Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

giải pháp quản lý dự án trong ngành bia việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 42 trang )

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TRONG NGÀNH BIA
I - Khái niệm và nội dung của quản lý dự án
1. Khái niệm
Phương pháp quản lý dự án là một phương pháp quản lý tiên tiến, được áp
dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự Mỹ, đến nay nó nhanh chóng được ứng
dụng rộng rãi vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Quản lý dự án là việc áp dụng những hiểu biết, kỹ năng, công cụ, kỹ thuật
vào hoạt động dự án nhằm đạt được những yêu cầu và mong muốn từ dự án.
Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch tổng thể, điều phối và kiểm soát
một dự án từ khi bắt đầu đến khi kết thúc nhằm đạt được những mục tiêu về
thời gian, chi phí, kỹ thuật và chất lượng.
2. Nội dung quản lý dự án
 Quản lý phạm vi: Là việc xác định, giám sát việc thực hiện mục đích,
mục tiêu của dự án, xác định công việc nào phụ thuộc về dự án và cần phải
thực hiện, công việc nào ngoài phạm vi của dự án.
 Quản lý thời gian: là việc lập kế hoạch, phân phối và giám sát tiến độ
thời gian hoàn thành dự án. Nó chỉ rõ mọi công việc kéo dài bao lâu, khi nào
bắt đầu, khi nào kết thúc và toàn bộ dự án bao giờ sẽ hoàn thành.
 Quản lý chi phí: là quá trình dự toán kinh phí, giám sát thực hiện chi
phí theo tiến độ cho từng công việc và toàn bộ dự án. Là việc tổ chức, phân
tích số liệu và báo cáo những thông tin về chi phí.
 Quản lý chất lượng: là quá trình triển khai giám sát thực hiện những
tiêu chuẩn chất lượng cho việc thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng sản phẩm
dự án phải đáp ứng mong muốn của chủ đầu tư.
 Quản lý nhận lực: là việc hướng dẫn, phối hợp những nỗ lực của mọi
thành viên tham gia dự án vào việc hoàn thành mục tiêu dự án. Nó cho thấy
việc sử dụng lực lượng lao động của dự án hiệu quả đến mức nào?
 Quản lý thông tin: là quá trình đảm bảo các dòng thông tin thông suốt
một cách nhanh nhất và chính xác giữa các thành viên dự án và với các cấp


quản lý khác nhau. Thông qua quản lý thông tin có thể trả lời được các câu
1
hỏi: ai cần thông tin về dự án, mức độ chi tiết và các nhà quản lý dự cần báo
cáo cho họ bằng cách nào?
 Quản lý rủi ro: là việc xác định các yếu tố rủi ro dự án, lượng hoá mức
độ rủi ro và có kế hoạch đối phó với từng loại rủi ro.
 Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán: là quá trình lựa chọn, thương
lượng, quản lý các hợp đồng và điều hành việc mua bán nguyên vật liệu, trang
thiết bị, dịch vụ cần thiết của các tổ chức bên ngoài cung cấp cho dự án, tiến
độ cung, chất lượng cung như thế nào?
 Lập kế hoạch tổng quan: là quá trình đảm bảo các lĩnh vực quản lý
khác nhau của dự án đã được kết hợp một cách chính xác và đầy đủ.
3. Các hình thức tổ chức quản lý dự án
3.1- Hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý
Đây là hình thức tổ chức quản lý dự án không do cán bộ chuyên trách
quản lý dự án thuê ngoài mà trực tiếp tham gia điều hành dự án. Họ không
chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc thực hiện và kết quả cuối cùng của dự
án mà chỉ đóng vai trò cố vấn, tư vấn.
3.2- Hình thức chủ nhiệm điều hành dự án
Hình thức tổ chức này là mô hình tổ chức trong đó chủ đầu tư giao cho
ban quản lý điều hànhh dự án chuyên ngành làm chủ nhiệm điều hành hoặc
thuê tổ chức có năng lực chuyên môn để điều hành dự án và họ được đại diện
toàn quyền trong mọi hoạt động thực hiện dự án. Chủ nhiệm điều hành dự án
là một pháp nhân độc lập, có năng lực, sẽ là người quản lý, điều hành và chịu
trách nhiệm về kết quả đối với toàn bộ quá trình thực hiện dự án.
3.3- Hình thức chìa kháo trao tay
Mô hình tổ chức dạng này là hình thức tổ chức trong đó nhà quản lý
không chỉ là đại diện toàn quyền của chủ đầu tư - chủ dự án mà còn là “chủ”
của dự án.
II. Chu kỳ của một dự án

