Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

những vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm và một số kiến nghị và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở công ty tnhh thiên phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.33 KB, 42 trang )

Lời mở đầu
Tiêu thụ sản phẩm không phải là một vấn đề xa lạ đối với các doanh nghiệp
sản xuất nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt công tác tiêu thụ sản
phẩm. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, công tác tiêu thụ sản
phẩm thực sự trở thành một chiến tuyến làm đau đầu các nhà kinh doanh.
Làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Đó là cả một quá trình
nghiên cứu, tìm tòi phân tích đánh giá tình hình mọi mặt của doanh nghiệp
mình, tình hình thị trường, tình hình của các đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế
xã hội kết hợp với sự quản lý sang suốt, linh hoạt nhạy bén của các nhà quản lý
doanh nghiệp để vạch ra những hướng đi đúng đắn.
Trả lời được câu hỏi trên và làm tốt những lời giải đáp đó cũng đồng nghĩa
với việc doanh nghiệp đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình.
Ngược lại nếu không tìm ra lời giải đáp nghĩa là doanh nghiệp đang dần tự đào
thải mình ra khỏi thị trường. Tuy nhiên để trả lời tốt câu hỏi đó trước hết mỗi
doanh nghiệp phải nắm bắt được những lý luận cơ bản về công tác tiêu thụ sản
phẩm.
Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian được về thực tập ở Công ty
TNHH Thiên Phong, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu công tác tiêu thụ sản
phẩm của Công ty theo cách nhìn nhận của Quản trị doanh nghiệp thông qua đề
tài "Những vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm và một số kiến nghị và giải
pháp chủ yếu để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH
Thiên Phong".
Nội dung của đề tài được trình bày thành 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm ở
các doanh nghiệp sản xuất.
Chương II : Phân tích tình hình và đánh giá chung tiêu thụ sản phẩm ở
Công ty TNHH Thiên Phong.
1
Chương III : Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu để đẩy nhanh tốc độ
tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH Thiên Phong.
Với lượng kiến thức tích luý được còn ít ỏi, thời gian cũng như các điều


kiện nghiên cứu còn hạn chế nên mặc dù rất cố gắng nhưng cuốn chuyên đề này
vẫn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của
các thầy cô giáo, các cô chú trong Phòng tài vụ của Công ty cũng như sự góp ý
của các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Chương I
những vấn đề lý luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm ở các doanh
nghiệp sản xuất
1-/ Khái niệm và ý nghĩa của việc tiêu thụ sản phẩm.
1.1-/ Khái niệm.K
Những năm gần đây nước ta từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế
thị trường, trong môi trường kinh tế này các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày
càng được mở rộng và phát triển. Với việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế,
nền sản xuất ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp này cùng sản xuất hàng hoá, cùng tồn
tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, nếu như trước đây
các doanh nghiệp chỉ lo sản xuất đủ kế hoạch giao nộp cho Nhà nước thì ngày
nay không chỉ có sản xuất mà vấn đề tiêu thụ sản phẩm còn trở thành một nhiệm
vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, quyết định sự thành bại của các doanh
nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao hàng hoá, sản phẩm
cho đơn vị mua và dơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận việc thanh
toán tiền hàng theo giá thoả thuận giữa đơn vị bán và đơn vị mua.
2
Đứng trên giác độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là quá trình
chuyển hoá vốn từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ, làm cho vốn trở lại
hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ sản xuất. Thật vậy, quá trình tái
sản xuất được bắt đầu từ những đồng vốn mà nhà sản xuất bỏ ra để mua các yếu
tố đầu vào của sản xuất như: công cụ lao động, đối tượng lao động, sức lao
động.
Lúc này vốn bằng tiền được chuyển hoá thành vốn dưới hình thái vật chất.

Vốn dưới hình thái vật chất được đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra các sản
phẩm. Sản phẩm hàng hoá được tạo để đem đi tiêu thụ và kết quả quá trình tiêu
thụ là doanh nghiệp sẽ thu được tiền về, lúc này đồng vốn của doanh nghiệp lại
từ hình thái vật chất quay trở về hình thái ban đầu của nó: hình thái tiền tệ. Đến
đây một chu kỳ sản xuất kết thúc vốn tiền tệ lại được sử dụng lặp lại theo đúng
chu kỳ mà nó đã trải qua. Ta có thể đơn giản hoá quá trình tái sản xuất đó bằng
sơ đồ sau:
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh, thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá thông qua hai
hành vi: doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho khách hàng và khách hàng thanh
toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp.
1.2-/ Ý nghĩa.
3
T- H
SLĐ
TLSX (CCLĐ + ĐTLĐ)
SX .
Ta đã biết rằng tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu
kỳ sản xuất tiếp theo. Chỉ có thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn của doanh
nghiệp mới trở về với trạng thái ban đầu của nó. Với doanh thu bán hàng này
của doanh nghiệp mới có thể trang trải các chi phí về nguyên vật liệu, về máy
móc thiết bị nhà xưởng, trả tiền lương cho công nhân viên có như vậy quá trình
tái sản xuất kỳ sau mới tiếp tục. Nếu tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn doanh
nghiệp sẽ không có đủ nguồn vốn phục vụ cho quá trình tái sản xuất, tất yếu sản
xuất sẽ bị ngưng trệ.
Không chỉ có tái sản xuất giản đơn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện
nay mà các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới hoàn thiện quy trình sản
xuất của mình, tăng cường đầu tư theo chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất theo
hướng đi mới muốn vậy nhất thiết phải có nhiều lợi nhuận. Đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm có lãi sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao lợi nhuận cho doanh

