Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam từ năm 2000 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.94 KB, 40 trang )

Phần mở đầu
Trên thế giới ngày nay, hai xu hớng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang
cuốn mọi quốc gia vào vòng xoáy của nó, theo đó, thế giới đang đến Việt Nam
và Việt Nam cùng bắt đầu đi ra thế giới. Đây là xu hớng hoàn toàn phù hợp với
quy luật của sự phát triển, là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong vài ba thập kỷ gần đây, chúng ta đã đợc
chứng kiến sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của hoạt động đầu t trực tiếp nớc
ngoài FDI (Foreign Direct Investment) trên phạm vi toàn cầu, nó đã góp phần
thay đổi lớn lao bộ mặt kinh tế thế giới, giúp các nớc rút ngắn dần khoản cách
giầu nghèo, tạo ra sự cân bằng tơng đối giữa các khu vực và trên toàn thế giới.
FDI có có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
của Việt Nam. Tốc đô tăng trởng GDP trung bình trong khoảng 10 năm gần
đây đạt 7,5 ữ 8% là một minh chứng rõ ràng cho vai trò của FDI. Tuy nhiên
vài năm trở lại đây do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xẩy ra
một số nớc trong khu vực và trên thế giới, cộng với mức độ cạnh tranh ngày
càng trở nên gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn nớc ngoài của các nớc nh:
Trung Quốc, Inđônêsia, Thái Lan, Malaisia Đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt
Nam có phần giảm thiểu cả về số lợng lẫn chất lợng, ảnh hởng không nhỏ đến
việc phát triển kinh tế xã hội. Trớc tình hình đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải
có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về đầu t trực tiếp nớc ngoài trong thời
gian qua để thấy đợc những yếu tố tác động: Lợi thế và bất lợi của đất nớc,
trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm thúc đẩy
thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài vào Việt Nam trong những năm tới góp phần
thực hiện mục tiêu: Công nghiệp hoá, hiệu đại hoá đất nớc, phấn đấu đến năm
2020 đa Việt Nam trở thành một nớc công nghiệp phát triển.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn vấn đề trên, em chọn đề tài: "Đầu t trực tiếp
nớc ngoài tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay" Cấu trúc của đề tài bao gồm
3 mục lớn :
Mục I: Lý luận chung về đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI)
Mục II: Thực trạng FDI tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay
Mục III: Một số giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động FDI tại Việt


Nam trong những năm tới.
Với nhận thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót.
em mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết đợc hoàn
thiện hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Nh Bình đã tận
tình hớng dẫn, giúp em hoàn thành bài viết này.
Phần Nội dung
Mục I: Vài nét về đầu t trực tiếp nớc ngoài FDI
(Foreign Direct Investment)
Hoạt động FDI trên thế giới thực sự bắt đầu và bùng nổ mạnh mẽ chỉ
trong khoảng vài ba thậ kỷ gần đây. Nguồn gốc của hoạt động này là sự di
chuyển vốn quốc tế.
1- Sự di chuyển vốn quốc tế:
Về thực chất, di chuyển vốn quốc tế là sự vận động của tiền tệ và các tài
sản khác giữa các quốc gia để điều chỉnh tỷ lệ kết hợp giữa các yếu tố sản xuất
nhằm đạt đợc lợi ích tối đa. Sự vận động của vốn giữa các quốc gia đã tạo
thành các dòng chảy của vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm làm
cho vốn sinh sôi nhanh hơn. Nói cách khác là kỳ vọng về lợi ích sẽ thu đợc ở
quốc gia khác đã thu hút các nguồn vốn và tạo thành dòng chảy của vốn qua
biên giới các quốc gia. Quá trình này tạo ra hai dòng chảy: dòng chảy vào và
dòng chảy thông qua các loại hình đầu t quốc tế.
Đầu t quốc tế bao gồm đầu t trực tiếo (FDI) và đầu t gián tiếp (FPI).
Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều dù cho FPI có xu hớng tăng lên.
Sự di chuyển vốn quốc tế (hình thức sơ khai của ĐTNN) tác đầu lớn đến
nền kinh tế thế giới. Một khối lợng hàng hoá và tiền tệ khổng lồ đã đợc tạo ra
và đang lu chuyển hàng ngày hàng giờ trên khắp thế giới, có một phần đóng
góp không nhỏ của đầu t quốc tế.
2- Đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI)
Về thực chất, FDI là loại hình đầu t quốc tế mà chỉ đầu t bỏ vốn để xây
dựng hoặc mua phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nớc ngoài

để là chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành
hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động của đối tợng và họ bỏ vốn đầu t.
Đồng thời, họ cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh
doanh của dự án.
FDI thờng đợc thực hiện thông qua các hình thức tuỳ theo quy định của
Luật Đầu t nớc ngoài cuả nớc sở tại các hình thức FDI đợc áp dụng trên thế
giới thờng là hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, buôn bán
đối ứng, hợp đồng cấp giấy phép công nghệ hay quản lý hợp đồng li xăng,
100% vốn nớc ngoài, hợp đồng chia sản phẩm, hợp đồng xây dựng - vận hành
- chuyển giao (BOT) có thể thấy đợc một số đặc điểm cơ bản sau của FDI.
(1) Tỷ lệ vốn của các nhà đầu t nớc ngoài trong vốn pháp định của dự án
đạt mức độ tối thiểu tuỳ theo luật đầu t của từng nớc quy định. Ví dụ, Luật đầu
t nớc ngoài tại Việt Nam quy định chủ đầu t nớc ngoài phải góp tối thiểu 30%
vốn pháp định của dự án, ở Mỹ quy định 100% và một số nớc lại quy định là
20%.
(2) Các nhà đầu t nớc ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ
bỏ vốn đầu t. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của
chủ đầu t. Nếu doanh nghiệp góp 100% vốn trong vốn pháp định thì doanh
nghiệp hoàn toàn sở hữu của nhà đầu t nớc ngoài và cũng do họ quản lý toàn
bộ.
(3) Kết quả thu đợc từ hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án đợc
phân chia cho các bên theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định sau khi nộp thuế
cho nớc sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có)
(4) FDI thờng đợc thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới,
mua lại toàn bộ hoặc từ phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu
để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Đề cập đến khía cạnh
vai trò của FDI, có thể tiếp cận trên 2 giác độ.
Đối với nớc đi đầu t, những tác động tích cực đó là: Chủ đầu t nớc ngoài
trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên họ thờng có trách nhiệm cao, thờng đa
ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Từ đó có thể đảm bảo hiệu quả của

FDI cao.
Chủ đầu t nớc ngoài mở rộng đợc thị trờng tiêu thụ sản phẩm nguyên
liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực và thế giới.
Có thể giảm giá thành sản phẩm do khai thác đợc nguồn lao động giá rẻ
cần nguồn nguyên liệu hoặc thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Từ đó nâng cao hiệu
quả kinh tế của vốn DFI, tăng năng suất và thu nhập quốc dân. Trách đợc hàng
rào bảo hộ mậu dịch và phi mậu dịch của nớc sở tại và thông qua FDI mà chủ
đầu t nớc ngoài. Xây dựng đợc các doanh nghiệp của mình nằm trong lòng các
nớc thi hành chính sách bảo hộ.
Tác động tiêu cực:
Nếu chính phủ các nớc đi đầu t đa ra các chính sách không phù hợp sẽ
không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu t ở trong nớc. Khi đó, các
doanh nghiệp lao mạnh ra nớc ngoài đầu t để thu lợi, do đó các quốc gia chủ
nhà có xu hớng bị suy thoái tụt hậu. Đầu t ra nớc ngoài có nguy cơ rủi ro cao
hơn đầu t trong nớc, do đó các doanh nghiệp này thờng áp dụng các biện pháp
khác nhau để phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
Đối với nớc nhận đầu t, những tác động tích cực đó là: Tạo điều kiện
khai thác đợc nhiều vốn đầu t từ bên ngoài do không quy định mức góp vốn tối
đa.
Tạo điều kiện tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý kinh doanh của bên nớc ngoài. Tạo các điều kiện thuận lợi để khai thác tốt
nhất các lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý Tạo thêm
việc làm, tăng tốc độ tăng trởng của đối tợng bỏ vốn và nền kinh tế, tăng kim
ngạch suất khẩu, nâng cao đời sống của nhân dân góp phần cải tạo cảnh quan
xã hội, tăng năng suất và thu nhập quốc dân. Khuyến khích năng lực kinh
doanh trong nớc, tiếp cận với thị trờng nớc ngoài. Tác động tiêu cực, đó là:
Môi trờng chính trị và kinh tế nớc tiếp nhận tác động trực tiếp đến dòng vốn
FDI. Nếu không có một quy hoạch đầu t cụ thể và khoa học, có thể đầu t tràn
lan, kém hiệu quả, tài nguyên bi khai thác bừa bãi và sẽ gây ô nhiễm môi trờng
nghiêm trọng. Trình độ của đối tác tiếp nhận sẽ quyết định hiệu quả của hợp