Bất kỳ một dự án đầu tư cho bất kỳ một loại hình sản phẩm nào đó đều có
chu kỳ sống của nó hay gọi cách khác là vòng đời dự án.
1. Ý đồ về dự án
Trong giai đoạn này, công việc chính là đánh gía sự thay đổi tiềm năng,
nhu cầu của thị trường hay sự thiếu hụt trong hoạt động sản xuất kinh doanh
2
hiện tại, đưa ra yêu cầu “nghiên cứu tiềm khả thi”. Việc lựa chọn dự án trong
thời gian này là quyết định, mà nó mang tính sách lược phụ thuộc vào các
mục đích của tổ chức, nhu cầu của thị trường, các dự án đang diễn ra. Trong
giai đoạn này, khoản lợi nhuận ước tính của dự án, định giá chi phí và rủi ro,
ước tính nguồn lực yêu cầu là những yếu tố cần cân nhắc. Hành động quan
trọng bao gồm các quyết định “mua hay bán” máy móc thiết bị, việc lập kế
hoạch dự phòng cho các lĩnh vực có rủi ro cao và việc lựa chọn ban đầu các
nhà thầu và các thành viên tham gia vào dự án.
Ngoài ra ban quản lý cần phải cân nhắc các khía cạnh về kỹ thuật và quá
trình phát triển công nghệ, hoạt động dự án, các yếu tố ảnh hưởng tới môi
trường liên quan tới quy định của Chính phủ, các chính sách của Chính phủ,
thị trường tiềm năng và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước
ngoài vẫn luôn phải phân tích kỹ.
2. Chuẩn bị đầu tư
Trong giai đoạn này, cân nhắc đánh giá những ưu nhược điểm mang tính
sách lược và điều chỉnh những vấn đề chưa hợp lý- “Nghiên cứu khả thi” cơ
cấu tổ chức của dự án được hình thành như đã đề cập ở phần trên.
Khi đưa ra quyết định, các vấn đề về giao tiếp và thủ tục hành chính và
các báo cáo cũng phải được đề ra. Giai đoạn này người quản lý lập kế hoạch
dự án với đầy đủ chi tiết kế hoạch thực hiện và ngân sách. Nếu giai đoạn này
đã được thông qua sẽ tiếp tục tiến hành giai đoạn thiết lập dự án chi tiết, giai
đoạn sản xuất, giai đoạn kết thúc.
3. Thực hiện dự án đầu tư
Đây là một giai đoạn trong vòng đời của dự án khi mà các kế hoạch đã

được chuẩn bị. Những kế hoạch này bao gồm:
♦ Sản phẩm và quá trình thiết kế
♦ Các nhu cầu hoạt động của dự án
♦ Chia nhỏ công việc trong cấu trúc, kế hoạch thông tin
♦ Bản kế hoạch chi tiết về chi phí và quản lý nguồn lực
♦ Bản chi tiết về kế haọch dự phòng xử lý sự cố rủi ro
♦ Kinh phí, dòng tiền dự tính
Ngoài ra, vấn đề quan trọng nhất là các thủ tục và các công cụ cho thực
hiện, giám sát và sửa chữa dự án ngày càng tăng. Khi giai đoạn này đã hoàn
3
thành, việc thực hiện có thể bắt đầu vì đã có kế hoạch khác nhau, bao gồm tất
cả các khía cạnh của dự án với đầy đủ chi tiết nhằm hỗ trợ cho việc quản lý và
thực hiện công việc.
Thành công của dự án liên quan đến chất lượng và chiều sâu cuả sự chuẩn
bị dự án trong giai đoạn này. Do vậy từng bản thảo của từng dự án và từng
khía cạnh của dự án phải được tiến hành trước khi thông qua. Sự phân tích kỹ
lưỡng các yếu tố môi trường có khả năng xảy ra cũng rất cần thiết. Sự phân
tích này được coi là một phần của quá trình nghiên cứu có sử dụng các ý kiến
của chuyên gia và được coi là bộ máy hỗ trợ.
Trong hầu hết các tình huống, các nguồn lực của dự án được xác định rõ
trong giai đoạn cần thiết của vòng đời dự án. Mặc dù nguồn lực này sẽ được
dùng vào các giai đoạn sau, song những vấn đề sách lược chi là bao nhiêu với
tỷ lệ như thế nào cũng được đề ra.
4. Sản xuất kinh doanh
Giai đoạn thứ 4 của vòng đời dự án bao gồm các kế hoạch và trong hầu
hết các dự án, giai đoạn này quyết định các mặt khác nhau của dự án. Các vấn
đề sách lược ở đây liên quan đến việc duy trì sự hỗ trợ của ban quản lý. Trong
khi các vấn đề được tập trung vào việc hoạt động thực tế và sự thay đổi so với
kế hoạch gốc, sự biến đổi này có thể ở các dạng khác nhau, trong trường hợp
đặc biệt dự án có thể bị huỷ. Mặc dù vậy mục đích, lịch trình của dự án, kế