nghiệp. Như vậy tiêu thụ sản phẩm đã góp phần vào thực hiện tái sản xuất mở
rộng.
Tăng tiêu thụ sản phẩm sản phẩm có lãi làm tăng lợi nhuận và là điều kiện
để tăng thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tăng thêm các hoạt động phúc
lợi của doanh nghiệp nhằm cải thiện và nâng cao điều kiện làm việc, sinh hoạt
cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng kịp thời góp phần thúc
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí bán hàng, chi phí
kho tàng bảo quản góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu công tác tiêu thụ sản phẩm chậm, yếu kém sẽ kéo dài chu kỳ sản xuất đồng
vốn bị ứ đọng chậm luân chuyển và gây ra những thiệt hại lớn trong kinh doanh
không thể lường trước được. Như C.Mác đã từng nói: “ Nếu ngay trong giai
đoạn cuối cùng H’ - T’ hàng hoá bị chất đống không bán được sẽ làm nghẽn
luồng lưu thông ”.
4
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, sản xuất kinh doanh mà chỉ dựa vào
vốn tự có thì không thể đủ để tiến hành sản xuất kinh doanh bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Khi tiêu
thụ sản phẩm có doanh thu các doanh nghiệp sẽ lập được quỹ trả nợ.
Doanh nghiệp càng trả nợ được nhanh chóng thì càng giảm được số tiền
lãi lại không phải chịu lãi suất vay quá hạn. Hơn nữa khi trả được nợ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ an toàn, doanh nghiệp có thêm uy tín trong
thanh toán do đó các mối quan hệ tiếp theo của doanh nghiệp với ngân hàng và
các bạn hàng sẽ được thuận lợi hơn.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu doanh nghiệp mới có thể
thực hiện các khoản thu nộp nghĩa vụ cho Nhà nước như các loại thuế, phí, lệ
phí đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước để từ đó Nhà nước có
thể triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của mình làm cho đất nước
ngày càng chuyển biến mạnh mẽ theo kịp với thời đại.
Cũng từ công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp có thể năm được nhu

cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường, vị trí của các
đối thủ và vị trí của mình trên thị trường cũng như năm bắt được thị trường nào
là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu, thị trường nào có tiềm năng cần khơi
dậy Từ đó mà hoạch định nên những kế hoạch đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh cho phù hợp. Chẳng hạn như: đầu tư vào mở rộng mặt hàng nào cần
nhanh chóng loại bỏ để chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh mới.
Qua tiêu thụ sản phẩm cũng là căn cứ để doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá
về khối lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra một cách chính xác, cũng như
đánh giá về trình độ tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh, tổ chức thanh
toán của đơn vị mình. Bởi vì tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu chứng tỏ
doanh nghiệp đã tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra
có chất lượng tốt quy cách mẫu mã phù hợp thị hiếu tiêu dùng, giá cả phải
chăng được thị trường chấp nhận.
5
Ngoài ra trong điều kiện “mở cửa” nền kinh tế hiện nay cùng với việc
nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức ASEAN, tiêu thụ sản
phẩm sẽ là chiếc cầu nối liên thị trường trong nước và thị trường quốc tế, thúc
đẩy thương mại quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Hơn thế nữa việc tiêu thụ sản
phẩm ra nước ngoài sẽ làm cân bằng dần cán cân thương mại của nước ta hiện
nay vốn đang nghiêng hẳn vào tình trạng nhập siêu, điều hoà tiêu dùng, thúc đẩy
sản xuất trong nước ngày càng phát triển.
Tóm lại, thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả vô
cùng to lớn. Tuy nhiên tiêu thụ sản phẩm nhanh hay chậm, nhiều hay ít không
phải do ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà được việc tiêu thụ sản phẩm diễn
ra như thế nào còn chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau còn được
nghiên cứu rõ.
1.3-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm.C
Có thể nhận thấy rằng tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố sau.
1.3.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, từng doanh

