Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư petec

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.28 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiền toàn cầu hoá của đời sống kinh tế thế giới hiện nay, cũng
như trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chiến lược kinh
tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất nhập khẩu là một mũi đột phá của sự nghiệp
công nghiệp hoá nước nhà.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong thời gian tới, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, cùng với những
kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực
tập cuối khoá tại Công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư PETEC – Bộ Thương
mại, em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu của Công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư PETEC”.
Mục đích của đề tài này là: từ việc nghiên cứu khẳng định tầm quan trọng
của hoạt động xuất nhập khẩu đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
nói chung và đối với sự phát triển của Công ty PETEC nói riêng, đề ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
nói chung và Công ty PETEC nói riêng trong thời gian tới.
Do khuôn khổ bài viết có hạn chế, nên không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để đề tài có chất lượng cao hơn.
1
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TRONG
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương
1.1. Khái niệm về hoạt động ngoại thương
Ngoại thương là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của
mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại ra đời từ rất sớm, ban đầu chỉ là sự trao đổi
rất đơn giản dưới hình thức hàng đổi hàng giữa các thương nhân của các quốc
gia khác nhau. Điều này thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những
người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động thương mại phát triển cùng với sự phát triển của văn minh loài


người. Từ hình thức trao đổi giản đơn đã phát triển hình thành hoạt động thương
mại tinh vi so với hoạt động thương mại trong nước thì hoạt động thương mại quốc
tế không chỉ bó hẹp trong nội bộ kinh tế mà còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia,
gắn liền với việc sử dụng đồng tiền quốc tế. Hoạt động buôn bán diễn ra bất chấp
sự bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quá, văn hoá xã hội,
Hoạt động ngoại thương có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
của một quốc gia kinh nghiệm cho thấy chưa có một nước nào có nền kinh tế
phát triển mà lại không dựa vào hoạt động ngoại thương. Một quốc gia cũng như
một cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập mà tồn tại và phát triển. Bằng khả
năng và nguồn lực của mình chúng ta không thể có tất cả những gì thật tốt. Đó
chính là sự hạn chế về nguồn lực buộc chúng ta phải tiến hành mở cửa hội nhập
với bên ngoài.
Ngoài ra, hoạt động thương mại còn làm tăng khả năng thương mại của
một quốc gia. Chúng ta đều biết rằng, do điều kiện tự nhiên và xã hội mà mỗi
quốc gia có những lợi thế riêng về tài nguyên thiên nhiên, về nhân lực, về vốn,
2
sự khác nhau này đã dẫn đến sự chênh lệch lớn trong chi phí sản xuất ra cùng
loại sản phẩm và đây chính là nguyên nhân dẫn đến hoạt động thương mại giữa
các nước với nhau theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Hơn thế ngoại thương
phát triển góp phần mở rộng thị trường, phát triển thị hiếu của nhân dân thông
qua việc trao đổi sản phẩm giữa các nước trên thế giới.
Qua phân tích trên ta có thể thấy, hoạt động ngoại thương là hoạt động trao
đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, lấy tiền tệ làm môi giới
theo nguyên tắc ngang giá, được thực hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá và dịch vụ. Trong đó hoạt động xuất khẩu được hiểu là việc mang
những hàng hoá, dịch vụ bán ra nước ngoài để thu hút tiền hay hàng hoá về, còn
hoạt động nhập khẩu là việc mang những hàng hoá và dịch vụ mua từ nước
ngoài về được trả bằng tiền hay hàng hoá trong nước.
Hoạt động ngoại thương so với hoạt động kinh doanh buôn bán trong nước
có những điểm khác biệt sau:

Một là, hoạt động ngoại thương là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài biên
giới quốc gia. Hàng hoá có thể di chuyển từ nước này qua nước khác nếu có nhu
cầu. Hoạt động ngoại thương chịu sự quản lý và giám sát của các đơn vị hải
quan, cửa khẩu của các quốc gia cùng tham gia kinh doanh.
Hai là, đối tượng tham gia vào hoạt động ngoại thương là những cá nhân,
tổ chức có quốc tịch khác nhau.
Ba là, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên.

1.2. Cơ sở của hoạt động ngoại thương
Ngày nay, hoạt động ngoại thương như là một yếu tố thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Tất cả các nước đều tham gia vào hoạt động ngoại thương và đều có
lợi. Nhưng tại sao tất cả các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có
lợi? Để xem xét vấn đề này chúng ta sẽ đi nghiên cứu các cơ sở lý luận của hoạt
3
động ngoại thương.
1.2.1. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của A.Smith thì một nước chỉ sản xuất
các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nước mình. Đây là cách
lý giải đơn giản nhất về nguyên nhân của hoạt động ngoại thương. Lợi thế tuyệt
đối của hoạt động ngoại thương là lợi ích thu được do sự chênh lệch về chi phí
sản xuất giữa các quốc gia sản xuất cùng một loại sản phẩm nào đó, khi đó nước
sản xuất có chi phí cao sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí thấp hơn.
Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có
chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên thị trường
quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí cao sẽ có được sản
phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại
lợi nhuận, người ta gọi điều này là sự bù đắp được được sự yếu kém về khả năng
sản xuất trong nước. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác
lợi thế tuyệt đối, vẫn còn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất
một số loại sản phẩm đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí có thể chấp nhận