tác đầu t. Có thể nhận chuyển giao từ các nớc đi đầu t các công nghệ không
phù hợp với nền kinh tế trong nớc, gây ô nhiễm môi trờng
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu vai trò và tác động của FDI, vậy, vai
trò của chính phủ các nớc nhận đầu t có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt
động FDI của từng nớc. Hầu hết các chính phủ đều có vai trò trực tiếp khuyến
khích hay hạn chế FDI, quản lý quá trình FDI và tạo ra khuôn khổ, thể chế hỗ
trợ cho hoạt động FDI.
3. Hoạt động FDI trên thế giới hiện nay.
Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc tế, dới tác động
của suy thoái kinh tế Mỹ, Nhật, tăng trởng GPD của thế giới trong năm 2001
chỉ đạt 1,3 - 1,5%, mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ qua. Sự suy giảm
chung của nền kinh tế thế giới đã khiến nhiều tập đoàn Công ty xem xét lại các
kế hoạch đầu t mới của mình, xuất khẩu t bản vì thế bị ngừng trệ. Khi các
Công ty lựa chọn hiệu quả lên hàng đầu thì sự suy giảm nền kinh tế thế giới
làm cho FDI thế giới có cùng gam màu ảm đạm nh nền kinh tế toàn cầu.
Lợng FDI vào các nớc công nghiệp giảm đáng kể, từ 1005 tỷ USD năm
2000 xuống còn 510 tỷ USD. Các nớc đang phát triển tuy cùng chịu tác động
chung, nhng mức tụt giảm là không đáng kể (64% so với 49% suy giảm của
các nớc phát triển)
Rơi từ mức 240 tỷ USD của năm trớc xuống còn 225 tỷ USD trong năm
nay, giảm 15 tỷ USD. Sự thâm hụt này chủ yếu xảy ra ở Châu Mỹ La Tinh và
các nớc đang phát triển Châu á, trong khi lợng vốn FDI vào khu vực Trung và
Đông Âu tiếp tục ổn định ở mức 27 tỷ USD và tăng đôi chút ở Châu Phi. Song
nếu xét về tổng thể, tỉ phần vốn FDI mà các nớc đang phát triển nhận đợc
trong năm nay lại tăng lên đến 30%, cao hơn cả tỉ lệ mà các nớc này tiếp nhận
đợc vào năm 98 (27%).
Bảng 2: 10 địa chỉ thu hút vốn FDI hàng đầu trên thế giới
(giai đoạn 2001 - 2005)
STT Lợng FDI tiếp nhận trung
bình mỗi năm (tỷ USD)

Tỷ trọng trong tổng l-
ợng FDI thế giới (%)
1 Mỹ 236,2 26,6
2 Anh 82,5 9,3
3 Đức 68,9 7,8
4 Trung Quốc 57,6 6,5
5 Pháp 41,8 4,7
6 Hà Lan 36,1 4,1
7 Bỉ 30,2 3,4
8 Canada 29,6 3,3
9 Hồng Công 20,5 2,3
10 Brazil 18,8 2,1
Theo đánh giá của IMF và WB, trong thế giới trung hạn từ 5 - 10 năm tới,
các nớc công nghiệp phát triển vẫn sẽ là những địa chỉ chủ yếu thu hút FDI
của thế giới. Các nớc đang phát triển khi có thể làm thay đổi đợc tỷ lệ tiếp
nhận do hạn chế nhiều mặt cả về khả năng tiếp nhận vốn, lẫn cơ chế trì trệ,
chậm đổi mới của các nớc này. EU, Mỹ, Canada và Nhật Bản vẫn là lực hút
(khoảng 71%) và lực đẩy chỉ (khoảng 82%) của FDI thế giới.
Một số yếu tố tác động đến FDI trên thế giới hiện nay đó là:
Thứ nhất: Tình hình chính trị trên toàn cầu, đặc biệt là tại các nớc lớn nh
Mỹ, điển hình là vụ tấn công khủng bố vào các trung tâm kinh tế và quân sự
của Mỹ ngày 11/9/2001, xung đột giữa ấn Độ và Pakistan đã ảnh hởng mạnh
đến lợng vốn FDI trên thế giới do các nhà đầu t lo ngại cho những đồng vốn
mình bỏ ra khi rủi ro là rất lớn.
Thứ hai: Các cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo dự báo của VN CTAD, nguồn vốn vào khu vực Nam Mỹ năm 2002 sẽ
giảm 10 - 15%, còn khoảng 70 tỷ USD.
Thứ ba: Các chính sách u đãi cho các nhà đầu t, thúc đẩy đầu t của các n-
ớc, các khu vực sẽ tác động lớn đến cơ cấu vốn FDI.
Mục II: Thực trạng FDI tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay.

Hiện nay xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế đang diễn ra khắp
trên toàn thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung
đó. Ngày nay có nhiều các Công ty, tổ chức quốc tế đầu t vào Việt Nam và
hiện nay nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu đợc của nền
kinh tế. Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI
Theo bộ kế hoạch và đầu t tính đến 20/5/2002, cả nớc đã cấp giấy phép
cho 209 dự án có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài với tổng vốn tăng ký 393,8 triệu
USD, giảm 26,1% so với cùng kỳ năm 2001. Trong khi năm 2001 FDI đã có
dấu hiệu phục hồi. Tổng số vốn đăng ký mới 2.436 triệu USD, tăng 22,6% so
với năm 2000. Nếu tính cả 500 triệu USD tăng vốn của các dự án cũ. đợc coi
nh đã ký mới, thì tổng số vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đợc thu hút trong năm
2001 là 3.116 triệu USD, tăng 20% so với năm 2000. Trong bối cảnh cạnh
tranh thu hút đầu t trên thế giới hết sức gay gắt và môi trờng đầu t của Việt
Nam còn nhiều hạn chế, việc thu hút đợc một lợng vốn cao hơn 2 năm trớc là
kết quả phản ánh đợc tác động tích cực của các giải pháp nhằm tạo thuận lợi
tối đa cho các nhà đầu t.
Qua các số liệu thực tế về hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu t vào
Việt Nam trong những năm qua tập trung chủ yếu vào những ngành để thu lợi
nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trờng tiêu thụ trong nớc lớn và
những ngành trong nớc có tiềm năng nh ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành dệt
da, may mặc, ngành lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị điện tử viễn thông, sắt thép,
xi măng, khách sạn, văn phòng cho thuê. Bên cạnh đó, cũng có những nhà đầu
t công nghệ cao, những nhà đầu t lớn với mục tiêu vừa chiếm lĩnh thị trờng
trong nớc vừa thậm nhập thị trờng trong khu vực nên giai đoạn đầu họ chỉ kinh
doanh thăm dò để chờ nắm bắt cơ hội trong tơng lai. Nhìn chung, khu vực có
vốn đầu t nớc ngoài có nhiều tiềm năng trong các ngành khai thác và sản xuất
hàng tiêu dùng chất lợng cao và làm hàng xuất khẩu.
Về số dự án và số vốn đầu t:
Kể từ khi ban hành luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đến nay cả nớc đã
thu hút đợc hơn 3.355 dự án FDI với tổng vốn đầu t hơn 40 tỷ USD, vốn thực