nghiệp.
Có thể thấy rõ đặc điểm sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ đến
công tác tiêu thụ sản phẩm trong ngành công nghiệp do sản xuất sản phẩm đa
dạng, dựa trên trình độ kỹ thuật cao, việc sản xuất rất ít phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên và thời vụ cho nên tiêu thụ sản phẩm được nhanh chóng, thường xuyên
và liên tục trong ngành nông nghiệp thì sản xuất theo thời vụ cho nên tiêu thụ
cũng theo thời vụ, tập trung chủ yếu vào mùa thu hoạch sản phẩm. Khác với hai
ngành trên, trong ngành xây dựng cơ bản, với các đặc trưng sản xuất đơn chiếc
theo kiểu đặt hàng thời gian thì không kéo dài nên việc tiêu thụ cũng chỉ là
những sản phẩm cá thể và tuỳ thuộc vào từng công trình cụ thể.
1.3.2. Nhu cầu.
6
Nhu cầu thị trường là một trong những vấn đề quan trọng. Để đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp phải đưa ra thị trường nhiều loại sản
phẩm khác nhau trong mỗi loại sản phẩm đó lại phải chia ra nhiều chủng loại,
kích cỡ, màu sắc, phẩm cấp mẫu mã khác nhau để đáp ứng các “cung bậc” nhu
cầu cao thấp khác nhau. Khi đưa ra tiêu thụ không phải mặt hàng nào cũng như
nhau mà có những mặt hàng tiêu thụ sản phẩm được nhiều do phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng, giá cả hợp lý, chất lượng tốt, tìm đúng thị trường Nhưng lại có
những mặt hàng tiêu thụ được ít do không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Ngược lại có những mặt hàng chất lượng tốt, giá cả phải chăng nhưng còn
không được ưa chuộng nữa nên tiêu thụ gặp khó khăn Do dó, trên cơ sở nắm
vững nhu cầu thị trường doanh nghiệp đưa ra một kết cấu phù hợp thì sẽ đẩy
nhanh tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại đưa ra thị trường những sản phẩm không
hợp lý, không đúng với tâm lý tiêu dùng thì hàng hoá sẽ bị ứ đọng. Điều này cho
thấy mỗi doanh nghiệp cần phải bám sát thị trường để định ra cho mình một kết
cấu, khối lượng hàng thích hợp, đánh đúng vào tâm lý người tiêu dùng, đồng
thời không ngừng nghiên cứu và tìm tòi, cho ra đời những sản phẩm mới ưu việt
hơn thay thế cho những sản phẩm đã bi lỗi thời lạc hậu.
1.3.3. Chất lượng sản phẩm.

Chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy hay kìm hãm
công tác tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm
cũng là một vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể dễ dàng đè bẹp các đối thủ. Chẳng
vậy, trong các chương trình quảng cáo nhiều sản phẩm người ta đã đưa ra tiêu
chuẩn “chất lượng như vàng”, “ chất lượng hàng đầu”, “ chất lượng tuyệt hảo”.
Chất lượng sản phẩm tốt không chỉ thu hút khách hàng làm tăng khối
lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn tạo cho doanh nghiệp nâng cao giá bán sản
phẩm một cách hợp lý mà vẫn thu hút được khách hàng. Ngược lại, chất lượng
sản phẩm thấp thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn, nếu chất lượng sản
7
phẩm quá thấp thì ngay cả khi giá bán rất rẻ vẫn không được người tiêu dùng
chấp nhận.
Đặc biệt trong ngành công nghiệp, nông nghiệp thực phẩm chế biến thuỷ
sản chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất lớn. Sản phẩm của các ngành này nếu
được khai thác chế biến kịp thời đảm bảo tính chất tươi sống sẽ tăng được số
lượng sản phẩm cao, hạ thấp số lượng sản phẩm thấp từ đó có thể tiêu thụ dễ
dàng và nâng cao doanh thu bán hàng. Ngược lại nếu bị ôi thiu, héo úa sẽ làm
tăng số lượng cấp thấp gây khó khăn cho tiêu thụ, giảm doanh thu có khi phải
loại bỏ cả lô hàng đó không tiêu thụ được.
Việc đảm bảo chất lượng lâu dài với phương châm “trước sau như một”
còn có ý nghĩa là lòng tin của khách hàng đối với khách hàng. Nó như là một
dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp làm cho công tác tiêu thụ
diễn ra thuận lợi.
1.3.4. Giá cả sản phẩm.
Giá cả sản phẩm tác động rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm về
nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay
quanh giá trị của hàng hoá. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình
thành tự phát triển trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người
bán do đó doanh nghiệp có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa ra một mức giá cả phù hợp với