được. Nguyên nhân dẫn đến tích luỹ thấp là do các nước đang phát triển còn
phải nhập khẩu máy móc thiết bị. Vì vậy mà các khoản tiết kiệm chưa thể trở
thành vốn đầu tư. Khi tiến hành nhập khẩu những máy móc thiết bị từ các nước
phát triển, các nước đang phát triển sẽ khắc phục được những yếu kém của mình
về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất cũng như những yếu kém về kiến thức
công nghệ.
1.2.2. Lợi thế tương đối của D.Ricacdo
Trong khi tiến hành hoạt động thương mại các quốc gia có thể được lợi từ
những khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới một sự dàn xế theo đó mỗi nước sẽ
làm những gì mà xét một cách tương đối nước đó làm tốt hơn. Theo lý thuyết
này, một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản
xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại
4
quốc tế để tạo ra lợi ích.
Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối chính là việc thực hiện cách
mạng hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất tương đối
thấp hơn so với các nước khác. Lợi thế tương đối cho phép bất kỳ nước nào
cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế để gia tăng thu nhập.
1.3. Cơ sở ngoại thương của Việt Nam
Luật Thương mại Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/1/1998) đã khẳng định:
Nhà nước thống nhất quản lý về ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu
hàng hoá với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng,
cùng có lợi theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá khuyến khích các thành
phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của
pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất
khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, hạn chế nhập khẩu
những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng yêu cầu,
bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Về cơ bản chính sách ngoại thương hiện nay của chúng ta đang thực hiện là
chính sách hướng ngoại tổng hợp, tức là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất sản

phẩm xuất khẩu đồng thời khuyến khích sản xuất các sản phẩm để thoả mãn nhu
cầu trong nước và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn
tích luỹ cho đất nước.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII tháng 6-96 đã nêu: “Đẩy mạnh
xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản
phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ,
nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần
5
nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản
xuất trong nước. Như vậy hoạt động xuất khẩu được coi là yếu tố quyết định của
hoạt động ngoại thương, là nhân quan trọng trong kinh tế đối ngoại.
Nội dung chính sách xuất khẩu của nước ta bao gồm những điểm sau đây:
- Một là, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu
xuất khẩu hàng hoá cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua nhật khẩu
tranh thủ thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới
nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước.
- Hai là, phấn đầu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất
khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, đa phương hoá thị trường xuất khẩu.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch giữa xuất khẩu
và nhập khẩu.
- Ba là, khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất sản phẩm hướng về xuất
khẩu.
- Bốn là, xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải hoạt động có hiệu quả, đồng thời
phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích
chung, trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ Nhà nước

phải có chính sách hỗ trợ thích đáng.
- Năm là, cơ cấu xuất khẩu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phải phù hợp với
điều kiện thị trường cạnh tranh. Đây là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất
khẩu vừa tăng nhanh xuất khẩu vừa chú trọng mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ
tăng tỷ trọng các sản phẩm có chứa hàm lượng kỹ thuật cao và sản phẩm chế
biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô là những phương hướng cơ bản để nâng
cao hiệu quả xuất khẩu.
6
- Sáu là, cơ cấu mặt hàng phải theo hướng đa dạng hoá phát huy tiềm năng
của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát huy được các lợi thế về lao động, con người,
tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nhờ tính độc đáo và giá thành
thấp.
2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đối với nền
kinh tế
2.1. Khái niệm về hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất
nhập khẩu không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Do đó, cùng với những lợi ích kinh tế đem lại khá
cao thì hoạt động xuất nhập khẩu cũng rất dễ dẫn đến những hiệu quả khó lường
hết vì nó phải đối mặt với toàn bộ các hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia
xuất nhập khẩu mà các hệ thống này có đặc điểm không giống nhau và rất khó có
thể khống chế được.
Xuất khẩu, đó là hoạt động bán những sản phẩm sản xuất trong nước ra
nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển
sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Nhập khẩu, đó là hoạt động mua những sản phẩm của nước ngoài về trong
nước, nhằm làm đa dạng hóa sản phẩm của thị trường nội địa, làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa trong và ngoài nước.

Hoạt động xuất nhập khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với việc mua bán một
sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa, vì hoạt động này diễn ra trong một thị
trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán có ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận
chuyển ra ngoài phạm vi quốc gia. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động
7
buôn bán, giao dịch quốc tế đều phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế.
2.2. Vai trò của xuất nhập khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế
Hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng
trưởng và phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Hoạt động xuất nhập khẩu
mang lại nguồn tài chính rất lớn cho đất nước. Chúng ta có thể tóm gọn lại vai
trò của xuất nhập khẩu đối với sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia qua
những điểm sau đây:
- Thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh chúng ta sẽ có khả
năng phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng tối đa và hiệu quả các nguồn lực có
điều kiện trao đổi kinh nghiệm cũng như tiếp cận được với các thành tựu khoa
học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đây chính là vấn đề mấu chốt của công
nghiệp hoá hiện đại hoá. Áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại trong các ngành
chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu sẽ tạo được những sản phẩm có chất lượng
cao mang tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khi đó sẽ có một nguồn lực
công nghiệp mới cho phép tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết
kiệm được chi phí lao động của xã hội.
- Tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động, từ đó kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, góp phần tạo ra những
biến chuyển tốt để giải quyết những vấn đề còn bức xúc trong xã hội.
- Tăng thu ngoại tệ tạo nguồn vốn cho đất nước và cả cho nhập khẩu phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đồng thời cải thiện cán cân
thanh toán, cán cân thương mại, tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước và
qua đó tăng khả năng nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị tiên tiến thay thế
dần cho những thiết bị lạc hậu còn đang sử dụng, để phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế của đất nước.