hoạch thực hiện và kinh phí sẽ phải được điều chỉnh theo tình hình thực tế.
Trong giai đoạn này nhiệm vụ của ban quản lý là giao việc cho các bên tham
gia giám sát tiến trình thực tế và so sánh với kế hoạch gốc. Do vậy, việc thành
lập hệ thống giám sát và thông tin tốt là cần thiết.
Việc trợ giúp sản phẩm hay hệ thống trong suốt vòng đời dự án đòi hỏi sự
quan tâm của ban quản lý. Trong hầu hết các dự án mang tính kỹ thuật quá
trình sản xuất phải được tiến hành một cách sát xao, cẩn thận. Việc chuẩn bị
phải tỷ mỷ và đầy đủ tài liệu, đào tạo nhân sự, bảo dưỡng, mua phụ tùng. Nếu
không quan tâm tới giai đoạn này có thể dẫn đến sự thất bại của dự án.
5. Giai đoạn kết thúc
Trong giai đoạn này, mục tiêu của ban quản lý là để củng cố những cái đã
qua và rút kinh nghiệm. Trong bài học hiện tại và kinh nghiệm sẽ là cơ sở
nâng cao trình độ thực hành. Sự thành công của dự án có thể mang lại cho
chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu, nhưng sự thất bại còn giúp cho chúng ta
4
nhiều hơn. Khi mà chúng ta rút kinh nghiệm và dám nhắc lại bài học đó thì sẽ
có ích hơn nhiều so với những bài học trống rỗng. Các dữ liệu chúng ta lưu lại
và việc thu thập thông tin về chi phí, kế hoạch việc sử dụng nguồn lực .v v
là tài sản của tổ chức. Thông tin chính xác và đầy đủ là nhân tố chính của sự
thành công của dự án trong tương lai.
III. Quá trình thực hiện dự án
Để triển khai một dự án đầu tư từ ý đồ sản xuất kinh doanh một cách có
hệ thống, người ta thường thực hiện các bước sau:
1. Chuẩn bị đầu tư
 Nghiên cứu cơ hội đầu tư: Cần phải tìm hiểu tình trạng của loại sản
phẩm này ở trên thế giới, khu vực và trong nước, tình hình sản xuất kinh
doanh và bổ sung của chủng loại sản phẩm dự kiến sẽ sản xuất, nhu cầu của
xã hội đối với chủng loại này ra sao, tình hình kinh tế có gì biến động không,
chính sách có gì tác động đến việc sản xuất kinh doanh loại sản phẩm này
 Nghiên cứu tiền khả thi: sau khi đã có những đánh giá khả quan về

chủng loại sản phẩm dự kiến sẽ sản xuất, doanh nghiệp cần tiến hành bước
tiếp theo là nghiên cứu tiền khả thi. Bước này sẽ nghiên cứu sâu hơn các khiá
cạnh mà nghiên cứu cơ hội đầu tư đã thực hiện nhằm: tiếp tục sàng lọc, sẵn
sàng, gạt bỏ các phương án chưa hội tụ đủ yếu tố khả thi; khẳng định cơ hội
đầu tư đã được lựa chọn và thực hiện nghiên cứu sâu thêm.
 Nghiên cứu khả thi và lựa chọn dự án đầu tư: sau khi đã có những
đánh giá khả quan về chủng loại sản phẩm dự kiến sẽ sản xuất, doanh nghiệp
cần tiến hành bước tiếp theo là nghiên cứu khả thi về dự án đầu tư sản xuất
kinh doanh loại sản phẩm lựa chọn.
 Bước cuối cùng của giai đoạn chuẩn bị đầu tư là thẩm định dự án
nghiên cứu khả thi, đây là bước quyết định doanh nghiệp có được phép đầu
tư hay không, các cơ quan chức năng của Nhà nước như Ngân hàng, Bộ kế
hoạch và đầu tư, Bộ khoa học công nghệ môi trường, Bộ chủ quản và các
chuyên gia sẽ tiến hành xem xét dự án và giúp cho đầu tư quyết định lựa
chọn dự án đầu tư.
2. Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư
Đây là giai đoạn đòi hỏi chủ đầu tư và ban quản lý dự án đầu tư trung sức
lực, trí tuệ nhiều nhất để giải quyết mọi công việc có liên quan đến dự án đầu
tư, giai đoạn này có thể chia thành một số bước thực hiện như sau:
5
2.1- Nghiên cứu lựa chọn nhà thầu, ký kết các hợp đồng
Sau khi có quyết định phê duyệt dự án đầu tư ( bao gồm các hạng mục
đầu tư về xây dựng cơ bản, trang bị cho dự án kế hoạch xây lắp ), chủ cùng
với ban quản lý dự án tiến hành mời thầu và tiến hành xét thầu các bản chào
hàng của các nhà thầu tham gia vào dự án đầu tư. Chủ thầu, ban quản lý và
các chuyên gia lựa chọn được gọi thầu tối ưu, trình lên cấp có thẩm quyền phê
duyệt để tiến hành ký kết hợp đồng với nhà thầu đã trúng thầu.
2.2- Thiết kế thiết bị và dự toán thi công
Đây là bước thiết kế và lập kế hoạch chi tiết các hạng mục cần phải thi
công xây dựng dự án đầu tư, lên tiến độ thực hiện, lập kế hoạch chi tiêu.