hiện 18,328 tỷ USD, đạt tỷ lệ 45,82% so với tổng vốn đăng ký. Đây là một tỷ
lệ khá cao so với các nớc trong khu vực, Trung Quốc 31%, Inđônêxia 44%, ấn
Độ 18%.
Tuy nhiên, nhịp độ thu hút đầu t nớc ngoài vào Việt Nam trong thời gian
gần đây có chiều hớng giảm sút do nhiều yếu tố khách quan nh ảnh hởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và sự cạnh tranh thu hút vốn đầu t nớc
ngoài giữa các nớc càng trở nên gay gắt. Sự giảm sút trong thu hút đầu t nớc
ngoài còn có nguyên nhân do nhiều hạn chế của bản thân môi trờng đầu t tại
Việt Nam.
Một điều dễ nhận thấy, đó là đa số các dự án hoạt động theo hình thức
liên doanh chiếm tới hơn 80% tổng số dự án. Đây là một điểm mạnh của các
dự án đầu t nớc ngoài vì các đối tác nớc ngoài cũng mong muốn hợp tác với
Việt Nam. Số dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nớc ngoài tính đến hết
năm 2001 là 1560 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký là 11.193 triệu USD,
vố thực hiện 5176 triệu USD. Số dự án hoạt động theo hình thức hợp tác kinh
doanh rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10% tổng số dự án.
Sở dĩ nh vậy là do một số ngành đặc biệt nh thăm dò, khai thác dầu khí, b-
u chính viễn thông, Nhà nớc quy định phải làm theo hình thức hợp doanh.
Công nghiệp và xây dựng đã thực sự trở thành khu vực thu hút vốn chủ
yếu. Khi có tới 373 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu t 2.066 triệu USD
chiếm 84,8% tổng lợng vốn đầu t đăng ký. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp,
lợng vốn đầu t tăng tới 30%, trong đó có những dự án quan trọng, dự án BOT
nhà mát nhiệt điện khí Phú Mỹ 3 (412,8 triệu USD), dự án BOT nhà máy nhiệt
điện khí Phú Mỹ 2 (400 triệu USD), dự án Metrocash & Carry chế biến - kinh
doanh nông sản (120 triệu USD). Dự án Canon sản xuất và xuất khẩu máy in
công nghiệp (76,7 triệu USD), dự án Sumitomo điện tử và xuất khẩu (35 triệu
USD) Phần lớn vốn tăng thêm của những dự án đang hoạt động cũng tập
trung vào mở rộng. Các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có, nh Công ty giấy
Pouymen tăng 142,74 triệu USD, Công ty gốm Bạch Mã tăng thêm 20,25 triệu
USD, Công ty Formosa Textile tăng lên 12 triệu USD, Công ty thức ăn chăn

nuôi CP tăng thêm 12 triệu USD, liên doanh thép Vinausteel tăng thêm 10
triệu USD
Tiếp sau công nghiệp - xây dựng là nông, lâm nghiệp thuỷ sản đã thu hút
25,26 triệu USD, chiếm 1,6%.
Sang năm 2002, tính đến 20/5, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có 164 dự
án (đợc cấp phép) - 322,6 triệu USD (chiếm 78,5% về số dự án và 82% về vốn
đăng ký), lĩnh vực nông, lâm - thuỷ sản có 13 dự án - 27,2 triệu USD (chiếm
6,2% số dự án và 6,9% về vốn đăng ký).
Về đối tác đầu t:
Hiện nay đã có trên 800 Công ty và tập đoàn thuộc hơn 60 nớc và vùng
lãnh thổ đã đầu t vào Việt Nam với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tập
đoàn, các Công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ nh:
Sony, Toyota, Honda, Sanyo của Nhật Bản, Deawoo, LG, Samsung của Hàn
Quốc, Motorola, Ford của Mỹ, Chinfon, Vedan của Đài Loan Bên cạnh đó
cũng có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của nớc ngoài tham gia đầu t tại
Việt Nam. Điều này cũng thực sự cần thiết vì các doanh nghiệp này thờng rất
năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trờng, hoạt động rất
có hiệu quả, từ đó sẽ là cơ sở cho các tập đoàn, các Công ty lớn nhìn nhận
đúng hơn môi trờng đầu t, kích thích họ an tâm đầu t nhiều hơn nữa vào Việt
Nam.
5 nền kinh tế có vốn FDI lớn nhất ở Việt Nam
STT Nớc Tổng vốn đầu t (triệu USD)
1 Hà Lan 573,85
2 Pháp 442,889
3 Đài Loan 407
4 Singapore 270,78
5 Nhật 160,5
Một điều đáng mừng đó là trong những năm 2001 đã có thêm 4 nớc và
vùng lãnh thổ đầu t lần đầu tiên vào nớc ta. Đó là Thổ Nhĩ Kỳ (4 dự án với
50,7 triệu USD), Bungari (1 dự án với 4,39 triệu USD), Tark và Caicos Islands

(1 dự án với 200 nghìn USD) nâng số nớc và vùng lãnh thổ đầu t tại Việt Nam
hiện nay lên 60.
Xét theo địa bàn đầu t, trong năm 2001 đã có 38 tỉnh, thành phố thu hút
đợc vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Trích bảng: Vốn FDI vào các tỉnh
Tỉnh
Từ 1/1 đến 20 tháng 12 Tổng số đến 20/12/2001
Số dự
án
Tổng vốn đầu t
(tr USD)
Số dự
án
Tổng vốn đầu
t (tr USD)
Vốn thực
hiện (tr USD
1. TP. Hồ Chí Minh 162 533 1.042 10.198 4.833
2. Hà Nội 37 166 396 7.795 2.972
3. Đồng Nai 46 198 327 4.791 2.171
4. Bình Dơng 108 173 478 2.531 1.189
5. Bà Rịa - Vũng Tàu 4 835 70 1.867 419
6. Quảng Ngãi 1 4 6 1.332 283
7. Hải Phòng 11 13 98 1.282 975
8. Lâm Đồng 4 3,7 49 843 102
9. Hà Tây 1 1,83 27 413 198
10. Hải Dơng 7 24 29 505 130
11. Thanh Hoá 1 0,35 9 452 396
12. Kiên Giang 0 0 5 393 394
13. Đà Nẵng 4 10 41 204 152

14. Quảng Ninh 5 3 36 285 175
15. Khánh Hoà 7 15,5 36 332 369
16. Long An 5 13 42 310 192
17. Vĩnh Phúc 2 8 24 326 227
18. Nghệ An 1 1,3 10 248 48
19. Tây Ninh 9 5 40 207 114
20. Bắc Ninh 3 8 8 152 145
21. Thừa Thiên Huế 1 0,02 12 135 111
22. Phú Thọ 1 0,5 7 127 118
23. Cần Thơ 3 21 30 116 55
24. Quảng Nam 1 0,5 15 73 23
25. Hng Yên 3 10 10 77 95
26. Tiền Giang 1 30 7 101 71
27. Bình Thuận 7 7,1 22 94 28
Khác 26 109,2 167 2,414,7 2,747
Tổng số 461 2.194 3.043 37.603,7 18.632
Bao gồm cae các dự án gas và dầu khí ngoài khơi
Năm địa bàn có số vốn đầu t lớn nhất đó là Bà Rịa - Vũng Tàu (834,84
triệu USD), thành phố Hồ Chí Minh (527,58 triệu USD), Đồng Nai (437,69
triệu USD). Hoạt động FDI khởi sắc lại tại nhiều địa phơng. So với năm 2000,
số vốn mới thu hút trong năm 2001 ở Bà Rịa - Vũng Tàu cao gấp hơn 10 lần,
Hoà Bình gấp hơn 9 lần, Hà Nội, Long An gấp hơn 3 lần, Hải Phòng, Hng Yên
gấp đôi Một số địa phơng trớc đây cha hoặc sau mấy năm cha thu hút thêm
đợc dự án mới nào thì đến năm nay đã thu hút đợc hoặc gia tăng, nh Phú Yên,
Hải Dơng, Quảng Bình, Bắc Giang, Ninh Thuận, Hà Tây, Hà Nam, Yên Bái
Kết quả của năm 2001 còn thể hiện ở số vốn FDI đợc thực hiện, theo ớc
tính đạt 2.300 triệu USD, cao hơn 3 năm trớc đó, trong đó từ nớc ngoài đạt
2.100 triệu USD từ trong nớc đạt 200 triệu USD. Doanh thu của khu vực này -
ớc đạt 7.400 triệu USD, tăng khoảng 20%. Kim nghạch xuất khẩu đạt 3.573
triệu USD, tăng 8%, nếu kể cả dầu thô đạt 6.748 triệu USD, thì GDP do khu