- Xuất nhập khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh thúc đẩy
doanh nghiệp cải tiến công nghệ để có khả năng sản xuất những sản phẩm, dịch
8
vụ có chất lượng cao, tạo ra năng lực sản xuất mới. Vì vậy, các chủ thể tham gia
xuất khẩu cần phải tăng cường theo dõi kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau để không bị
yếu thế trong cạnh tranh.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, nâng cao uy tín và vị
thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khi hoạt động xuất nhập khẩu xuất
phát từ nhu cầu thị trường thế giới nó sẽ đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở một số điểm sau:
+ Tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ làm cho sản xuất phát triển và
ổn định.
+ Mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất góp phần nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
+ Tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển đồng thời kéo theo các
ngành liên quan phát triển theo.
+ Thông qua xuất nhập khẩu, Việt Nam có thể tham gia vào thị trường cạnh
tranh thế giới. Do vậy các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện cơ cấu
sản phẩm để thích nghi với các yêu cầu đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường thế
giới.
+ Tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật hiện đại.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
2.3.1. Nhân tố khách quan
Công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều tồn tại từ phía
Nhà nước, đã làm hạn chế hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ của
các doanh nghiệp trong nước mà còn tác động đến hoạt động của các doanh
nghiệp nước ngoài. Cụ thể là một số yếu tố như sau :
9
Hệ thống văn bản pháp lý chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung
chung chưa rõ ràng, cụ thể là có một số quy định bất hợp lý hay không có tính

khả thi cho doanh nghiệp. Đặc biệt là sự thay đổi quá nhiều và quá nhanh của
những văn bản này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình.
Hệ thống thuế xuất nhập khẩu tuy đã cắt giảm nhưng vẫn còn cao đối với
một số mặt hàng. Các danh mục hàng hoá tính thuế nhiều khi chưa đầy đủ dẫn
đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế suất chưa hợp lý, còn có các hiện tượng
chồng chéo lên nhau. Chẳng hạn như cùng một mặt hàng vỏ đựng hàng hoá, có
thể có vỏ bằng nhựa, bằng cát tông nhưng trong danh mục hàng hóa không quy
định rõ loại vỏ nào, chỉ chung chung, đến khi khai báo hải quan lại bị xét hỏi và
bị cho rằng khai báo sai.
Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các
thủ tục này tuy đã có sự đơn giản hơn trước song vẫn mất nhiều thời gian, người
xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong thái độ quan liêu của các nhân
viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và không mấy thiện chí.
2.3.2. Nhân tố chủ quan
Quan trọng nhất vẫn là chất lượng và giá cả của sản phẩm xuất nhập khẩu.
Hàng hóa có chất lượng tốt, giá cả phù hợp, mẫu mã ưa nhìn, khả năng thích
nghi với thị trường cao, đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn chắc chắn sẽ được ưa
chuộng, qua đó hoạt dộng buôn bán xuất nhập khẩu sẽ được đẩy mạnh hơn.
Công tác nghiên cứu thị trường ảnh hưởng đến vấn đề thu hút bạn hàng,
các đơn đặt hàng sẽ chỉ ở mức nhỏ lẻ, không có giá trị lớn nếu như nghiên cứu
thị trường không tốt.
Công tác quảng bá sản phẩm: Công ty nên tham gia vào các hoạt động
nhằm giới thiệu sản phẩm như hội chợ, triển lãm qua đó sẽ đẩy sức tiêu thụ
hàng hoá của công ty lên cao hơn.
10
Nguồn nhân lực cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu
hàng hoá của công ty. Mặc dù hiện nay đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty
hầu hết đều có trình độ Đại học, năng động nhưng trong môi trường kinh doanh
quốc tế ngày nay luôn luôn biến động, vì vậy mà có nhiều người không theo kịp