chất lượng sản phẩm được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận doanh nghiệp sẽ
dễ dang tiêu thụ sản phẩm của mình. Ngược lại nếu định giá quá cao, người tiêu
dùng không chấp nhận thì doanh nghiệp chỉ có thể ngồi nhình sản phẩm chất
đống trong kho của mình mà thôi. Mặt khác, nếu xí nghiệp quản lý kinh doanh
tốt, làm cho giá thành sản phẩm thấp, doanh nghiệp có thể bán hàng với giá thấp
hơn mặt bằng giá cả của sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây là một lợi thế
trong cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp có thể thu hút được cả khách hàng của
8
đối thủ cạnh tranh, từ đó dẫn đến sự thành công của doanh nghiệp trên thị
trường.
Đối với thị trường sức mua có hạn, trình độ tiêu thụ ở mức thấp thì giá có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm. Với mức giá chỉ thấp hơn
một chút đã có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn nhưng với mức giá chỉ nhích hơn
đã có thể làm sức tiêu thụ giảm đi rất nhiều. Điều này dễ dàng nhận thấy ở các
thị trường nông thôn miền núi nơi có mức thu nhập hay nói rộng hơn là thị
trường của các nước chậm phát triển. Điều chứng minh rõ nét nhất là sự chiếm
lĩnh của hàng Trung Quốc trên thị trường nước ta hiện nay. Giá cả của Trung
Quốc rẻ hơn mẫu mã lại đẹp đã chiếm được cảm tình của những người dân với
thu nhập thấp.
Tóm lại, công tác tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với mỗi
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Tiêu thụ sản phẩm sản phẩm tốt sẽ mang
lại hiệu quả vô cùng to lớn, ngược lại công tác tiêu thụ sản phẩm kém sẽ mang
lại hiệu quả xấu, có thể dẫn doanh nghiệp tới bờ phá sản. Chỉ trên cơ sở coi
trọng và nhận thức đúng đắn vấn đề tiêu thụ sản phẩm mới có thể tổ chức được
công tác tiêu thụ sản phẩm một cách khoa học, hiệu quả. Những năm đầu của
thế kỷ đổi mới này là những năm đầy thử thách giúp cho các doanh nghiệp thực
sự khẳng định mình. Trong những năm này, bức tranh toàn cảnh về tiêu thụ sản
phẩm doanh nghiệp nước ta nổi bật lên hai mảng đối lập. Đó là những mảng rực
rỡ của các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh đang vươn lên mạnh mẽ. Bên cạnh
đó là một mạng lưới của các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, hàng hoá tồn đọng

không bán được, thậm chí nhiều doanh nghiệp phải giải thể. Mảng này chủ yếu
là các doanh nghiệp quốc doanh với nếp làm ăn cũ, nay không thể trụ nổi với
nếp làm ăn mới.
Tuy không phải là doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ nhưng ở đây là một
doanh nghiệp khá vững vàng và tự tin trong bước đi của mình đó là Công ty
TNHH Thiên Phong. Ta hãy tìm hiểu xem công tác tiêu thụ sản phẩm ở Công ty
9
này xem Công ty đã làm được gì, chưa làm được những gì xung quanh vấn đề
tiêu thụ sản phẩm để từ đó có thể góp thêm tiếng nói của bản thân, giúp cho
Công ty ngày càng ổn định và phát triển mạnh mẽ.
10
Chương II
Phân tích tình hình và đánh giá chung về công tác tiêu thụ sản phẩm
Công ty TNHH Thiên Phong
I-/ Đặc điểm chung của Công ty TNHH Thiên Phong.
1.1-/ Quá trình hình thành và phát triển.
Ai đã đến thủ đô Hà Nội, nếu đi qua ngã tư Chùa Bộc - Thái Hà - Tây Sơn
sẽ thấy ngay Công ty TNHH Thiên Phong nằm tại 97 Chùa Bộc. Đây là một vị
trí đẹp để Công ty có thể phát triển đa dạng ngành nghề kinh doanh.
Công ty TNHH Thiên Phong là một Công ty sản xuất bàn ghế với quy
trình công nghệ gần như khép kín từ việc chế tạo đến việc lắp ráp hoàn chỉnh.
Hàng năm trung bình Công ty sản xuất và tiêu thụ hơn 10.000 bộ bàn ghế các
loại.
Trong lịch sử phát triển của mình Công ty đã trải qua nhiều thời kỳ khó
khăn, trước đây Công ty chỉ lấy những sản phẩm của nơi khác về tiêu thụ, nhưng
bây giờ doanh nghiệp mở rộng quy mô về sản xuất. Thành lập từ năm 1990 sao
gần 10 năm hoạt động doanh nghiệp cũng gặp những khó khăn trong công tác
tiêu thụ sản phẩm. Nhưng được sự quan tâm của Nhà nước, bạn bè cho vay vốn
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đã thoát khỏi thời kỳ khó khăn. Hiện nay để
phù hợp với cơ chế thị trường Công ty không chỉ có nhiệm vụ sản xuất bàn ghế

