đánh giá hiệu quả vận hành của Quỹ đầu tư ta dựa trên một số các tiêu
chí: tổng thu nhập, tỷ lệ chi phí, tỷ lệ doanh thu, tỷ lệ thu nhập, chất lượng
của hoạt động quản lý quỹ.
4.1 Tổng thu nhập,
Tổng thu nhập của một quỹ đầu tư chứng khoán được cấu thành bởi các yếu
tố là cổ tức, lãi vốn, thu nhập bằng tiền khác và sự thay đổi giá trị tài sản
ròng NAV ( lợi nhuận hoặc lỗ chưa thực hiện).Chúng ta sử dụng công thức
sau để tính toán tổng thu nhập của một quỹ từ đó đưa ra đánh giá kết quả
hoạt động của quỹ là tốt hay xấu:
Thu nhập được chia +Thay đổi NAV trong kỳ
Tỷ số thu nhập/NAV= –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
NAV đầu kỳ
4.2. Tỷ lệ chi phí .

Tổng chi phí
Tỷ lệ chi phí = –––––––––––––––––––
NAV bình quân thời kỳ
Các quỹ đầu tư chỉ số thường có tỷ lệ chi phí thấp .Tỷ lệ chi phí dưới 1%
đều được coi là thấp .Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn
các quỹ quy mô lớn .Các quỹ đầu tư trên thi trường quốc tế có xu hướng
chịu tỷ lệ chi phí cao hơn quỹ nội địa ;Quỹ đầu tư cổ phiếu thường có tỷ lệ
chi phí cao hơn quỹ đầu tư lãi suất cố định.
4.3.Tỷ lệ thu nhập
Tỷ lệ thu nhập là chỉ tiêu được tính bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia
cho giá trị tài sản ròng trung bình .Con số này không có tầm quan trọng như
tổng lợi nhuận .Chỉ tiêu này phản ánh một cách không trọn vẹn hiệu quả đầu
tư vì nó chỉ tập trung vào thu nhập .
4.4.Tỷ lệ doanh thu
Tỷ lệ doanh số đo tổng giá trị giao dịch (mua , bán )do công ty quản lý quỹ
tiến hành đối với quỹ. Doanh thu luôn biến đổi tùy từng loại quỹ và cách
đầu tư của các nhà quản lý quỹ.
4.5.Chất lượng hoạt động quản lý quỹ
Nhà quản lý quỹ hiệu quả có thể quản lý tốt rủi ro , tối thiểu hóa chi phí và
đảm bảo tăng trưởng NAV .Hơn nữa, họ có một chiến lược đầu tư dài hạn
các nhà quản lý phải xác định danh mục đầu tư phù hợp (SAA,TAA) và sản
phẩm đầu tư đa dạng .Các quỹ đã đạt được kết quả hoạt động dài hạn xuất
sắc thường được điều hành bởi một nhóm các nhà quản lý chứ không phải
được điều hành bởi một vài cá nhân. Do đó , danh tiếng của đội ngũ nhân sự
quản lý rất quan trọng
5.Công bố thông tin
Việc công bố thông tin cho người đầu tư là nhằm giúp họ đánh giá đúng
thực trạng các khoản đầu tư, khả năng chuyên môn của những người quản
lý quỹ, từ đó mà đánh giá rủi ro và lợi nhuận. Việc cung cấp thông tin phải
tuân thủ theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước quy định và do Hội