vực này tạo ra chiếm khoảng 13,5% cả nớc. Khu vực công nghiệp có vốn FDI
tăng 12,1%, trong đó không kể dầu khí tăng 15,7% và chiếm 35,4% trong tổng
giá trị sản xuất công nghiệp của cả nớc. Tổng số lao động trực tiếp làm việc ở
khu vực này có khoảng 350 nghìn ngời.
Tuy nhiên, hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài năm 2001, cũng nh từ 1988
đến nay còn một số hạn chế, bất cập
So với số vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, số vốn thực hiện mới
đạt 56,3% còn tới 16,7 tỷ USD cha thực hiện. Trong tổng số 3000 dự án còn
hiệu lực mới có 1.393 dự án đi vào sản xuất kinh doanh với tổng số vốn đăng
ký 20,48 tỷ USD có 783 dự án đang xây dựng cơ bản, với tổng số vốn đăng ký
11,17 tỷ USD, còn 780 dự án cha triển khai, với tổng số vốn đăng ký khoảng
trên 6 tỷ USD.
Tỷ lệ xuất khẩu so với doanh thu năm 2001 mới đạt 48,3%, tính chung 11
năm mới đạt 46,2%. Tỷ lệ doanh thu tiêu thụ trong nớc còn khá cao, thậm chí
có dự án chỉ nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng tiêu thụ nôi địa.
Trình độ công nghệ của khu vực doanh nghiệp FDI tuy cao hơn khu vực
doanh nghiệp vốn trong nớc, nhng nhìn chung cha cao, thậm chí còn sử dụng
máy móc thiết bị công nghệ cũ lạc hậu so với trình độ trung bình của thế giới,
nên sản phẩm làm ra khó tiêu thụ.
Về địa bàn FDI hiện đang tập trung chủ yếu vào các vùng kinh tế động
lực Đông Nam Bộ, Bắc Bộ (tính đến nay, thành phố Hồ Chí Minh có 10.713,3
triệu USD, Đồng Nai 3.987,5 triệu USD, Bà Rịa Vũng Tàu 3.386,2 triệu USD,
Bình Dơng, Bình Phớc 2.184,2 triệu USD, tính chung vùng động lực Đông
Nam Bộ thu hút 20.271,12 triệu USD, chiếm 53,1% tổng số vốn đăng ký còn
hiệu lực của cả nớc, Hà nội có 7.961,9 triệu USD, Hải Phòng 1.523,3 triệu
USD, Quảng Ninh 881,2 triệu USD, Hải Dơng + Hng Yên 638,1 triệu USD,
tính chung cả 2 vùng động lực Bắc Bộ 11.045,5 triệu USD, chiếm 28,8%, tính
chung cả 2 vùng động lực là 31.275,7 triệu USD chiếm 81,9%). Tất cả các
vùng, các tỉnh, thành phố còn lại chỉ có 6.901 triệu USD, chiếm 18,1%. Hiện
có 3 tỉnh cha thu hút đợc dự án nào là Cao Bằng, Bắc Cạn, Kon Tum.

Mục tiêu của kế hoạch 5 năm đề ra cho khu vực FDI là vốn đăng ký mới
đạt khoảng 12 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 11 tỷ USD, đến năm 2005 khu
vực này đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và 10%
tổng thu ngân sách cả nớc (không kể dầu khí). Đây là mục tiêu không dễ đạt đ-
ợc, nếu không khắc phục những hạn chế, bất cập về sự đồng bộ của pháp luật,
hiệu quả, hiệu lực của công tác điều hành, nhất là một số chế độ chính sách
cần theo kịp những đòi hỏi của thực tiễn, việc công bố quy hoạch chi tiết từng
ngành, từng địa phơng, đặc biệt là giải quyết ách tắc trong triển khai thực hiện
nh vớng mắc về đền bù và giải phóng mặt bằng Cần rà soát lại các văn bản,
quy định có liên quan đến việc hạn chế đầu t nớc ngoài nh lĩnh vực cấp phép
đầu t có điều kiện, lĩnh vực yêu cầu phải xuất khẩu theo một tỷ lệ nhất định,
các lĩnh vực mới cho phép làm thí điểm nh kinh doanh siêu thị nhà ở, vui chơi
có thởng, đua ngựa, casino, bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài. Tạm dừng cấp
phép đối với một số lĩnh vực nh cán thép xây dựng, xi măng, xây dựng nhà
máy nớc theo hình thức BOT, chế biến bột mì, rợu bia, nớc giải khát không
dùng nguyên liệu hoa quả trong nớc; nghiên cứu mở rộng các lĩnh vực thơng
mại, dịch vụ, du lịch cho phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thực trạng hoạt động thu hút vốn đầu t (FDI) của Việt Nam đã đợc trình
bày một cách tơng đối đầy đủ, tuy nhiên, một điều đáng phải bàn đến đó là sự
rủi ro đối với các dự án FDI tại Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến một dự án FDI có thể bị ngừng
hoạt động, chuyển đổi hình thức đầu t hay giải thể trớc thời hạn. Tất nhiên có
cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, do vậy chúng ta cần tìm hiểu
rõ vấn đề này nhằm khắc phục tối đa những hạn chế.
Thứ nhất: Các rủi ro ở mức độ thấp làm cho các dự án FDI phải tạm
ngừng triển khai.
So với các dự án bị giải thể trớc thời hạn thì tỉ lệ các dự án phải tạm
ngừng hoạt động ít hơn chỉ chiếm 1,64% số dự án và 3,03% vốn đăng ký với
1.102 triệu USD.