và còn có những nhiệm vụ quyền hạn mới. Đó là:
- Sản xuất và lắp ráp bàn ghế các loại.
- Kinh doanh tổng hợp.
Một Công ty sản xuất đồ dùng thuộc loại hình sản xuất hàng loạt.
11
Hiện nay Công ty có 60 người, nhân viên phục vụ gián tiếp của Công ty là
10 người, số lao động trực tiếp là 30 người; 10 người chịu trách nhiệm
Marketing. Đội ngũ cán bộ kinh tế, khoa học là 5 người.
Quy mô vốn của Công ty năm 2006 là: tổng số vốn kinh doanh
1.949.002.041 đồng.
Với diện tích mặt bằng hiện tại là 300m2, 3 phòng ban và 2 phân xưởng
sản xuất Công ty đã gần như khép kín quy trình sản xuất bàn ghế.
Hiện nay Công ty đang dự kiến một số dự án liên doanh với nước ngoài
như Trung Quốc, Đài Loan để mở rộng hơn nữa hoạt động sản xuất kinh
doanh.
1.2-/ Đặc điểm tổ chức quản lý, quy trình công nghệ của Công ty TNHH
Thiên Phong.
1.2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất của Công ty.
Cùng với quá trình phát triển, Công ty đã không ngừng hoàn thiện bộ máy
tổ chức quản lý của mình. Đến nay Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo hệ trực
tuyến gồm 3 phòng ban, 2 phân xưởng:
- Phòng kế toán. - Phân xưởng sản xuất.
- Phòng kinh doanh - Tổng hợp. - Phân xưởng gia công.
- Phòng bán hàng.
Đứng đầu Công ty là Ban giám đốc.
Tại các phòng ban đều có trưởng phòng và phó phòng phụ trách công tác
hoạt động của phòng ban mình.
Tại các phân xưởng có quản đốc và phó quản đốc chịu trách nhiệm quản
lý, điều hành sản xuất trong phân xưởng.
12

Bộ máy quản lý sản xuất của Công ty có thể biểu diễn bằng sử dụngơ đồ
sau.
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý sản xuất của Công ty TNHH Thiên Phong
II-/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH Thiên Phong trong mấy năm qua.
2.1-/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở trong nước.T
ở nước ta hiện nay nhu cầu về đồ dùng ngày càng cao ở các thành phố lớn
nhịp độ bàn ghế không thể bán kịp với “nhịp độ khẩn trương” của cuộc sống nên
nó không phải đồ dùng chủ yếu. Nhưng còn ở các vùng nông thôn miền núi thì
sao? Nước ta là một trong những nước nghèo nhất thế giới, ở các vùng nông
thôn và tỉnh lẻ điều đó lại càng thể hiện rõ. ở những vùng này đời sống còn thấp
kém. Với đặc điểm nước ta hơn 75% là dân số sản xuất nông nghiệp cho thấy thị
trường tiêu thụ bàn ghế nước ta là rất lớn.
Đối với Công ty TNHH Thiên Phong thị trường hiện nay của Công ty là
hầu hết các tỉnh phía Bắc trong đó thị trường chủ yếu là Hà Nội. Một số các thị
trường hiện nay đang tiêu thụ mạnh là Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình
13
Ban giám đốc
Phòng kế toán
Phòng kinh
doanh tổng hợp
Phòng bán hàng
Phân xưởng sản xuất
Phân xưởng gia công
Đối tượng chính sử dụng bàn ghế là các Công ty và một số người dân. Do
đó việc tiêu thụ sản phẩm mang tính chất thời vụ tập trung chủ yếu vào chuẩn bị
khai trương Công ty thanh lý các đồ dùng đã cũ.
Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm chỉ bó hẹp trong phạm vi đối tượng là
hộ gia đình, trong khi mà các Công ty chưa phát triển mạnh. Ngày nay việc tiêu
thụ theo đơn đặt hàng của mọi đối tượng và được rộng rãi trên thị trường phục
vụ tiêu dùng cho mọi tầng lớp dân cư.

Khách hàng mua bàn ghế có thể đến mua hàng trực tiếp tại cửa hàng của
Công ty với số lượng tuỳ ý. Mọi phương thức thanh toán đều được Công ty chấp
thuận theo sự thoả thuận giữa Công ty với khách hàng đã được ghi trong hợp
đồng.
Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm với sự cạnh tranh của các loại sản phẩm
trên thị trường hiện nay bàn ghế Thiên Phong cũng đã phần nào chiếm lĩnh được
trên thị trường. Chúng ta xem xét việc tiêu thụ của Công ty TNHH Thiên Phong
đã được kết quả gì và chưa được kết quả gì qua các năm.
Ta xem tình hình tiêu thụ sản phẩm qua các quý năm 2005 qua bảng sau:
14
Biểu 1 - Tình hình tiêu thụ sản phẩm qua các quý năm 2005
Tên sản phẩm ĐV
Quý I Quý II Quý III Quý Iv
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá bán