được xu hướng này, họ làm việc theo những nguyên tắc cứng nhắc, họ có thừa
nhiệt tình song lại chậm chạp và quan liêu. Thực tế, xu hướng hiện nay thì
không còn thích hợp với cách thức làm việc như vậy mà đòi hỏi phải có sự linh
hoạt, năng động, sáng tạo và có khả năng dự báo, nắm bắt nhanh chóng những
thông tin về tình hình kinh tế thế giới. Chính vì vậy đã tạo nên cách nhìn nhận
khác nhau trong nội bộ công ty nên hiệu quả làm việc thực tế còn có nhiều bất
cập. Thêm vào đó, không phải cán bộ nào cũng đáp ứng được những yêu cầu cả
về chuyên môn ngiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hiện đại, cả về ngoại ngữ.
Do vậy đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến quá trình giao dịch, thực hiện hợp đồng
cũng như tăng khả năng tìm hiểu thị trường, khách hàng
11
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY THƯƠNG MẠI KỸ THUẬT VÀ ĐẦU TƯ PETEC
1. Giới thiệu tóm lược về Công ty PETEC
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Cách đây hơn mười năm vào tháng 10/1994, cùng với chủ trương sắp xếp
lại việc quản lý kinh doanh dầu thô của Nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu Thiết
bị Kỹ thuật Dầu khí (PETECHIM) trực thuộc Bộ Thương Mại đã được tách ra
thành hai công ty riêng biệt. Bộ phận chuyên kinh doanh về lĩnh vực Dầu khí
được chuyển giao cho Công ty Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam (Petro Vietnam)
quản lý và công ty mới cấu thành từ bộ phận này có tên gọi là công ty xuất nhập
khẩu Dầu khí (PETECHIM). Bộ phận còn lại được điều chỉnh về cơ cấu và chức
năng, đồng thời đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới tên mới là Công ty
Thương mại kỹ thuật và đầu tư (PETEC). Vậy là tuy Công ty PETEC chỉ mới
được thành lập cách đây hơn 10 năm song quá trình hình thành và phát triển
Công ty đã trải qua hai mươi nhăm năm trong đó có mười ba năm gắn bó với
những bước thăng trầm của công ty PETECHIM. Vì thế, sẽ thật thiếu sót khi tìm
hiểu về Công ty PETEC mà không đề cập đôi nét về Công ty PETECHIM tiền
thân.

Khi mới thành lập vào ngày 12/10/1981, Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị
Kỹ thuật Dầu khí (PETECHIM) vỏn vẹn chỉ có một vài cán bộ chủ chốt được
điều động từ Tổng Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị toàn bộ (TECHNO
IMPORT) ở Miền Bắc, không có trụ sở và không có một phương tiện làm việc.
Nhiệm vụ của Công ty được giao là nhập khẩu uỷ thác Thiết bị kỹ thuật, máy
móc, vật tư phục vụ cho hoạt động của Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt-Xô
(Vietsopetro). Không chịu bó tay, cán bộ nhân viên của Công ty đã từng bước
12
khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo để gây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
hoàn thành nhiệm vụ.
Khi Liên doanh Vietsopetro đi vào khai thác những tấn dầu thô đầu tiên
vào năm 1986, do PETECHIM có một đội ngũ cán bộ tài giỏi, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao, Công ty đã được giao thêm chức năng mới này, Công ty có
điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình sang lĩnh vực
xăng dầu, hiện nay là lĩnh vực kinh doanh chủ chốt của Công ty PETEC. Được
Bộ Thương mại cho phép, bắt đầu từ năm 1987, Công ty PETECHIM có thêm
chức năng nhập khẩu xăng dầu từ Liên Xô phục vụ nhu cầu trong nước. Vào
những năm 1991-1992, khi Liên Xô tan rã, việc cung ứng toàn bộ xăng dầu cho
nền Kinh tế quốc dân và tiêu dùng của nước ta gặp khó khăn lớn. Trước tình
hình đó, Công ty đã chủ động kiến nghị Nhà nước nhập xăng dầu từ các nước
khác và dần chuyển hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu theo cơ chế
thị trường, ổn định giá cả và góp phần bảo đảm cung cấp xăng dầu cho sản xuất
và sinh hoạt của Xã hội kể cả khi xảy ra chiến tranh vùng Vịnh. Được Nhà nước
chấp thuận phương án đó, tình hình cung ứng xăng dầu ở Việt Nam dần dần trở
lại bình thường. Đây quả là một đóng góp lớn của Công ty đối với đất nước,
đồng thời khẳng định sự năng động và hiệu quả của các cán bộ điều hành Công
ty, những con người luôn biết thích ứng và tìm ra giải pháp hữu hiệu trong mọi
tình huống.
Do tình hình thay đổi, đến tháng 9/1994, theo Quyết định của Chính Phủ,
Công ty PETECHIM đã bàn giao toàn bộ chức năng nhập khẩu ủy thác thiết bị