đồng quản trị (trong mô hình công ty) hoặc công ty quản lý quỹ (trong mô
hình quỹ dạng hợp đồng) thực hiện.
Nội dung công bố thông tin: về các báo cáo tài chính, tình hình tài chính, các
báo cáo của công ty quản lý quỹ
Hình thức công bố thông tin thường là sử dụng các báo cáo của công ty quản
lý quỹ hoặc hội đồng quản trị của quỹ gửi cho người hưởng lợi hoặc cổ đông
của quỹ. Ngoài ra, thông tin còn được công bố tại trụ sở các công ty quản lý
quỹ hoặc tại các đại lý của công ty. Tại các nước có ngành quỹ đầu tư phát
triển thì thông tin được công bố trên các tạp chí tài chính hoặc các phương
tiện thông tin đại chúng.
6. Hoạt động của quỹ đầu tư ở Việt Nam
Từ năm 1990-2006, tổng tài sản do các quỹ đầu tư sở hữu trên toàn thế giới
tăng từ 2.281 tỷ USD lên 19.110 tỷ USD. Số lượng quỹ đầu tư trên toàn thế
giới tăng thêm 6.597 quỹ (năm 1998-2005) (Nguồn: Mutual Fund Factbook,
ICI), phát triển mạnh ở các nước mới nổi ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ
latinh.
Tại Việt Nam, trước năm 1997 có 7 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập
với tổng số vốn huy động được khoảng 400 triệu USD, nhưng chưa đầu tư
vào chứng khoán. Sau năm 2002 có 10 quỹ đầu tư nước ngoài được thành
lập ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên đến khoảng 900 triệu USD. Tính
đến cuối 3/2006 có 8 công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư nước ngoài đặt văn
phòng đại diện tại Việt Nam, khoảng 15 tổ chức đầu tư nước ngoài đầu tư tại
Việt Nam và chưa đặt Văn phòng đại diện (Nguồn : Tạp chí chứng khoán số
tháng 5/2006).
Tính đến tháng 6/2008 có 34 công ty quản lý quỹ trong nước được thành lập
(công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam, công ty quản lý quỹ Manulife
Việt Nam, công ty quản lý quỹ Bảo Việt, công ty liên doanh quản lý quỹ
Vietcombank, công ty liên doanh quản lý quỹ BIDV- Vietnam Parners )
Thực chất hoạt động của công ty quản lý quỹ là thực hiện chức năng về quản
lý vốn tài sản thông qua việc đầu tư theo danh mục đầu tư hiệu quả nhất

nhằm gia tăng giá trị của quỹ đầu tư.
Theo đó, công ty quản lý quỹ có các chức năng hoạt động và cung cấp các
sản phẩm sau:
 Quản lý quỹ đầu tư (Asset management)
- Huy động và quản lý vốn và tài sản
- Tập trung đầu tư theo danh mục đầu tư
- Quản lý đầu tư chuyên nghiệp
 Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính
- Thực hiện việc tư vấn đầu tư và tư vấn về quản trị cho các khách hàng
- Hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài
chính
- Tối ưu hóa các nguồn vốn cho các nhà đầu tư
 Nghiên cứu
- Thông qua việc phân tích đánh giá về thị trường, phân tích giá trị tài chính,
giá trị đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động quản lý đầu tư và các tư vấn như
đã nêu trên. Cơ chế giám sát của quỹ, công ty quản lý quỹ và các cơ quan
chức năng.
- Cơ quan quản lý chủ quan của công ty quản lý quỹ là Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
giám sát toàn bộ các hoạt động của công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư và
các ngân hàng giám sát về mặt vĩ mô.
- Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư
chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người
đầu tư.
- Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ việc đầu tư theo danh mục
đầu tư được nêu trong cáo bạch của quỹ.
Về quỹ đầu tư trong nước:
- Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1) thành lập vào 19/7/2006 là quỹ
công chúng và chính thức chào bán ra công chúng ngày 24/7/2006 để đạt
vốn huy động 500 tỷ đồng thông qua công ty chứng khoán ACB, công ty

chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và công ty chứng khoán
Sài gòn.
- Quỹ đầu tư chứng khoán BVF1 của Tập đoàn tài chính- bảo hiểm Bảo Việt
là quỹ thành viên được ra mắt ngày 21/7/2006 với 500 tỷ đồng với sự góp
vốn của 6 tổ chức bảo hiểm.
- Quỹ Vietcombank 2 do công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Vietcombank (VCBF) sáng lập với 60 triệu USD ở dạng quỹ đóng, sẽ ra mắt
trong năm nay.
- VFM thành lập quỹ VF1 và đã đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán ở
TTGDCK TP.HCM.
- Quỹ thứ năm dự kiến thành lập bởi công ty quản lý quỹ của Ngân hàng
quân đội, dự kiến là quỹ thành viên chuyên đầu tư chứng khoán có quy mô
khoảng 200 tỷ đồng.
- Quỹ thứ sáu dự kiến thành lập bởi Công ty quản lý quỹ của Ngân hàng
TMCP An Bình vào cuối năm 2006.
……
Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư trong nước ở Việt Nam hiện nay chủ yếu
là:
+ Cổ phiếu, trái phiếu niêm yết tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh;
+ Các cổ phiếu chưa niêm yết;
+ Và cũng có thể sẽ cung cấp sản phẩm liên kết giữa bảo hiểm và đầu
tư;
+ Đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết thuộc lĩnh vực ngân
hàng, bảo hiểm, dầu khí.
Tuy vậy, số lượng các quỹ đầu tư chưa nhiều là một trở ngại cho việc mở
rộng hình thức đầu tư cho công chúng. Hoạt động của Quỹ đầu tư giờ đây đã
phát triển mạnh mẽ, thể hiện ở việc mỗi khi các loại tài sản khác như cổ
phiếu, trái phiếu mất giá thì chứng chỉ quỹ đầu tư vẫn tỏ ra hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư. Mặc dù loại hình quỹ này đã phát triển nhanh chóng trong
những năm gần đây, ó, cả chất lượng đầu tư lẫn việc quản lý rủi ro đang tiến