(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá
bán
(1000đ)
Dthu tiêu
thụ
(1000đ)
1. Bàn ghế hoàn chỉnh Bộ 20.000 1335000 2500 1628800 2300 1470500 3000 1954500
- Ghế xoay kiểu Đài Loan Cái 1300 650 845000 1100 600 660000 1300 625 812500 1700 645 1096500
- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia Cái 700 750 490000 1400 692 968800 100 658 658000 1300 660 858000
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 500 565 282500 548 565 309620 565 548 309620 579 585 338715
3. Tủ Thái Lan Cái 750 585 438750 759 600 455400 600 768 460800 645 752 485040
Cộng 2056250 2393820 2240920 2778255
Bảng trích từ số liệu Phòng Kế toán
15
Tình hình tiêu thụ qua các quý của năm 2005 cho ta thấy số lượng bán ra
qua các quý là khá cao, nhưng giá bán của các quý cũng chênh lệch khá nhiều về
giá bán của bàn ghế hoàn chỉnh quý I ghế xoay kiểu Đài Loan là 650.000 đồng
nhưng sang quý II thì giá bán lại giảm nhưng số lượng của quý II lại tăng hơn so
với quý I. Về doanh thu qua các quý Quý I so với quý II . Quý II tăng 337.500
đồng còn Quý II so với quý III thì Quý III lại giảm 152.000 đồng. Quý III so với
Quý IV: Quý IV tăng so với Quý III là 537.335 đồng.
Nguyên nhân: do số lượng bán ra là không đồng đều vì số lượng của mỗi
mặt hàng không đảm bảo được chất lượng sản phẩm mẫu mã của các sản phẩm
đưa ra chưa đủ sức thuyết phục. Giá bán của sản phẩm còn cao so với các mặt

hàng trên thị trường dẫn đến doanh thu của tiêu thụ sản phẩm không cao, việc
tăng giảm giá cũng dẫn đến sự giảm sút đến số lượng tiêu thụ qua các quý.
Về năm 2005 doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm là không cao cũng do nhiều
nhân tố doanh thu cũng đạt được mức 9.469.245 đồng.
Ta xem tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2006 có khá hơn không ở bảng 2.
* Nhận xét về tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2006.
Trong biểu này số lượng bàn ghế bằng 95,23% kế hoạch giảm 500 bàn
ghế so với kế hoạch trong đó ghế xoay kiểu Đài Loan kế hoạch 6000, thực tế
6500 vượt 500 bộ đạt 108,33%, bàn gỗ ép kiểu Đài Loan kế hoạch năm 4500,
thực tế 3500 giảm 1000 bộ bằng 77,77%.
- Giá bình quân của một bộ bàn ghế xoay kiểu Đài Loan kế hoạch 792
đồng thực tế 800 đạt 101% giá bình quân bàn ghỗ ép kiểu Malaysia. Thực tế đạt
95,64% kế hoạch. Doanh thu các loại sản phẩm chỉ đạt 88,67% kế hoạch mức
giảm so với kế hoạch 1.423.000 đồng. Riêng doanh thu sản phẩm bàn ghế hoàn
chỉnh năm 2006 chỉ đạt 96,21% kế hoạch giảm 31.100 đồng do với kế hoạch.
Qua kết quả trên cho thấy tình hình thực tế về công tác lập kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm có thể thấy Công ty đã lập khá cao kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
16
nhưng thực tế thực hiện lại giảm so với kế hoạch đặt ra làm cho kế hoạch không
khả thi. Qua đó chứng tỏ rằng Công ty chưa thực sự coi trọng công tác lập kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Xét về quá trình tiêu thụ sản phẩm thì việc không hoàn chỉnh kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm còn nhiều nguyên nhân như chất lượng sản phẩm, giá cả, thị
trường
17
Biểu 2 - Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2006
Tên sản phẩm
Đơn vị
tính
Số lượng tiêu thụ Giá bình quân sản phẩm (1000đ) Doanh thu tiêu thụ (1000đ)

Kế hoạch Thực tế
So sánh
(%)
Kế hoạch Thực tế
So sánh
(%)
Kế hoạch Thực tế
So sánh
(%)
1. Bàn ghế hoàn chỉnh Bộ 10.500 10.000 95,23 792 800 101 8.211.000 7.900.000 96,21
- Ghế xoay kiểu Đài Loan Cái 6.000 6.500 108,33 800 825 103,12 4.800.000 5.632.500 111,71
- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia Cái 4.500 3.500 77,77 758 725 95,64 3.411.000 2.537.500 74,39
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 3.000 2.600 86,66 785 600 76,43 2.355.000 1.560.000 66,24
3. Tủ Thái Lan Cái 4.000 3.300 82,5 500 510 102 2.000.000 1.638.000 84,15
Tổng 12.566.000 11.143.000 88,67
Bảng trích từ số liệu Phòng Kế toán
18
Vì vậy Công ty phải tìm kiếm bạn hàng thị trường đang còn có nhiều hạn
chế việc thay đổi mẫu mã phải thường xuyên thay đổi. Phải tham khảo trước khi
sản xuất ra thị trường, như vậy thì mới không làm cho kế hoạch đạt kết quả cao
như mong muốn về việc không đạt kế hoạch giá bán bình quân lại cao, một loạt
các nhân tố ảnh hưởng theo.
2.1.3. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Trong năm 2007 kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập như sau (xem biểu 1).
Trong biểu 1, cột “sản phẩm” được lập chi tiết cho 3 loại sản phẩm là bàn
ghế hoàn chỉnh, tủ kiểu Malaysia, tủ kiểu Thái Lan.
Các kiểu bàn ghế được lập kế hoạch tiêu thụ chi tiết gồm: ghế xoay kiểu
Đài Loan, bàn ghế ép kiểu Malaysia.
Hai cột số lượng “tiêu thụ 2006” và “ doanh thu tiêu thụ 2006” được tổng
hợp từ các báo cáo tài chính năm 2006 của Công ty.