Bước này tiến hành các chi tiết cụ thể bao nhiêu, thì sự sai xót trong quá trình
thực hiện càng giảm đi bấy nhiêu.
2.3- Mua sắm thiết bị và xây lắp công trình
Nhà thầu trúng thầu (đã được các cấp có thẩm quyền chấp nhận) sẽ là
nhà cung cấp thiết bị, bản vẽ (kỹ thuật, công nghê, xây lắp) cho dự án đầu tư,
lịch trình cung cấp thiết bị sẽ được nhà thầu thông báo cụ thể bằng văn bản
(được thể hiện bằng hợp đồng). Từ đây ta sẽ lập kế hoạch cụ thể về tiến độ
xây lắp. Việc giám sát kỹ thuật xây lắp là rất quan trọng, máy móc thiết bị
trong dây truyền hoạt động có chính xác không, các chỉ tiêu kỹ thuật có đảm
bảo không, phần lớn phụ thuộc vào giai đoạn này.
2.4- Đào tạo công nhân kỹ thuật
Để đáp ứng cho giai đoạn sản xuất của dự án đầu tư, việc đào tạo công
nhân kỹ thuật là rất cần thiết. Công việc này cần được tiến hành trước, hoặc
song song với những công việc khác, điều này phụ thuộc vào quy mô đầu tư
của dự án.
2.5- Vận hành thử, điều chỉnh
Sau khi xây lắp xong, người ta cần phải tiến hành chạy thử để điều chỉnh
các chỉ tiêu kỹ thuật cho khớp với thiết kế đã được duyệt. Khi chạy thử cần
tiến hành chạy thử từng công đoạn. Sau khi kiểm định từng công đoạn trong
dây chuyền hoạt động đúng các chỉ tiêu cho phép, lúc bây giờ mới được phép
chạy thử toàn bộ dây chuyền sản xuất. Thời gian chạy thử trong một vài ngày
hoặc một vài tuần lễ.
6
2.6- Nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng
Kết thúc giai đoạn chạy thử là giai đoạn bàn giao và đưa dây chuyền vào
sản xuất.
3. Giai đoạn vận hành
3.1- Giai đoạn vận hành chưa hết công suất
Thời gian đầu, dây chuyền sản xuất không hết công suất, vì để thăm dò thị
trường và rà trơn máy móc thiết bị, nếu thị trường có phản ứng thì doanh

nghiệp có thể kịp thời điều chỉnh sản phẩm của mình cho phù hợp với yêu cầu
của người tiêu dùng.
3.2- Giai đoạn vận hành hết công suất
Khi đã ổn định và nhu cầu thị trường tăng, lúc đó sẽ phát huy hết công
suất của máy móc thiết bị để đáp ứng nhu cầu thị trường. Giai đoạn này cũng
là giai đoạn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp.
3.3- Giai đoạn giảm dần và thanh lý
Đây là giai đoạn đòi hỏi các nhà quản lý phải “lao tâm khổ tứ” nhiều nhất
trong vòng đời dự án đầu tư. Khi cung – cầu thị trường đã cân bằng. Khi khấu
hao thiết bị đã gần hết (đã tới hạn phải thanh lý trang thiết bị và chuẩn bị giai
đoạn đầu tư mới), các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải giảm dần sản lượng,
tiến hành thanh lý thiết bị không đáp ứng được điều kiện mới, lúc này cần
thiết đầu tư những trang thiết bị có công nghệ sản xuất tiên tiến hơn, tiêu hao
nguyên vật liệu, nhiên liệu và năng lượng ít hơn với ý thức giảm giá thành sản
phẩm, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng.
4- Các chỉ tiêu đánh giá và phân tích kinh tế - tài chính khi lập dự án
Các dự án đầu tư đều nhằm vào mục tiêu kinh tế – tài chính hoặc kinh tế –
xã hội. Trong luận văn này, em đề cập chủ yếu tới dự án đầu tư với mục tiêu
kinh tế tài chính. Các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh mục tiêu của
họ là lợi nhuận. Lợi nhuận có được do sản xuất kinh doanh và do tác động
cung cầu của thị trường mang lại.
Để đánh giá một dự án đầu tư, cần phải tiến hành đánh giá theo các tiêu
chuẩn sau:
4.1- Tiêu chuẩn thị trường:
• Xác định sản lượng tối ưu cung cấp cho thị trường để đảm bảo số lượng
hàng hoá cung cấp ra không bị dư thừa khi sản xuất ra.
7
• Cần tìm hiểu có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh có mặt hàng dự kiến sản
xuất, tiềm năng của đối thủ ra sao
• Sản phẩm của các đối thủ đó được thị trường đáng giá như thế nào? Ưu