dầu khí và xuất khẩu ủy thác dầu thô cùng với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ kỹ sư
làm công tác xuất nhập khẩu dầu khí và cả tên gọi của đơn vị cho Tổng Công ty
dầu mỏ và khí đốt Việt Nam (Petro Vietnam). Phần còn lại được đổi tên thành
Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư (PETEC) thuộc quyền quản lý của Bộ
Thương mại với chức năng và nhiệm vụ: nhập khẩu và cung ứng xăng dầu, thiết
bị máy móc và nguyên vật liệu khác; xuất khẩu bao gồm cả hoạt động thu mua
13
và chế biến các hàng nông sản như gạo, cà phê và các sản phẩm khác; liên
doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước.
Mặc dù có thay đổi trong khâu sản xuất kinh doanh và cán bộ do đổi mới
chức năng nhiệm vụ, Công ty PETEC mới thành lập đã bằng mọi cách thích ứng
với cơ chế mới và tạo đà phát triển ở tầm cao hơn. Cho đến nay, Công ty đã hình
thành được một mạng lưới cung ứng xăng dầu tại các tỉnh từ Nam ra Bắc, mở
các chi nhánh tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Long
An, Cần Thơ; thành lập Xí nghiệp xăng dầu Cát Lái, xây dựng các hệ thống
cảng và kho dầu tại TP Hồ Chí Minh, kho dầu Đà Nẵng, kho cảng xăng dầu An
Hải (Hải Phòng), duy trì việc tái xuất xăng dầu sang Campuchia.
Ngoài kinh doanh xăng dầu, Công ty còn xuất khẩu cà phê, tổ chức xí
nghiệp thu mua chế biến gạo tại Thốt Nốt (Cần Thơ) và Long An, đầu tư vốn
vào Ngân hàng, Bảo hiểm, vận tải khách hàng, liên kết kinh tế với ngành dâu
tằm, đồng thời ứng vốn nhập khẩu ủy thác bông cho các nhà máy dệt, nhập khẩu
một số máy móc thiết bị và phụ tùng cho các ngành khác.
Do những thành tích đã đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
Công ty đã được Chính Phủ và Bộ Thương mại tặng nhiềi bằng khen, thư khen
có giá trị (cờ thưởng luân lưu dẫn đầu thi đua ngành Thương mại, huân chương
lao động hạng hai, và vinh dự hơn được Chính Phủ trao tặng đơn vị anh hùng
năm 2000 trong thời kỳ đổi mới). Hai mươi nhăm năm trôi qua với bao thăng
trầm, PETEC đã đứng vững và từng bước vươn lên chứng tỏ mình, góp phần
vào việc khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị
trường.

Tóm lược về Công ty PETEC
- Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư PETEC xuất thân từ Công ty
xuất nhập khẩu dầu khí (PETECHIM) là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc
Bộ Thương mại được thành lập theo quyết định số 1180-TM-TCCP 23/9/1994
của Bộ trưởng Bộ Thương mại.
14
- Tháng 10/1994 Công ty chính thức đi vào hoạt động với những chức
năng cụ thể như: nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị, bông, sắt thép, phân
bón phục vụ sản xuất; tái xuất xăng dầu, dầu nhờn và xuất khẩu hàng nông
sản: gạo, cà phê, tiêu chuyển hẳn hoạt động kinh doanh sang cơ chế thị trường.
- PETEC là một pháp nhân tự chủ về tài chính, thực hiện hạch toán kinh
tế độc lập, có tài khỏan tiền Việt Nam và ngoại tệ tại các Ngân hàng ở Việt Nam
và có con dấu theo qui định của Nhà nước.
- Tên gọi: Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư.
- Tên giao dịch quốc tế: PETEC Trading and investment corporation.
- Trụ sở chính: 194 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận3, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Các chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc Công ty:
1. Chi nhánh Hà Nội: tại 26 Tăng Bạt Hổ, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
2. Chi nhánh Hải Phòng: tại phường An Hải, quận An Hải, Hải Phòng.
3. Chi nhánh Đà Nẵng: tại 12 Lê Thánh Tôn, TP Đà Nẵng.
4. Chi nhánh Lâm Đồng: tại thị xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
5. Chi nhánh Cần Thơ: tại xã Hới Thuận, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
6. Chi nhánh Long An : tại thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
7. Chi nhánh Vũng Tầu : tại 70 Võ Thị Sáu, T.P Vũng Tàu.
8. Chi nhánh Mat-cơ-va (Công ty PETEC con).
9. Xí nghiệp xăng dầu Cát Lái T.P Hồ Chí Minh.
10. Xí nghiệp An Hải, Hải Phòng
11. Xí nghiệp thu mua chế biến cà phê Di Linh.
12. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Phú Định.

15
13. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Thố Nốt, Cần Thơ.
14. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Long An.
15. Kho xăng dầu Đà Nẵng.
16. Kho nông sản Phạm Thế Hiển.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty
1.2.1. Chức năng:
- Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy và thiết bị lẻ, các loại vật tư,
nguyên nhiên liệu kinh doanh, các loại sản phẩm dầu mỏ, khí đốt, hàng nông
sản(gạo,cà phê ) phân bón, thuốc trừ sâu, phương tiện vận tải, hàng tiêu dùng
thiết yếu và các mặt hàng khác do Công ty kinh doanh hoặc do liên doanh, liên
kết ở trong và ngoài nước tạo ra, đứợc Bộ Thương mại cho phép.
- Được nhận ủy thác xuất khẩu làm đại lý tiêu thụ, tái xuất hàng hóa, được
liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế ở trong và ngoài nước.
- Thực hiện các dịch vụ hợp tác đầu tư trong nước, nước ngoài và các dịch
vụ khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của Công ty theo quy định hiện
hành của Nhà nước.
1.2.2. Nhiệm vụ:
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các kế hoạch sản xuất kinh doanh
của Công ty phù hợp với quy chế hiện hành của Nhà nước.
- Tự tạo nguồn vốn, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó,
đảm bảo mở rộng đầu tư sản xuất, đổi mới trang thiết bị, bù đắp chi phí cân đối
xuất nhập, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý kinh tế, quản lý xuất nhập khẩu
và giao dịch đối ngoại của Nhà nước.
16
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong nước và nước
ngoài, thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng, tăng khối lượng hàng
xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế.
- Thực hiện tốt chính sách bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, không ngừng nâng