Các dự án tạm dừng hoạt động chủ yếu là tập trung vào giai đoạn khủng
hoản tài chính tiền tệ Châu á từ tháng 7 năm 1997. Luồng vốn vào Việt Nam
từ các nớc Châu á hiện chiếm tới 70% vốn đăng ký, trong đó riêng các nớc
ASEAN đã chiếm tới 24,8%. Khủng hoảng tài chính tiền tệ đã tạo tâm lý lo
ngại đối với các nhà đầu t khi quyết định đầu t vào khu vực Đông Nam á nói
chung và Việt Nam nói riêng. Phần lớn các doanh nghiệp FDI phải tạm ngừng
hoạt động do hầu hết các nớc trong khu vực đều phá giá đồng tiền của mình
nên đồng Việt Nam trở nên tơng đối đắt so với các đồng tiền khác, do vậy, khả
năng cạnh tranh của hàng hoá bị giảm sút. Khủng hoảng kinh tế còn gây cho
nhà đầu t những khó khăn về nguồn vốn, thị trờng tiêu thụ sản phẩm, buộc các
Công ty phải củng cố và bảo tồn hoạt động hiện có của mình, thắt chặt chi
tiêu, hạn chế đầu t. Mặt khác, tổ chức IMF ràng buộc không cho chuyển tiền
ra nớc ngoài. Các ngân hàng kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho vay vốn đầu t.
Các biến động kể trên đã làm cho số lợng các dự án tạm dừng triển khai trong
giai đoạn vừa qua, tập trung vào ngành dịch vụ (chiếm 17,4% vốn đăng ký và
4,08% số dự án), sau đó đến các dự án kinh doanh bất động sản nh khách sạn,
văn phòng cho thuê, xây dựng khu đô thị, trung tâm thơng mại. Trong ngành
công nghiệp nhẹ chỉ có 12 dự án (chiếm 1,7%) chủ yếu là những ngành phụ
thuộc nhiều vào sự biến động của thị trờng, vào việc cung cấp nguyên vật liệu,
vào sự biến động tỷ giá của đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ (nh các
dự án hàng dệt may, giầy dép, sản xuất hàng điện tử). Để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp có vốn FDI, chính phủ Việt Nam đã có văn bản cho các dự án FDI tạm
dừng triển khai có thời hạn (từ 1 - 2 năm, các dự án lớn có thể gia hạn thêm),
nhằm giúp nhà đầu t vợt qua khó khăn tạm thời.
Thứ hai: Các rủi ro ở mức độ trung bình làm cho các dự án phải chuyển
đổi hình thức đầu t so với cam kết ban đầu
Những năm qua, đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam chủ yếu hoạt động
theo hình thức liên doanh, tuy nhiên hình thức 100% vốn nớc ngoài đang có xu
hớng tăng lên. Trên thực tế, hình thức liên doanh bộc lộ rất nhiều hạn hẹp, chỉ
bằng khoảng 10% vốn đầu t của các liên doanh, một số đối tác cha thực sự có

thiện chí làm ăn tại Việt Nam. Mặt khác, giữa các bên trong liên doanh còn
nảy sinh mâu thuẫn do sự bất đồng về hàng loạt các vấn đề nh chiến lợc kinh
doanh, phơng thức quản lý và điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết đoán
công trình, từ đó ảnh hởng đến việc triển khai dự án và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự đổ
vỡ của các dự án FDI. Chính vì vậy, gầy đây Nhà nớc Việt Nam đã cho phép
các nhà đầu t nớc ngoài chuyển sang hình thức 100% vốn nớc ngoài trong một
số lĩnh vực mà trớc đây ta chỉ cho phép đầu t theo hình thức liên doanh hay
hợp đồng hợp tác kinh doanh. Một số doanh nghiệp liên doanh đợc chấp nhận
chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài, thậm chí thành doanh nghiệp
100% vốn của Việt Nam.
Nhìn chung, sau khi chuyển đổi hình thức đầu t, các doanh nghiệp 100%
vốn nớc ngoài đã nhanh chóng tổ chức lại bộ máy quản lý và tổ chức lại sản
xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp giảm dần tình trạng lỗ vốn và bắt đầu
làm ăn có lãi. Các đối tác Việt Nam bảo toàn đợc vốn, rút vốn ra để đầu t các
dự án khác. Các nhà đầu t và d luận hoan ngênh việc Việt Nam cho phép các
dự án FDI chuyển hình thức đầu t nh vừa qua và coi đó là tín hiệu tốt trng việc
cải thiện môi trờng đầu t tại Việt Nam.
Thứ ba: Các rủi ro ở mức độ cao làm cho các dự án bị giải thể trớc thời
hạn.
Tính đến 31/12/2000 đã có 642 dự án bị giải thể trớc thời hạn, với vốn
đăng ký bị giải thể là 8.111 triệu USD (chiếm 18% vốn đầu t đăng ký), trong
đó có 2.131 triệu USD đã đợc thực hiện (chiếm 26% vốn bị giải thể). Tình hình
giải thể các dự án FDI đợc thể hiện:
So với các lĩnh vực khác, ngành công nghiệp và xây dựng có nhiều dự án
giải thể trớc thời hạn nhất, với 323 dự án (chiếm 44% số dự án bị giải thể), với
2.886 triệu USD vốn đầu t (chiếm 36% tổng vốn đầu t).
Trong số này, tỷ trọng lớn nhất về vốn đầu t giải thể phải kể đến các dự án
thăm dò và khai thác dầu khí (chiếm 47%). Bên cạnh đó, còn có một số lĩnh
vực có số dự án bị giải thể trớc thời hạn lớn nh công nghiệp nặng, công nghiệp

hoá chất, công nghiệp dệt may và dợc phẩm.
Trong ngành xây dựng có 55 dự án bị giải thể trớc thời hạn (chiếm 8,56%
số dự án đợc cấp phép). Các dự án trong ngành xây dựng triển khai chậm, đặc
biệt là các dự án xi măng và sản xuất sắt thép.
Trong nông - lâm, ng nghiệp, tổng số dự án đợc cấp phép đầu t là 347 dự
án, trong đó số còn hiệu lực đạt 197 dự án, số dự án giải thể là 150 dự án
(chiếm 43,2%) với tổng vốn đầu t đạt 797,384 triệu USD (chiếm 9,8%). Nhìn
chung, các dự án trong lĩnh vực này triển khai còn chậm, tỷ lệ các dự án giải
thể trớc thời gian cao hơn các nghành khác (trên 30% so với mức trung bình
chung là 20%).
Lĩnh vực dịch vụ đã thu hút 636 dự án, trong đó có 169 dự án bị giải thể
trớc thời gian (chiếm 26,5%), tổng vốn đầu t là 4418 triệu USD (chiếm
54,6%). Nhìn chung, đầu t trực tiếp nớc ngoài vào lĩnh vực dịch vụ đã góp
phần khai thác đợc những thế mạnh của lĩnh vực này nhng lại cha hấp dẫn các
nhà đầu t nớc ngoài bởi lẽ mức độ rủi ro trong ngành này cũng khá cao.
Theo hình thức đầu t: tỷ lệ các dự án FDI bị giải thể là các doanh nghiệp
liên doanh (chiếm 69% về dự án và 68% về vốn đầu t). Theo tính toán sơ bộ,
tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký của dự án liên doanh chỉ đạt 11,6%,
trong khi có dự án 100% vốn nớc ngoài đạt 26,7%. Tỷ lệ giải thể các liên
doanh lên tới 73% số dự án và 69% tổng vốn đăng ký trong khi các doanh
nghiệp 100% vốn nớc ngoài chỉ có tỷ lệ giải thể 17% dự án và 8% vốn đăng
ký.
Phần lớn các dự án đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam có đối tác là
Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản chiếm 65% số dự án và 57% vốn đầu t. Trong
khối ASEAN, chỉ có Singapore, Malaysia và Thái Lan là có dự án đầu t ở Việt
Nam với 575 dự án (chiếm 21%) và vốn đăng ký đạt 8.868 tỷ USD (chiếm
24,4%). Phần lớn đầu t trực tiếp nớc ngoài trong thời gian gần đây tại Việt
Nam là từ các nớc trong khu vực (88% dự án và 81% vốn đăng ký).
Trên đây là thực trạng chung về hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài tại
Việt Nam, qua đó, có thể thấy đợc những khó khăn và thách thức nh sau:

Thứ nhất: Một số hạn chế:
Nhiều dự án đầu t trực tiếp vào Việt Nam hoạt động không có hiệu quả.
Trong 9 tháng đầu năm 2001, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải
quyết định giải thể 40 dự án với tổng vốn đầu t đăng ký là 765 triệu USD. Dự
báo đến hết năm 2002, vẫn còn một số dự án phải giải thể trớc thời hạn, tổng
số dự án giải thể trong năm nay có thể có số vốn lên đến 1 tỷ USD.
Các dự án này tập trung vào khu vực sản xuất vật liệu xây dựng và dịch vụ
khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê.
Trong số các dự án bị giải thể sớm so với thời hạn nói trên có không ít dự
án mới đợc cấp phép vào năm 1999 và năm 2000. Nhiều chủ dự án không có
đủ vốn nh đăng ký. Một số chủ dự án đã kéo dài thời hạn đầu t vốn và giải
ngân do chính sách của ta u đãi và hấp dẫn, họ đã đăng ký đầu t trớc sau đó
mới thu xếp vốn.
Theo một số nhà kinh tế, thì có những chủ đầu t đăng ký, xin đầu t sau đó
bán lại dự án để ăn lãi chênh lệch. Một số dự án đợc cấp đất sau nhiều năm nh-
ng vấn đề đất hoang hoá mà ta không kịp thời xử lý theo pháp luật Việt Nam
nh Trung tâm thơng mại Hà nội, khách sạn Hà nội nằm bên hồ Hoàn Kiếm.
Hầu hết các dự án có vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam cha thể hiện việc
các nhà đầu t mang công nghệ mới, hiện đại của thế giới vào Việt Nam. Ngoài
việc họ đa vào nớc ta công nghệ điện tử có tính thời đại nhng hàng hoá của các
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài này sản xuất ra vẫn kém tính cạnh tranh
so với Công ty mẹ của họ. Ngoài ra, những dự án chúng ta rất mong mỏi nh cơ
khí chế tạo, công nghiệp vật liệu, công nghệ kỹ thuật cao thì đến nay vẫn cha
vào Việt Nam. Ngay một số dự án ta vừa u đãi trên chính sách, vừa u đãi thực
tế nh công nghiệp ô tô, công nghiệp xe máy cũng chỉ ở trình độ lắp ráp. Hầu
hết các phụ tùng, phụ kiện đòi hỏi sản xuất bằng công nghệ cao thì đến đợc
chế tạo ở nớc khác rồi đa vào Việt Nam để lắp ráp. Lợi dụng sự u đãi, khuyến
khích đầu t của nớc ta, nhiều nhà đầu t đa vào Việt Nam các công nghệ thiết bị
không đồng bộ. Sự không đồng bộ thể hiện ở nhiều mặt.
Lĩnh vực mà nhiều ngời nhìn thấy rõ nhất đó là công nghệ xử lý chất thải

công nghiệp. Nhiều nhà đầu t chỉ tập trung vốn cho sản xuất, trong khi lại đầu
t nhỏ giọt cho bảo vệ môi trờng. Một thực tế đã xảy ra là khu vực tập trung
nhiều nhà đầu t có vốn đầu t nớc ngoài thì khu vực đó môi trờng suy thoái,
nhất là môi trờng nớc. Sông Đồng Nai đoạn chảy qua Biên Hoà, Bình Dơng và
Sông Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu là những minh chứng. Để khôi phục lại môi
trờng chắc chắn chúng ta phải đầu t một khoản tiền khổng lồ cha tính trớc đợc
và khi có tiền nhng cha chắc khôi phục lại đợc môi trờng.
Thêm vào đó, nhiều dự án có vốn đầu t nớc ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh
không lành mạnh đối với các doanh nghiệp Việt Nam theo cách giảm tỉ lệ
hàng xuất khẩu để tranh giành thị trờng nội địa Việt Nam. Mặt khác, một số
nhà đầu t mặc dù nhận đợc sự u đãi và thân thiện của Việt Nam vẫn dùng các
thủ pháp chia sẻ rủi ro với bên Việt Nam trong liên doanh vào thời kỳ đầu, khi
giành đợc thị trờng và ổn định sản xuất thì biến doanh nghiệp liên doanh thành
doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài bán ra thị trờng các loại hàng hoá
rất đắt so với nớc sở tại và so với các nớc lân cận trong khi chính chúng ta vẫn
tạo ra các hàng rào bảo hộ cho các loại hàng hoá ấy. Thể hiện rõ nhất là các dự
án lắp ráp ô tô, xe gắn máy. Theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế, giá
xe ô tô do các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài bán tại Việt Nam cao bằng
163% giá xe ô tô tại Mỹ, giá xe máy cao hơn các nớc trong khu vực và Đài
Loan từ 600 - 1000 USD/chiếc. Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
không xuất khẩu hàng hoá tạo ra sự khủng hoảng thừa về hàng hoá, nhất là vật
liệu xây dựng.
Thứ hai: Cơ hội và thách thức.
Trong những năm qua, Việt Nam đã ký kết hiệp định song phơng về
khuyến khích và bảo hộ đầu t với: 41 nớc và vùng lãnh thổ, đã tham gia công -
ớc về bảo đảm đầu t đa biên (MGA) và hiệp định khung về khu vực đầu t
ASEAN, đặc biệt, với việc ký kết hiệp định thơng mại với Hoa Kỳ vào tháng 7
năm 2000. Việt Nam đã cam kết thực hiện tiêu chuẩn quốc tế về đầu t ở phạm
vi và mức độ cao nhất so với các điều ớc trớc đó.

Theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu t, việc Mỹ thông qua hiệp định, n-
ớc ta có điều kiện tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm tạo
dựng một môi trờng đầu t có tính hấp dẫn và cạnh tranh cao so với các nớc
trong khu vực. Hiệp định tạo cơ sở để Việt Nam phát triển một nền kinh tế
lành mạnh có cạnh tranh, do đòi hỏi của Hiệp định là xoá bỏ các phân biệt đối
xử có lợi cho kinh tế quốc doanh và tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế. Việc các doanh nghiệp Mỹ và các nớc khác đầu t vào các ngành
kinh tế trong nớc sẽ tạo cạnh tranh, giảm giá thành, có lợi cho ngời tiêu dùng
và giúp Việt Nam có cơ hội phát triển, nắm thông tin, mở rộng thị trờng ra nớc
ngoài. Nó cũng giúp làm trong sạch thị trờng tài chính, tín dụng của Việt Nam,
đồng thời buộc các doanh nghiệp trong nớc phải nỗ lực đầu t, nâng cao năng
lực sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, đổi
mới phơng thức quản lý
Khi hiệp định chính thức có hiệu lực, sẽ mở ra cho Việt Nam một thị tr-
ờng rộng lớn cho thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam vào Mỹ giảm xuống
bằng mức của các nớc đang phát triển khác. Thuế nhập khẩu nói chung từ 40 -
60% xuống còn 3%. Ngay lập tức, việc giảm thuế này có lợi cho ngành sản
xuất quần áo, giấy dép, đầu t nớc ngoài vào Việt Nam trong những ngành này
sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới, vì các nớc có vốn muốn tận dụng lợi thế
nhân công rẻ ở Việt Nam để sản xuất hàng hoá để xuất khẩu vào thị trờng Mỹ.
Cơ hội là vậy, nhng biến nó thành hiện thực không phải là điều đơn giản, bởi
nớc ta phải đối mặt với những thách thức to lớn.
Trớc hết, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu t nớc ngoài ở nớc ta còn
thiếu đồng bộ, cha đủ mức cụ thể, còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo.
Việc thực thi pháp luật, chính sách còn tuỳ tiện, không nhất quán Đây là
một thách thức to lớn trong quá trình thực thi các cam kết.
Thứ hai, bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo và thủ tục hành chính
quá phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu t nh đất
đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan Các tiêu chí cấp phép và từ chối cấp
phép còn thiếu minh bạch, cha rõ ràng.