nhược điểm. Từ đó có sự điều chỉnh thích hợp đáp ứng những đòi hỏi của
khách hàng.
• Những chính sách của Nhà nước đối với mặt hàng này như thế nào,
thuận lợi, khó khăn.
Tất cả thông tin cần được thu thập đầy đủ và phải được xử lý một cách kỹ
lưỡng. Đây là nền móng cho các bước tiếp theo để thực hiện dự án đầu tư.
4.2- Tiêu chuẩn kinh tế - tài chính
Bất kỳ một dự án nào cũng đều nhằm vào mục đích nhất định, đối với các
doanh nghiệp lợi nhuận là mục tiêu trước hết. Tiêu chuẩn về kinh tế - tài
chính là then chốt của dự án đầu tư, nó bao trùm lên toàn bộ dự án đầu tư. Để
giúp cho người quản lý trong việc quyết định đầu tư, người ta thường tìm hiểu
về tài chính như NPV, IRR, suất đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh
Đánh giá dự án đầu tư theo tiêu chuẩn sau:
 Hiện giá thu nhập thuần (NPV)
( ) ( )
∑∑
==
+

+
=
n
0i
i
n
0i
i
i
r1
C

r1
B
NPV
C
i
: Khoản chi phí của năm i
B
i
: Khoản thu của năm i
n: Số năm hoạt động của đời dự án
r: Tỷ suất triết khấu được chọn
Từ công thức trên cho thấy, nếu:
NPV > 0 Chấp nhận
NPV = 0 Hoà vốn
NPV < 0 Loại bỏ
Khi các dự án có doanh thu bằng nhau, dự án tối ưu sẽ có giá trị hiện tại
của chi phí là bé nhất - dự án đó được chấp nhận PVC (Present Value Cost)
PVC =
t
n
=

0
C
t
(1+i)
-t
→ MIN - dự án được chấp nhận
 Tỷ số giữa lợi ích và chi phí (B/C)
8

( )
( )
)C(PV
)B(PV
r1
1
C
r1
1
B
C
B
n
0i
i
i
n
0i
i
i
=
+
+
=


=
=
PV(B) : Giá trị hiện tại của các khoản thu
PV(C) : Giá trị hiện tại của các khoản chi phí.

Để so sánh những dự án khác nhau về quy mô, ta thường dùng chỉ tiêu
B/C để đánh giá.
B
C
≥ 1 Chấp nhận để so sánh
B
C
< 1 Loại bỏ
B
C
= max Tối ưu
 Tỷ số hoàn vốn nội bộ (IRR)
IRR = r
1
+ (r
2
- r
1
)
 Thời gian thu hồi vốn đầu tư
T =
(W + D)
i
: Khoản thu hồi lợi nhuận thuần và khấu hao năm i.
I
v0
: Tổng vốn đầu tư ban đầu.
T ≤ T
*
chấp nhận T min - tối ưu

Tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn T thường áp dụng đối với dự án có tính rủi
ro cao. Tuỳ thuộc từng dự án, khi đánh giá hiệu quả kinh tế ta có thể áp dụng
tất cả các tiêu chuẩn hoặc chỉ áp dụng một số tiêu chuẩn.
 Hệ số hoàn vốn nội bộ.
RR
i
=
W
ipv
: Lợi nhuận thuần thu được năm i tính theo mặt bằng hiện tại.
I
v0
: Vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động.
4.3- Tiêu chuẩn về kinh tế - xã hội
• Khi dự án được đưa vào hoạt động có những tác động gì đến nền kinh
tế của đất nước, hay nói cách khác đã đem lại lợi ích gì cho xã hội.
• Nộp ngân sách dự kiến là bao nhiêu
9
• Giải quyết, đào tạo được bao nhiêu lao động có tay nghề đáp ứng
được cho sản xuất
• Tác động đến những ngành sản xuất khác
• Sản phẩm có tác động như thế nào đến thị trường
• Việc sử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước ra sao
4.4 - Tiểu chuẩn về bảo vệ môi trường
Trong giai đoạn hiện nay, khi tiến hành một dự án đầu tư chúng ta không
chỉ chú trọng tới các chỉ tiêu kinh tế – tài chính, kinh tế – xã hội mà chúng ta
bắt buộc phải thực hiện luật bảo vệ môi trường.
Sản phẩm được sản xuất theo công nghệ nào?, có đáp ứng được những
tiêu chuẩn về môi trường của đất nước không?
Các chất thải do quá trình sản sản xuất sinh ra là loại gì? Chất thải lỏng,