Cột số lượng “kế hoạch 2007” được căn cứ vào đơn đặt hàng, các hợp
đồng kinh tế đã ký và kết quả dự đoán nhu cầu thị trường năm kế hoạch. Số
lượng tiêu thụ các sản phẩm được dự kiến dựa vào nhu cầu thị trường và tình
hình tiêu thụ các năm trước vì các sản phẩm này sản xuất chủ yếu để lắp ráp
thành bộ bàn ghế hoàn chỉnh nhưng số lượng lại bán được nhiều hơn.
Cột “đơn giá kế hoạch” là giá do Công ty dự kiến căn cứ vào đơn giá bán
sản phẩm cuối năm 2006 và tình hình biến động giá trên thị trường.
Cột “doanh thu dự kiến 2007” bằng cách nhân số sản phẩm ở cột “ kế
hoạch 2007” với số tương ứng ở cột “đơn giá kế hoạch”.
Lưu ý: cột “doanh thu tiêu thụ 2006” và “doanh thu dự kiến năm 2007”
không phản ánh toàn bộ doanh thu mà Công ty đã đạt được trong năm 2006
cũng như dự kiến năm 2007 bởi vì ngoài việc tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra
Công ty còn kinh doanh một số mặt hàng khác. Trong khuôn khổ bài này em
19
không xem xét toàn bộ các vấn đề đó mà chỉ xem xét đánh giá việc Công ty tiêu
thụ các sản phẩm sản xuất ra do đó hai cột nói trên chỉ phản ánh phần doanh thu
tiêu thụ sản xuất ra.
20
biểu 3 - kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2007
Tên sản phẩm
Số lượng Giá trị (1000đ)
Đơn vị
Tiêu thụ
năm 2006
Kế hoạch
2007
So sánh
(%)
Chia ra các quý
Dthu tiêu

thụ
Đơn giá
KH
Dthu dự
kiến
So sánh
(%)
Quý I Quý II Quü III Quý IV
1. Bàn ghế hoàn chỉnh Bộ 10.000 12500 12,5 3500 2500 2500 4000 8353262 9750000 116,72
- Ghế xoay kiểu Đài Loan Cái 6500 7500 115,38 1000 2005 2005 2005 5673412 800 6000000 105,75
- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia Cái 3500 5000 142,85 2500 500 500 2005 2679850 750 3750000 139,93
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 2600 3000 153,84 300 700 500 1500 2322431 800 2400000 103,34
3. Tủ kiểu Thái Lan Cái 3300 4000 121,2 1700 800 700 800 2876263 500 2005000 69,53
Cộng 13551956 14150000 104,4
Bảng: Trích từ số liệu Phòng Kế Toán năm 2007
21
Một phần cơ bản trong tổng số doanh thu của Công ty trong các biểu bảng
cũng như lý luận sau này “ doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng chỉ có ý nghĩa như vậy.
Trên đây là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm 2007 của Công ty còn các
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quý được lập đơn giản hơn vì trong các kế
hoạch này không có sự so sánh thực tế cùng quý năm 2006 như kế hoạch cả năm
(xem biểu 2).
Biểu 4 - kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quý I năm 2007
Tên sản phẩm
Đơn
vị
tính
Kế
hoạch
Chia ra các tháng

Giá bán BQ
1 SP (1000đ)
Doanh thu dự
kiến (1000đ)
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 9.875.000
1.Bàn ghế hoàn
chỉnh
Bộ 3.500 80 1.000 1.700 800 800.000
- Ghế xoay -Đài
Loan
Cái 1.000 535 560 670 750 187.500
- Bàn gỗ ép
-Malaysia
Cái 1.500 265 440 1.030 800 240.000
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 300 100 150 50 500 850.000
3. Tủ kiểu Thái Lan Cái 17 450 550 70
2.077.500
* Nhận xét về công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Có thể nói phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sản phẩm của
Công ty hiện nay là thích hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Kế
hoạch được lập khá chi tiết theo thời gian (từng quý, tháng cũng như theo từng
sản phẩm). Vấn đề đạt ra Công ty có thực sự coi trọng kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm hay không? Nếu như công tác lập kế hoạch được thực sự coi trọng thì với
phương pháp lập kế hoạch này thì sẽ thuận lợi rất nhiều cho Công ty trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại nếu Công ty lập kế hoạch không sát thực tế
thì dù kế hoạch không được coi trọng số liệu đưa vào không sát thực tế thì dù kế
22
hoạch tiêu thụ sản phẩm có chi tiết đến đâu cũng khó khả thi điều này sẽ được
đánh giá như sau:
Xét về kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2007 của Công ty ta thấy doanh