Thứ ba, các quy định hiện hành về hình thức pháp lý của doanh nghiệp
đầu t nớc ngoài cha đa dạng và cha đáp ứng yêu cầu mở rộng các phơng thức
huy động vốn đầu t nớc ngoài. Hiện nay, nhà đầu t nớc ngoài cha đợc phép
thành lập Công ty cổ phần, Công ty hợp danh nh quy định tại luật doanh
nghiệp, luật đầu t nớc ngoài vẫn duy trì một số hạn chế nhất định, nh yêu cầu
về hình thức đầu t trong một số lĩnh vực, yêu cầu về xuất khẩu đối với các sản
phẩm, yêu cầu về nội địa hoá, phát triển nguồn nguyên liệu trong nớc.
Thứ t, hệ thống hạ giá thành từ nhiều năm nay, không đáp ứng yêu cầu
dành đối xử quốc gia cho nhà đầu t nớc ngoài, đồng thời làm giảm sức hấp dẫn
và áp lực cạnh tranh của môi trờng đầu t Việt Nam.
Thứ năm, việc đầu t phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực không
theo kịp với tốc độ tăng trởng kinh tế và các yêu cầu về mặt xã hội. Đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề quá thiếu cả về số l-
ợng và chất lợng, không đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.
Điều khó khăn thứ hai đó là sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI
giữa các nớc và các khu vực.
Kể từ 1995, kinh tế Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản bắt đầu phục hồi sau một
thời gian suy thoái, tình hình đó thúc đẩy các nhà đầu t trên thế giới dùng 70%
tổng vốn FDI đầu t cho những nớc công nghiệp phát triển (tổng FDI của cả thế
giới gần 300 tỉ USD). Phần vốn còn lại là các nớc đang phát triển phân chia và
cạnh tranh với nhau. Do đó, mức độ cạnh tranh thu hút FDI càng trở nên gay
gắt, nhất là khu vực Châu á. ở đây có những thị trờng mới nổi lên nh Trung
Quốc, ấn Độ và Inđônêxia. Hàng năm trong tổng số vốn đầu t nớc ngoài đổ
vào các nớc đang phát triển thì Trung Quốc tiếp nhận 1/2, ấn Độ sau những
năm gần đây tích cực cải cách kinh tế, môi trờng đầu t đợc cải thiện nên FDI
vào nớc này đang tăng nhanh. So với Việt Nam thì các đối thủ này rất mạnh,
xét về nhiều phơng diện, từ quy mô thị trờng đến trình độ công nghiệp hoá và
các cơ chế chính sách thu hút FDI.
Thứ ba: Vấn đề công nghệ
Các Công ty đa quốc gia luôn nắm bắt hầu hết các công nghệ hiện đại của

thế giới. Nếu FDI của họ vào nớc ta càng nhiều thì quá trình chuyển giao công
nghệ càng nhiều và càng nhanh. Nhng nó chỉ là khả năng. Tất cả các quốc gia
nhận FDI đều mong muốn nhận đợc công nghệ hiện đại. Nhng hiện đại đến
đâu lại tuỳ thuộc vào điều kiện của các nớc sở tại. Việt Nam cũng nh một số n-
ớc đang phát triển khác, cảm giác bao trùm là các nhà đầu t chỉ đa đến các
công nghệ cũ kỹ và lạc hậu. Điều này có lý do của nó vì:
1. Chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn là khuyến khích thay thế nhập
khẩu và bảo hộ thị trờng trong nớc. Thực tế cho thấy, nếu nh sản xuất để thay
thế nhập khẩu và để tiêu dùng trong nớc, lại đợc Nhà nớc bảo hộ thì không
phải nhập khẩu công nghệ hiện đại, đắt tiền bởi vì các nhà đầu t dùng nguyên
liệu và lao động rẻ, công nghệ lạc hậu vẫn sản xuất ra các mặt hàng có thể tiêu
thụ đợc. Nếu chuyển mạch sang thực hiện chính sách hớng về xuất khẩu,
khuyến khích đầu t vào các ngành xuất khẩu chắc chắn các nhà đầu t và các cơ
quan tiếp nhận đầu t sẽ phải viện trợ công nghệ tiên tiến hơn để nâng cao năng
lực cạnh tranh và tiêu thụ đợc sản phẩm trên thị trờng quốc tế. Việc chuyển từ
chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách hớng về xuất khẩu đòi hỏi
không chỉ phải đổi mới t duy về chính sách kinh tế mà cả công nghệ nhập
khẩu và cơ chế quản lý cũng phải thay đổi. Không thể đồng nhất việc bảo hộ
sản xuất của một số doanh nghiệp với việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nớc có
thể tăng thuế xuất nhập khẩu để bảo hộ sản xuất cho một số ngành nghề tiếp
tục hoạt động, đảm bảo việc làm cho hàng ngàn ngời nhng tại hại rất lớn mà
hàng triệu ngời tiêu dùng phải gánh chịu là mua hàng hoá đắt, chất lợng thấp.
Nếu nh thuế nhập khẩu giảm đi, hàng ngoại sẽ cạnh tranh với hàng nội, điều
đó buộc các doanh nghiệp sẽ phải đổi mới công nghệ theo hớng tiên tiến, hiện
đại.
2. Kinh nghiệm của các nớc Đông Nam á nh Nhật Bản và Hàn Quốc cho
thấy, muốn sử dụng công nghệ hiện đại phải có nguồn nhân lực đợc đào tạo
căn bản để tiếp thu và làm chủ các công nghệ đó. ở Nhật Bản, Hàn Quốc, việc
nhập khẩu công nghệ đợc suy xét rất kỹ. Thời kỳ đầu có thể phải nhập khẩu
thiết bị toàn bộ qua FDI, nhng đến giai đoạn sau họ nhập bản quyền, thiết bị lẻ

và cải tiến công nghệ đó, nâng cao tính năng và hiệu suất máy móc. Họ làm đ-
ợc nh vậy vì có đội ngũ công nhân lành nghề và các chuyên gia có trình độ
cao. Hiện tại ở Việt Nam do thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ lao động kỹ thuật,
nếu giả sử có thực hiện một cách tích cực chính sách hớng về xuất khẩu thì với
điều kiện nhân lực nh hiện nay việc nhập khẩu công nghệ thực sự tiên tiến và
hiện đại cha hẳn đã là hiệu quả. Đây là một khó khăn đòi hỏi phải sớm khắc
phục.
3. Cơ sở hạ tầng để phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam rất lạc
hậu. Đầu t cho khoa học công nghệ còn thấp, bên cạnh đó các ngành, các cấp
cũng cha thực quan tâm đến công tác này, đặc biệt là công tác nghiên cứ ứng
dụng triển khai.
Thứ ba: Vấn đề thị trờng.
Thị trờng trong nớc mới là 80 triệu dân nhng sức mua không lớn. Những
năm gần đây, nhiều mặt hàng sản xuất ra tiêu thụ rất khó hoặc bị ứ đọng, điển
hình là xi măng, sắt thép, hàng may mặc, đờng Một số mặt hàng nh ô tô, xe
máy mới đầu t những năm gần đây nhng tiêu thụ trong nớc rất chậm đã làm
cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp khó khăn.
Năm 1996, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 1,1 tỷ USD, phần lớn số hàng
nhập khẩu này là hàng trong nớc cha sản xuất đợc. Vì thế các Công ty nớc
ngoài đầu t tại Việt Nam đang nhằm vào sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam
phải nhập khẩu. Tuy nhiên, do nhiều Công ty của cả nớc ngoài và trong nớc
đều tập trung vào sản xuất ra các mặt hàng này nên cạnh tranh rất gay gắt và
mức tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp càng giảm, làm cho FDI giảm
theo.
Bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á xảy ra vào cuối năm
1997, nhiều nhà kinh doanh cho rằng, đó là điều kiện thuận lợi để Việt Nam
thu hút FDI. Theo họ, khi các nớc trong khu vực mất ổn định về tài chính, thì
đầu t ở Việt Nam sẽ ít rủi ro hơn và có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy cuộc
khủng hoảng tài chính không những gây thiệt hại nặng nề cho các nớc đó mà
còn làm cho dòng FDI vào Việt Nam và mức xuất khẩu của Việt Nam giảm