chất thải rắn, chất thải khí. Tiếng ồn sẽ tác động đến môi sinh ra sao?.Các
biện pháp xử lý và phòng ngừa ra sao? Tác động tới nguồn tài nguyên như thế
nào? Cần phải có bản báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án và phải
có biện pháp xử lý cụ thể.
5. Thẩm định dự án đầu tư
Để đi đến quyết định dự án có được triển khai không, việc thẩm định dự
án đóng một vai trò rất quan trọng. Thẩm định chính xác nhằm giúp cho chủ
đầu tư và các cấp có thẩm quyền lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất; đảm bảo
lợi ích kinh tế xã hội mà Dự án đầu tư có thể mang lại. Quản lý quá trình này
phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, quy hoạch
phát triển ngành và địa phương, luật pháp và các chính sách hiện hành. Lựa
chọn phương án khai thác có hiệu quả tiềm lực của Đất nước, cải thiện nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Thẩm định dự án đó là một công việc rất tinh tế, đòi hỏi các nhà đầu tư,
các chuyên gia phải làm việc một cách rất nỗ lực, vận dụng mọi kiến thức,
kinh nghiệm và khả năng của từng người. Trong cơ chế thị trường việc ra đời
một sản phẩm là kết quả làm việc của một tập thể.
IV. Giới thiệu khái quát về bia
Bia là loại đồ uống có nguồn gốc từ rất lâu đời và là nước giải khát mát
bổ, có độ cồn thấp và chứa tỷ lệ thành phần sau:
 Bia chứa trung bình 40g cồn/ lit bia
10
 Bia cung cấp nguồn năng lượng khoảng 400 - 450 Kcal/ lít
 Bia chứa các chất dinh dưỡng khoảng 35 - 40g gluxit/lit
 Bia còn chứa nhiều chất khoáng, quan trọng là magie chứa khoảng
60 - 100ml/ lít
 Bia còn chứa các vitamin nhóm B, đặc biệt là B12, PP, B9, B6.
Bia cung cấp cho người uống một phần gluxit không gây béo mà lại dễ
tiêu hoá, dễ hấp thụ. Ngoài ra, nếu uống một cốc bia 250ml thì cung cấp 7
-14% nhu cầu magie, 15% nhu cầu vitamin cho cơ thể trong một ngày. Thêm

vào đó, Bia còn có tác dụng làm giảm nguy cơ mắc các bệnh mờ đục nhãn
mắt, đặc biệt là ở những người mắc bệnh đái đường; giảm các cơn đau tim và
đột quỵ. Bia còn giúp cho tăng trí thông minh, giảm nguy cơ mắc bệnh
Alzheimeir.
Khi uống bia so sánh các loại thành phẩm khác, uống 500ml bia thì nó
cung cấp tương đương 100g bánh mì, 300g khoai tây, 300ml rượu vang 12
0
,
25ml dầu và 300g bơ.
Qua khảo sát thực tế người tiêu dùng, người ta phân loại bia theo chất
lượng:
 Bia chất lượng cao:
Khách hàng công nhận các sản phẩm bia chất lượng cao do các liên doanh
nước ngoài, các nhà máy bia nhập công nghệ và thiết bị nước ngoài sản xuất
tại Việt Nam, bao bì bằng lon hay bằng chai với nhãn hiệu nổi tiếng như:
Tiger, Heineken, Halida Các sản phẩm bia khác hiện nay cũng được khách
hàng ưa chuộng và công nhận bia có chất lượng cao như: Sài Gòn, Hà Nội
 Bia chất lượng phổ thông:
Do các doanh nghiệp sản xuất bia đầu tư thiết bị và công nghệ trong nước.
Chất lượng ngày càng được ổn định và nâng cao đảm bảo các tiêu chuẩn Nhà
nước TCVN. Loại bia này được đông đảo khách hàng ưa chuộng. Giá bán trên
thị trường từ 3000 - 5000 đồng/lít.
Theo các nhà khảo cổ học, dụng cụ nấu bia đầu tiên có nguồn gốc từ
người Babilon, được chế tạo từ trước Công nguyên. Sách cổ ghi do một ông
vua Arập đã dạy cách làm đồ uống này từ đại mạch. Người cổ ở Trung Quốc
cũng làm ra thứ đồ uống này từ lúa mì, lúa mạch được gọi là "Kju". Bia từ đây
mới truyền sang Châu Âu đến thế kỷ IX người ta mới bắt đầu dùng hoa
11
Houblon và đến thế kỷ XV thì hoa Houblon mới được dùng chính thức để
hương vị cho bia.