cao trình độ nghiệp vụ các mặt cho cán bộ công nhân viên trong Công ty, thực
hiện nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài sản, tài chính, lao động tiền lương do Công
ty quản lý.
- Làm tốt công tác bảo hộ an toàn lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi
trường, bảo vệ tài sản XHCN, bảo vệ an ninh quốc phòng.
1.2.3. Quyền hạn:
- Được đề xuất với Bộ Thương mại về việc xây dựng các chỉ tiêu kế
hoạch có liên quan đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Được vay vốn ở trong nước và nước ngoài phục vụ cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh của Công ty theo quy chế hiện hành của Nhà nước.
- Được chủ động giao dịch, kí kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế với
các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong phạm vi kinh doanh của Công ty.
- Được thu nhận, cung cấp thông tin kinh tế thị trường quốc tế.
- Được tham dự hội chợ triển lãm, quảng cáo thương mại ở trong nước và
ở nước ngoài thuộc phạm vi họat động kinh doanh của Công ty. Được cử cán bộ
của Công ty ra nước ngoài hoặc mời người nước ngoài vào Việt Nam để giao
dịch đàm phán kí kết các vấn đề thuộc phạm vi kinh doanh của Công ty và phải
phù hợp với quy định hiện hành của Nhà nước.
- Được quyết định các vấn đề về tổ chức bộ máy, nhân sự thuộc phạm vi
quản lý của Công ty theo đúng quy chế phân cấp của Nhà nước và của Bộ
Thương mại.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên, Công ty PETEC đã xác lập mối
quan hệ rất tốt với các bạn hàng trên cơ sỏ đôi bên cùng có lợi, từng bước khẳng
17
định uy tín và chỗ đững vững chắc trên thị trường bằng chính khả năng của
mình.
1.3. Cơ cấu tổ chức
Ban Giám đốc Công ty: Chức năng chính của Ban giám đốc là quản lý,
bao gồm: hoạch định, tổ chức, điều hành và kiểm tra. Ban Giám đốc có nhiệm
vụ phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty theo đúng đường lối pháp luật

của Nhà Nước, chăm lo mọi mặt đến đời sống cán bộ công nhân viên trong
Công ty.
* Giám đốc:
Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do Bộ Thương mại bổ nhiệm và
miễn nhiệm. Giám đốc Công ty tổ chức và điều hành Công ty theo chế độ thủ
trưởng và chịu trách nhiệm toàn diện trước Bộ Thương mại về mọi hoạt động
của Công ty phù hợp với qui chế phân cấp của Bộ Thương mại, đồng thời qui
định nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các đơn vị trực thuộc
Công ty phù hợp với qui định hiện hành của Nhà nước và cả Bộ Thương mại.
* Các phó Giám đốc:
Các phó Giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc, do Giám đốc chỉ
định và Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Mỗi phó Giám đốc Công ty được
phân công phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác cụ thể như sau:
- Phó Giám đốc I: trực tiếp chỉ đạo, điều hành công việc của bộ phận
kinh doanh hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Liên Bang Nga, SNG và Đông
Âu, gọi tắt là Ban Nga-Đông Âu, cụ thể như tổ chức, sắp xếp và phân công công
việc cụ thể cho từng người trong Ban. Với nhiệm vụ được giao này, phó Giám
đốc có trách nhiệm nắm bắt tiến độ hoạt động của Ban để báo cáo lên Giám đốc
những thông tin cập nhật nhất về khả năng xúc tiến thương mại với thị trường
Nga (tiếp theo sẽ đến thị trường SGN và Đông Âu) đồng thời đề xuất những
phương án làm việc thích hợp trong từng thời điểm nhất định.
18
- Phó Giám đốc II: trực tiếp quản lý, điều hành công việc của một số
phòng, ban tại trụ sở chính bao gồm: phòng kế hoạch, phòng vật tư, phòng thông
tin và pháp chế, phòng nhập, phòng giao nhận vận tải, văn phòng và các chi
nhánh, xí nghiệp ở các tỉnh, thành phố là các đơn vị trực thuộc Công ty như: Chi
nhánh Vũng Tàu, Chi nhánh Cần Thơ, Chi nhánh Long An và xí nghiệp xăng
dầu Cát Lái.
- Phó Giám đốc III: phụ trách toàn bộ lĩnh vực kinh doanh của Công ty
ở Miền Bắc thông qua hoạt động của hai chi nhánh ở Hà Nội, Hải Phòng và xí