mạnh.
Ngoài những đặc điểm chính nêu trên thì một tồn tại không nhỏ là cơ cấu
đầu t ở Việt Nam một mặt vừa phân tán, manh múm, mặt khác lại quá tập
trung vào một số ngành, lĩnh vực và địa phơng. Không ít trờng hợp cùng một
mặt hàng nhng có nhiều dự án cùng đầu t sản xuất chẳng hạn nh xi măng, đ-
ờng Nhiều nhà đầu t nớc ngoài cho rằng cơ cấu đầu t ở Việt Nam hình nh
không theo quy luật của cơ chế thị trờng.
Hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam hiện có nhiều cơ hội và
không ít những thách thức và xét một cách toàn diện thì những gì mà chúng ta
đã làm cha phát huy hết đợc các lợi thế của chính mình. Có thể rút ra một số
nguyên nhân dẫn đến thực trạng về FDI tại Việt Nam nh sau:
Thứ nhất: Nguyên nhân xuất phát từ môi trờng đầu t: Môi trờng đầu t tại
Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, ví dụ nh sự thay đổi chính sách, sự bất đồng
về văn hoá, sự chấp hành pháp luật của nhân dân, thủ tục hành chính rờm rà
làm cho các nhà đầu t e ngại khi quyết định đầu t vào Việt Nam.
Mặt khác, trong khi các nớc trên thế giới và trong khu vực đang hết sức
nỗ lực trong việc cạnh tranh thu hút FDI thì ở Việt Nam công việc này tỏ ra
quá chậm chạp và cha có những chính sách thích hợp.
Thứ hai: Nguyên nhân từ phía chính phủ.
Nhà nớc ta cha có một chính sách, bộ luật hoàn chỉnh nhằm điều chỉnh
hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài. Sự thay đổi chính sách đầu t thông qua
việc sửa đổi nhiều lần luật đầu t mà lần sửa đổi căn bản nhất vào năm 1996 đã
làm cho các nhà đầu t e ngại và chờ đợi. Theo họ, việc thay đổi luật đầu t có
mặt khuyến khích các nhà đầu t nhng cũng có các điều khoản thắt chặt hơn
điều kiện đầu t. Hơn nữa, việc sửa đổi nhiều lần cũng thể hiện sự thiếu ổn định
về chính sách và pháp luật.
- Một điều nữa cần phải nhắc đến đó là thủ tục hành chính, việc phê
duyệt, thẩm định, cấp phép cho các dự án đầu t còn rờm rà, phức tạp, mặc dù
thời gian gần đây có nhiều chuyển biến nhng vẫn cha làm hài lòng các nhà đầu
t nớc ngoài.

Thứ ba: Nguyên nhân từ phía đối tác Việt Nam.
Sự khác nhau về cơ bản giữa văn hoá và lối sống của ngời Việt Nam và ngời n-
ớc ngoài là một trở ngại rất lớn trong việc liên doanh thực thi dự án đầu t. Một
điều nguy hiểm ở đây là tính bảo thủ, trì trệ và tác phong chậm chạp của ng-
ời Việt Nam. Điều này khiến cho các nhà đầu t rất lo ngại. Một điểm đáng lu ý
nữa đó là do nền kinh tế nớc ta còn nghèo nàn nên vốn góp trong các dự án là
nhỏ, đôi khi cha thể phát huy hết khả năng chỉ đạo của bên Việt Nam, dẫn đến
sự kém hiệu quả của nguồn vốn đầu t.
Trớc thực trạng cũng nh những khó khăn và thách thức mà Việt Nam đã
và đang đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đảnh
mạnh thu hút đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Mục III: Một số giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động FDI tại
Việt Nam trong thời gian tới.
A- Chính sách thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam
Tháng 12 năm 1987, quốc hội thông qua luật đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho các hoạt động đầu t trực tiếp nớc
ngoài tại nớc ta. Luật quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu t, về hình thức
đầu t, về quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, các nhà đầu t nớc ngoài và về cơ
quan Nhà nớc quản lý đầu t nớc ngoài. Luật đợc ban hành trong bối cảnh đất
nớc bớc vào thời kỳ đổi mới sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế trong nớc về
cơ bản vẫn đợc tổ chức quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, cha có
đạo luật kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trờng đợc thông qua và ban
hành.
Tháng 6/1990, luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc sửa đổi, bổ sung
15 trong 42 điều của luật năm 1987. Nội dung sửa đổi, bổ sung bao các vấn đề
về bên Việt Nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh; về xí nghiệp liên doanh (hội
đồng quản trị, ban giám đốc, miễn giảm thuế lợi tức ) và về việc các tổ chức
kinh tế t nhân Việt Nam đợc hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nớc
ngoài. Nh vậy, Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam lần thứ
nhất đã xác định rõ ràng, cụ thể hơn các khái niệm, nội dung, quan hệ trong

các doanh nghiệp liên doanh đồng thời xử lý một số vấn đề có tính nguyên tắc
là cho phép các tổ chức kinh tế t nhân Việt Nam đợc trực tiếp hợp tác đầu t với
nớc ngoài.
Trong luật sửa đổi thứ 2 luật đầu t nớc ngoài tháng 12 năm 1992, quốc
hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bên Việt Nam gồm 1
hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế; về khu chế
xuất, xí nghiệp chế xuất; hình thức BOT; về việc bên Việt Nam góp vốn pháp
định bằng các nguồn tài nguyên, về việc thoả thuận tăng dần vốn góp của các
bên Việt Nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh; về thời hạn
hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài; về việc mở tài khoản vốn vay
tại ngân hàng ở nớc ngoài; về nguyên tắc không hồi tố, quyền hạn của cơ quan
Nhà nớc quản lý đầu t nớc ngoài.
So với luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất, luật sửa đổi bổ sung lần thứ hai
đã sửa đổi bổ sung nhiều nội dung có chất cơ bản hơn. Đó là đã mở ra các hình
thức thu hút vốn đầu t và góp vốn đầu t mới; đã đa ra các biện pháp mới để bảo
vệ lợi ích của bên Việt Nam và Nhà nớc Việt Nam, đồng thời cũng có những
biện pháp để làm an tâm và tạo thuận lợi cho các nhà đầu t nớc ngoài.
Đại hội Đảng VIII, tháng 6/1996 đã đề ra những nhiệm vụ, mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Mục tiêu chiến lợc đến năm 2020
Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nớc công nghiệp. Quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá yêu cầu phải duy trì mức tăng trởng kinh tế cao và bền vững,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội cấp bách, phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời chú trọng phát triển khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn
nhiều khó khăn. Nh vậy, vốn đầu t trở thành yêu cầu hết sức cần thiết. Đảng và
Nhà nớc xác định vốn đầu t trong nớc là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là
quan trọng. Trớc mắt và lâu dài, chính sách của Nhà nớc luôn nhằm và việc
phát huy cao nhất khả năng huy động vốn từ bên ngoài.
Theo định hớng đó, ngày 12/11/1996 quốc hội đã thông qua Luật đầu t
nớc ngoài (sửa đổi) tại Việt Nam. Trong luật này có một số điểm cởi mở hơn
nhằm hu hút FDI tập trung vào các hớng u tiên cho các ngành xuất khẩu. Nuôi

trồng, chế biến các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản; các lĩnh vực sử dụng công
nghệ cao; phát triển của từng thời kỳ, chính phủ quy định những địa bàn
khuyến khích đầu t, danh mục dự án đầu t có điều kiện và những lĩnh vực
không cấp giấy phép đầu t.
Có thể nói luật đầu t năm 1996 là luật đầu t phục vụ cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy có một số quy định thay đổi, có thể gây thiệt thòi cho
một số nhà đầu nhng bù lại họ có hỗ trợ nhiều hơn trong các dự án mà chính
phủ đang khuyến khích u tiên đầu t.
Mặt khác, trong quá trình đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trờng theo
định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc. Quốc hội, chính phủ đã
ban hành nhiều văn bản luật, dới luật liên quan đến đầu t trực tiếp nớc ngoài
nh: Luật đất đai, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật doanh nghiệp, Luật khuyến
khích đầu t trong nớc.v.v Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997; Nghị định 36/CP
ngày 24/4/1997. Nghị định số 10/CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp
khuyến khích và đảm bảo đầu t nớc ngoài tại Việt Nam. Trớc thực trạng cũng
nh những khó khăn và thách thức mà Việt Nam đã và đang đối mặt đòi hỏi
chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam

×