Năm 1870, người ta bắt đầu dùng máy lạnh trong công nghệ sản xuất bia.
Năm 1897, nhà bác học người Pháp đã phát hiện ra nấm men. Từ đó chất
lượng bia được nâng lên đáng kể, ngành công nghiệp sản xuất bia đã phát
triển mạnh, sản phẩm tạo ra đã thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con
người.
Bia được sản xuất từ nguyên liệu malt, hoa Houblon và nước. Ngoài ra
còn một số nguyên liệu thay thế như: mỳ, gạo, đường, một số chất phụ gia
khác và vật liệu khác.
Chương II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA NGÀNH BIA VIỆT NAM
I. Sự phát triển về ngành bia Việt Nam
Sản xuất bia được người Pháp đưa vào nước ta vào cuối thế kỷ 19, chính
là Nhà máy Bia Hà Nội và Nhà máy Bia Sài Gòn. Lúc đầu thiết bị rất thô sơ,
lao động hoàn toàn thủ công, do hai người Pháp là ông Alfred Hommel ở Hà
Nội và ông Victor La Rue ở Sài Gòn lúc đó quản lý.
Từ những năm 1970 do chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà
nước ta, đời sống của các tầng lớp dân cư có những bước cải thiện quan trọng,
lượng khách du lịch, các nhà kinh doanh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
tăng nhanh, càng thúc đẩy sự phát triển cuả các ngành kinh tế. Do đó chỉ trong
thời gian ngắn, ngành Bia Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng,
thông qua việc đầu tư khôi phục sản xuất của các nhà máy bia sẵn có, mở rộng
đầu tư liên doanh với nước ngoài và xây dựng thêm các nhà máy bia của các
địa phương, Trung ương, tư nhân và cổ phần trên phạm vi khắp cả nước.
Ngành bia phát triển tạo điều kiện cho các ngành sản xuất khác phát triển
như nông nghiệp, giao thông, cơ khí, bao bì (nhựa, thuỷ tinh, giấy, kim
loại ).
12
Ngành bia là một ngành thu ngân sách lớn cho Nhà nước. Tính bình quân
sản xuất 1 triệu lít bia của doanh nghiệp quốc doanh Trung ương tích luỹ cho
Nhà nước từ 4 - 6 tỷ đồng.

Ngành bia còn là ngành thu hút một lượng lao động đáng kể, tận dụng các
nguồn nội lực trong nước và có điều kiện mở rộng ra thị trường thế giới.
Vì vậy, sản phẩm của ngành chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Ngành đã được đầu tư cơ sở vật chất tương đối lớn, nhiều cơ sở có
thiết bị, công nghệ hiện đại, tạo ra nhiều sản phẩm có tín nhiệm với người tiêu
dùng trong nước hoặc khu vực như bia Hà Nội, bia Sài Gòn.
Từ chỗ chỉ có 2 nhà máy bia là bia Sài Gòn và bia Hà Nội, thì nay cả nước
có 469 cơ sở sản xuất với năng lực 1021 triệu lít/năm. Với tốc độ tăng trưởng
nhanh, đáp ứng về số lượng cũng như chất lượng, dần dần thay thế sản phẩm
nhập khẩu và nâng cao giá trị nông sản thực phẩm.
II. Đặc điểm thị trường bia Việt Nam
Sản xuất đồ uống là ngành có lịch sử phát triển lâu đời trên thế giới,
nhưng ở Việt Nam mới phát triển trên 100 năm. Đây là ngành sản xuất không
những cần thiết cho nhu cầu tiêu dùng, mà còn là ngành đem lại lợi nhuận cao
và đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. Trong những năm gần đây, nhu cầu
tiêu dùng đồ uống trên Thế gới vẫn có xu hướng tăng, thị trường không ngừng
được mở rộng.
Đối với thị trường Việt Nam, từ những năm 90 trở lại đây, do nền kinh tế
xã hội phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng đồ
uống tăng, đặc biệt là nhu cầu về bia ngày càng tăng, bình quân đầu người
tiêu dùng trong cả nước khoảng 8 lít/người/năm. Các công ty lớn như Công ty
Bia Sài Gòn, Công ty Bia Hà Nội của Nhà nước hoặc các Công ty liên doanh,
có vốn đầu tư lớn sản xuất và chiếm lĩnh thị trường ở các vùng Thành phố
đông dân, các khu công nghiệp lớn
Xét thực tế thị trường hiện nay, ta thấy các công ty liên doanh sản xuất
bia với nước ngoài chững lại, sản phẩm của họ đã chiếm được một phần thị
trường, nhưng trong xu hướng hiện tại, sản phẩm của họ không còn nhiều
người ưa dùng nữa. Bia Halida và bia Carlberg đã mất nhiều thị trường, bia
BGI, San Miguel, Red Horse chưa chiếm lĩnh được bao nhiêu thị trường,
các loại bia liên doanh này đang gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ và sản