bộ một cách nhanh chóng. nhưng cơ hội cho sự ra đời và phát triển của các
quỹ mới vẫn được đánh giá là rất lớn. Theo con số thống kê, chỉ có khoảng
20% số người có vốn nhàn rỗi lớn đầu tư vào các quỹ đầu tư, bao gồm quỹ
đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư phòng hộ.Trong thời gian vừa qua, sự tồn tại
của Quỹ đầu tư cho thấy khả năng hấp dẫn và thuyết phục mà công cụ này
có thể đem lại, đặc biệt cho những nhà đầu tư trung bình và nhỏ hoặc những
người chọn đầu tư theo thế thủ. Trong chừng mực nào đó, ta có thể hiểu
những nhà đầu tư vào các quỹ đầu tư khác với những nhà đầu tư vào thị
trường chứng khoán, đồng thời cũng không giống hoạt động tiết kiệm hoặc
mua trái phiếu. Xét về mặt thuận tiện, độ tin cậy và sự hấp dẫn của chúng,
nhất là để thu hút những nguồn tiết kiệm nhỏ, ta thấy khó có một hình thức
đầu tư thay thế nào tốt hơn. Ngoài ra các quỹ đầu tư còn là định chế có thể
giúp gia tăng giao dịch trên thị trường chứng khoán. Song song với tín hiệu
lạc quan, cũng còn rất nhiều vấn đề cần xem xét như khó có thể giám sát
được hoạt động của các quỹ đầu tư và rất dễ xảy ra gian lận tại các quỹ này.
Với một mức phí quản lý dành cho các nhà quản lý lên tới 20% mức tăng giá
trị hàng năm của quỹ, rất có thể đây là động cơ thúc đẩy các nhà quản lý quỹ
chấp nhận mạo hiểm một cách thái quá. Hơn nữa, hầu như không bao giờ
nhà quản lý quỹ phải chịu bất cứ một hình thức phạt nào vì việc đã làm cho
giá trị của quỹ bị giảm và nhà quản lý hoàn toàn có thể thu hẹp quy mô của
quỹ để làm lại từ đầu. Khi tiền đổ vào các quỹ đầu tư càng nhiều thì việc
kiếm được các nhà quản lý quỹ có tài năng thực sự càng khó khăn và khả
năng để kiếm được một cơ hội đầu tư tốt lại càng ít hơn.
KẾT LUẬN
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trong hệ thống tài chính Việt Nam .Từ
khi các quỹ đầu tư ra đời đến nay , các doanh nghiệp có thêm kênh huy
động vốn trung và dài hạn, lợi ích này thu được do sự kết hợp các công cụ
huy động vốn của Quỹ. Đó là các loại chứng khoán do Quỹ phát hành, cùng
với hoạt động của thị trường chứng khoán cho phép trao đổi, mua bán các
loại chứng khoán đó. Sự kết hợp này khuyến khích các nhà đầu tư, đặc biệt

là các nhà đầu tư có khả năng đầu tư dài hạn, cung cấp nguồn tài chính vô
cùng cần thiết cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Ở Việt Nam số
lượng quỹ đầu tư hiện đã lên đến hàng chục với nhiều phạm vi, chiến lược
đầu tư khác nhau. Vì thế, doanh nghiệp trước khi tiếp cận cần biết nhà đầu tư
là ai; chiến lược đầu tư của quỹ là gì; quy mô và mục tiêu đầu tư như thế
nào; mức hỗ trợ sau đầu tư ra sao…Để tiếp cận các quỹ đầu tư thành công,
doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính ba năm gần nhất, cung cấp các thông
tin chính xác và có kế hoạch kinh doanh ấn tượng. Theo đó, bản kế hoạch
kinh doanh phải giải đáp đầy đủ các câu hỏi sau: Mục tiêu của doanh nghiệp
là gì? Vì sao có mục tiêu đó? Kế hoạch này sẽ được triển khai trong bao lâu?
Ai sẽ thực hiện kế hoạch này? Thị trường của doanh nghiệp ở đâu? Doanh
nghiệp sẽ tiến hành kinh doanh như thế nào? Mặc dù có tầm quan trọng lớn
đối với nền kinh tế nhưng hiện nay các quỹ đầu tư vẫn chưa thục sự phát
triển xứng với tiềm năng của nó .
MỤC LỤC

×