nghiệp xăng dầu An Hải (Hải Phòng).
Ngoài những chức năng trên, các Phó Giám đốc có thể thay mặt Giám đốc
điều hành Công ty khi Giám đốc vắng mặt, đảm bảo cho hoạt động của Công ty
luôn luôn “chạy” tốt.
Chức năng của các phòng Ban:
Phòng tổ chức:
Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc phụ trách các vấn đề liên quan đến
quản lý nhân sự và tổ chức các hoạt động phong trao chung của Công ty góp
phần kết nối sự liên lạc giữa các phòng ban, các nhân viên tạo sự thống nhất và
đồng bộ trong toàn Công ty.
Phòng kế hoạch:
Đề ra những mục tiêu cụ thể để phấn đấu cho toàn Công ty nói chung và
từnh phòng ban nói riêng. Vai trò của phòng này rất quan trọng cho sự phát triển
của Công ty vì đây chính là kim chỉ nam tạo sự vận động liên tục cho Công ty.
Phòng đầu tư:
- Nghiên cứu và kiến nghị các dự án đầu tư sinh lợi, kể cả liên doanh
liên kết, góp vốn, cổ phần hóa.
- Tổ chức thực hiện và tham gia quản lý các đề án của Công ty về liên
doanh liên kết, mua cổ phần, thực hiện việc quản lý đầu tư, xây dựng cơ bản
trong phạm vi toàn công ty.
Phòng thông tin và pháp chế:
19
- Phòng nghiên cứu thông tin về tình hình diễn biến các mặt hàng do
Công ty kinh doanh và một số mặt hàng khác mà Công ty có thể sẽ tham gia
kinh doanh để phục vụ tham mưu cho Giám đốc và các phó Giám đốc phụ trách
chỉ đạo về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Thông tin tư vấn pháp luật giúp Công ty quản lý các hoạt động kinh
doanh theo đúng pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Phòng kế toán:
Cung cấp các số liệu, phân tích tình hình, kết quả kinh doanh của Công ty

thực hiện các công việc khác theo yêu cầu của ban Giám đốc Công ty nhằm mở
rộng kinh doanh, phát triển doanh số, thu lợi nhuận.
Phòng sản phẩm:
- Nhập khẩu xăng dầu theo sự điều tiết của Chính phủ, kinh doanh xăng
dầu ở thị trường trong nước, phát triển mạng lưới bán lẻ xăng dầu.
- Nghiên cứu, lập kế hoạch chiến lược cho việc phát triển thị trường
xăng dầu của Công ty.
- Phối hợp với các cơ quan có chức năng phát triển thị trường công
nghiệp Việt Nam.
Phòng cà phê:
Chuyên doanh về cà phê, bao gồm việc thu mua, chế biến và xuất khẩu cà
phê, đồng thời theo dõi, nghiên cứu thị trường cà phê Thế giới nhằm phát triển
tốt nhất việc kinh doanh cà phê-một trong hai mặt hàng chủ lực hiện nay của
PETEC.
Phòng nhập:
Phụ trách toàn bộ việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy và thiết bị lẻ,
phương tiện vận tải, các loại vật tư, nguyên nhiên liệu kinh doanh phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Phòng giao nhận vận tải:
20
Đảm nhận mọi hoạt động liên quan đến các kỹ thuật nghiệp vụ ngoại
thương, là một phần của công việc kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu của
Công ty.
Ban Nga-Đông Âu:
Nghiên cứu thị trường Nga (sau đó đến thị trường Đông Âu) vạch ra chiến
lược thâm nhập thị trường này dưới các hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với
chức năng của mình và tổ chức thực hiện chiến lược đó.
Phòng tổng hợp:
Là cánh tay phải của Giám đốc trong mọi hoạt động của Công ty. Phòng
này có nhiệm vụ giúp đỡ, phối hợp với Giám đốc trong việc hoạch định các

chiến lược kinh doanh, xúc tiến hoạt động của các phòng ban và hoàn tất mọi
công việc có liên quan.
1.4. Cơ cấu nhân sự của Công ty
Hiện nay, đội ngũ nhân viên của Công ty PETEC rất hùng hậu với tổng số
trên 700 người. Trong số đó lực lượng nòng cốt của Công ty đã chiếm gần 1/3
với trên 10 phó tiến sĩ, trên 40 người tốt nghiệp cao học, và gần 200 người đạt
trình độ đại học, tổng cộng đó là khoảng 250 người có trình độ đại học và trên
đại học. Giám đốc và các phó giám đốc đều sử dụng tốt từ hai ngoại ngữ trở lên.
Nhiều cán bộ các phòng nghiệp vụ thông thạo nhiều ngoại ngữ khác nhau.
Bên cạnh việc khuyến khích, động viên nhằm phát huy tinh thần làm việc
của mọi cán bộ công nhân viên, lãnh đạo Công ty rất chú trọng đến công tác đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhân viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công
việc đặt ra. Phần lớn nhân viên của Công ty được tuyển chọn trực tiếp từ các
trường Đại học kỹ thuật và kinh tế, sau đó được PETEC đào tạo thêm nghiệp vụ
ngoại thương, ngoại ngữ ngắn và dài hạn theo một chương trình do Công ty đề
ra. Cụ thể Công ty đã cử các cán bộ đi học các lớp dài hạn, ngắn hạn về kế toán,
ngân hàng. Kết quả là tất cả các cán bộ Công ty và phòng kế toán ở các chi
21
nhánh, xí nghiệp đều sử dụng thành thạo vi tính vào công việc. Các trưởng, phó
phòng Kế toán của Công ty đều có bằng cao học kế toán ngân hàng, bằng kiểm
tóan và bằng Đại học ngoại ngữ.
Có thể nói, lãnh đạo Công ty PETEC đã nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của con người trong mọi hoạt động, nhất là trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Do đó, cùng với sự lớn mạnh của PETEC, đội ngũ cán bộ công nhân viên
của Công ty ngày càng chứng tỏ vai trò và vị trí chủ đạo của mình trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty, tạo nên một thế mạnh của PETEC mà
không phải bất cứ doanh nghiệp Nhà nước nào cũng có được.
2. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty PETEC
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động
theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ định hướng Xã hội chủ nghĩa, Công ty