thu dự kiến của Công ty là 14.150.000 đồng tăng 5.980.044.000 đồng so với
năm 2006, tỷ lệ tăng 10,44.
* Nguyên nhân: do tất cả các sản phẩm đều được dự kiến tiêu thụ nhiều
hơn, giá bán một số sản phẩm cũng được dự kiến tăng so với năm 2006 trong đó
nguyên nhân chính là do dự kiến tăng tiêu thụ bàn ghế hoàn chỉnh.
Trong năm 2007 doanh thu dự kiến tiêu thụ bàn ghế hoàn chỉnh là
9.750.000 đồng tăng 1.396.738.000 đồng so với năm 2006 tỷ lệ tăng là 11, 67.
Nếu so sánh tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm năm 2007 thì mức tăng này đạt
14,0 (1.396.738.000/ 9.750.000.000) sơ dĩ có sự tăng lên như vậy là do.
* Về mặt số lượng: Công ty dự kiến tăng số lượng tiêu thụ tất cả các mặt
hàng ghế xoay kiểu Đài Loan, tăng từ 6.500 năm 2006 lên 7.500 năm 2007 (kế
hoạch 2007). Bàn gỗ ép kiểu Malaysia 3500 năm 2006 lên 5000 năm 2007.
Việc dự kiến tăng số lượng bàn ghế có thể do số lượng bàn ghế tiêu thụ
trong các hợp đồng đã ký tăng lên so với 2007 nếu đúng vậy thì đây là một biểu
hiện đáng mừng cho Công ty.
Số lượng bàn ghế dự kiến tiêu thụ tăng lên cũng có thể do Công ty dự
đoán nhu cầu tiêu dùng tăng lên, trường hợp này cần phải thận trọng. Nếu dự
đoán sai sẽ làm cho kế hoạch mất tính khả thi.
Về mặt kết cấu: về cơ bản Công ty vẫn dự kiến tập trung 2 kiểu bàn ghế,
ghế xoay kiểu Đài Loan, bàn gỗ ép kiểu Malaysia. Nhưng kết cấu sản phẩm có
sự thay đổi so với năm 2006 (xem biểu).
Biểu 5 - so sánh kết cấu tiêu thụ bàn ghế kế hoạch 2007, thực tế 2006
Tên sản phẩm
Thực tế 2006 Kế hoạch 2007
23
Số lượng (Bộ)
Tỷ lệ (%) Số lượng (Bộ) `Tỷ lệ (%)
Bàn ghế hoàn chỉnh 10.000 100% 12.500 100%
- Ghế xoay kiểu Đài Loan 6.500 65 7.500 60
- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia 3.500 35 5.000 40

Về mặt giá cả: do năm 2006 giá bán đấu giá ghế có nhiều biến động, thời
điểm đầu năm giá thấp, thời điểm giữa năm giá bán ghế cao. Mức chênh lệch giá
giữa hai thời điểm đầu năm và cuối năm rất lớn, giá bán kế hoạch năm 2007
được lập căn cứ vào giá ở thời điểm cuối năm 2006. Tất yếu cao hơn mức giá
bình quân cả năm 2006.
Sự tác động của cả 3 nhân tố trên đã dẫn đến sự tăng lên của doanh thu dự
kiến tiêu thụ bàn ghế năm 2007 so với doanh thu tiêu thụ bàn ghế thực tế 2006.
24
Biểu 6 -tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2007
Tên sản phẩm
Số lượng tiêu thụ Giá bình quân 1 SP (1000đ) Doanh thu tiêu thụ (1000đ)
Đvị
tính
Kế
hoạch
Thực
tế
So sánh
(%)
Kế
hoạch
Thực
tế
So sánh
(%)
Kế hoạch Thực tế
So sánh
(%)
1. Bàn ghế hoàn chỉnh Bộ 12.500 12.257 98,05 828 845 102,05 9.750.000 9.756.554 100,06
- Ghế xoay kiểu Đài Loan Cái 7.500 8.000 106,6 800 835 104,37 6.000.000 6.680.000 111,33

- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia Cái 5.000 4.257 85,14 750 722 96,26 3.750.000 3.073.554 81,96
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 3.000 3.200 106,6 800 657 82,12 2.400.000 2.102.400 87,6
3. Tủ kiểu Thái Lan Cái 4.000 3.020 75,5 500 521 104,2 2.00.000 1.573.420 78,67
Cộng 14.150.000 13.432.374 94,92
Bảng trích từ số liệu Phòng Kế Toán
25

×