Petec đã và đang tận dụng mọi lợi thế có được đồng thời kết nối với những nỗ
lực không ngừng để trụ vững và phát triển đều đặn từ khi thành lập đến nay. Tuy
nhiên để đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra là cả một khó khăn bởi vì tình hình
kinh doanh trên thực tế phụ thuộc vào hai yếu tố: thời cơ và thị trường. Sự năng
động, khả năng chuyển đổi linh hoạt trong kinh doanh và uy tín trong quan hệ
với khách hàng của Công ty đã thấy rõ ràng Công ty luôn từng bước khắc phục
những khó khăn khách quan lẫn chủ quan và thể hiện sự tiến bộ và vị trí của
mình trong kinh doanh.
22
2.1. Tình hình nhập khẩu của Công ty
* Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp:
Từ 1/9/1998 việc mở rộng quyền kinh doanh của các doanh nghiệp, một
trong những biện pháp khuyến khích của Chính phủ và năm 2001 Chính phủ đã
cho phép các Công ty tư nhân cũng được phép kinh doanh xuất nhập khẩu
những mặt hàng được phép đăng ký sẽ làm gia tăng đáng kể có thể lên đến hàng
vạn doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân cùng kinh doanh xuất nhập khẩu. Bước
ngoặt mới trong việc ban hành chính sách xuất nhập khẩu này sẽ đặt PETEC vào
những khó khăn nhất định do phải đối mặt với sự cạnh tranh không khoan
nhượng đến từ các đội ngũ đã và đang cạnh tranh và đội ngũ các doanh nghiệp
sắp thành lập.
Mặt hàng chính của Công ty kinh doanh là sản phẩm xăng dầu thì đối thủ
chính là Tổng Công ty Petrolimex, một Công ty có bề dầy lịch sử và kinh
nghiệm trong việc nhập và cung ứng sản phẩm xăng dầu trên toàn lãnh thổ:
Để xóa bỏ sự độc quyền trong việc nhập khẩu và phân phối từ 1996 đến
nay, Chính phủ đã cho phép chín doanh nghiệp làm đầu mối nhập khẩu mặt
hàng chiến lược này được tự do cạnh tranh đó là:
- Petrolimex
- Petechim
- Petec
- Sài Gòn Petro

- Vinapco
- Petro Mêkong
- Petro Đồng Tháp
- Petro Việt Nam
- Giao thông vận tải
Song thực tế những năm qua cho ta thấy nhất là từ năm 1999 trở về trước
khi kinh doanh có lãi thì các doanh nghiệp khác đều đua nhau nhập khẩu. Một
23
số doanh nghiệp không có tiềm năng về tài chính, kho cảng (nói chung là không
có cơ sở vật chất) song vẫn nhập về ồ ạt làm cho thị trường xăng dầu dao động
và chất lượng kém. Năm 2000, khi giá dầu thô thế giới tăng mạnh đến đỉnh điểm
và kéo dài vì các nước OPEC cắt giảm sản lượng khai thác và một số nhà máy
chế biến bị hỏng, bị phá hoại dẫn đến nguồn cung ứng xăng dầu trở nên khan
hiếm hơn thì các doanh nghiệp không có năng lực đó, nhập khẩu cầm chừng
hoặc có khi không nhập nữa, hoặc nhập về mà tìm cách kìm lại không bán ra vì
họ sợ bị lỗ. Như vậy đến năm 2000 chủ yếu là Petrolimex, Petec và Sài Gòn
Petro nhập theo kế hoạch Nhà nước giao để điều tiết nền kinh tế đáp ứng cung
cầu, tránh khủng hoảng về xăng dầu. Năm 2000, Nhà nước đã bốn lần điều
chỉnh giá cân đối với xăng dầu, ba lần điều chỉnh thuế nhập khẩu xăng dầu và
biện pháp hữu hiệu bù lỗ cho các doanh nghiệp, đây là một việc làm đúng đắn,
với phương châm: Nhà nước chịu một phần, doanh nghiệp gánh một phần và
một phần là người tiêu dùng chịu để giúp các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
vượt qua khó khăn để bảo toàn vốn phát triển các mặt hàng khác bù đắp lại sự
thiếu hụt do thị trường bất ổn của sản phẩm xăng dầu đưa lại.
24
Bảng 1: Tổng hợp xuất nhập khẩu
Đơn vị tính: 1000 USD
Chỉ tiêu
2004 2005 2006 So sánh
Trị giá

Tỷ lệ
%
Trị giá
Tỷ lệ
%
Trị giá
Tỷ lệ
%
2005/2004 2006/2005
Trị giá
Tỷ lệ
%
Trị giá
Tỷ lệ
%
Kim ngạch nhập khẩu 133.103 77,87 166.253 79,18 271.450 88,04 33.150 24,91 105.197 63,28
Kim ngạch xuất khẩu 37.823 22,13 43.722 28,82 36.860 11,96 5.899 15,60 -6.862 -15,69
Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu
170.926 100 209.975 100 308.310 100 39.049 22,85 98.335 46,83
25

×