xuất, riêng bia Tiger và bia Heineken vẫn còn giữ được thị trường, nhưng
13
hiện tại cũng không còn sức mạnh như trước nữa và cũng bắt đầu gặp khó
khăn trong tiêu thụ.
Người ta cho rằng bia chai, bia lon là loại bia cao cấp đối với nhiều vùng
nông thôn, giá quá cao so với túi tiền của người nông dân, nên các nhà máy
sản xuất bia chỉ bán bia loại này cho dân thành phố là chủ yếu. Do vậy, bia
hơi phát triển mạnh có:
 Ưu điểm:
• Cung cấp bia tại chỗ cho người tiêu dùng ở địa phương, thị xã,
thị trấn, nông thôn và những người có thu nhập thấp, không có điều kiện mua
bia chai, bia lon.
• Thiết bị công nghệ do tự chế tạo trong nước nên vốn đầu tư
không lớn và triển khai thi công lắp đặt nhanh gọn.
• Giá thành hạ do đầu tư không lớn, quy trình công nghệ không
cao, yêu cầu chất lượng có mức độ và không tốn kém bao nhiêu về bao bì,
vận chuyển.
• Tăng thêm nguồn thu ngân sách cho địa phương.
• Tạo thói quen tiêu dùng cho người lao động, bia trở thành giải
khát thông dụng, phổ biến.
 Nhược điểm:
• Do thiết bị công nghệ tự chế tạo nên nhiều cơ sở sản xuất không
đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm kém, môi trường
vi phạm, ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng.
• Trốn lậu thuế nên làm thất thu ngân sách, nhiều cơ sở chỉ nộp
khoảng 10 - 20% mức quy định hoặc khai báo sản lượng để nộp thuế khoán.
Sự trốn lậu thuế là nguyên nhân quan trọng để bán giá thấp, tạo lợi thế cạnh
trên thị trường với các nhà máy vừa và lớn có sản xuất bia hơi chất lượng tốt
nhưng bị trà trộn tiêu thụ.
• Phát triển tràn lan không theo quy hoạch, gây lộn xộn về tổ chức

quản lý ngành và các cơ quan quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm,
môi trường.
Theo nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng, người ta kết luận rằng: sản xuất bia
hơi 10
0
mới đúng "gu" của người Việt Nam. Ở các nước phương Tây, người
14
ta sản xuất bia 12
0
là chính, còn ở Việt Nam bia hơi 12
0
sẽ bán được ít do
người nhậu cũng chóng xỉn hơn mà giá thành thường lại cao.
Tóm lại, do nhu cầu thị trường và sự tiến bộ của khoa học công nghệ,
hàng loạt các nhà máy và các cơ sở sản xuất bia được xây dựng, lắp đặt theo
nhiều quy mô khác nhau: từ vài trăm nghìn lít/năm đến hàng chục triệu
lít/năm. Địa điểm được phân bố ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Nhiều
hãng bia nước ngoài đầu tư liên doanh sản xuất bia ở Việt Nam. Do đó mức
tăng trưởng sản xuất bia ở Việt Nam tăng nhanh - cụ thể sau: (trang sau).
Từ số liệu thống kê cho thấy: từ năm 1994 - 1998 sản lượng bia của nước
ta đạt mức tăng trưởng cao, ở thời kỳ này hàng loạt các nhà máy, cơ sở sản
xuất mới được xây dựng đi vào sản xuất. Từ năm 1999 đến 2000 sản lượng
bia có mức độ tăng trưởng chậm lại, nguyên nhân chính là do hiệu quả sản
xuất kinh doanh kém, việc quản lý các dự án không được tiến hành triệt để.
15
Bảng 5 : Mức tăng trưởng sản lượng Bia của Việt Nam từ 1990 đến 2000
TT Năm Tổng sản lượng
(triệu lít)
Mức tăng trưởng
(triệu lít)

Tăng trưởng
(%)
1. 1990 84,5 - -
2. 1991 89,8 5,8 6,86
3. 1992 93,3 3,5 3,89
4. 1993 100,0 6,7 7,18
5. 1994 131,0 31,0 31,00
6. 1995 169,0 38,0 22,48
7. 1996 230,0 61,0 36,09
8. 1997 351,0 121,0 52,60
9. 1998 502,0 151,0 43,19
10. 1999 583,9 199,9 16,30
11. 2000 623,9 55,1 6,85
III. Quy trình công nghệ sản xuất bia
1. Thiết bị sản xuất bia
Bao gồm những công đoạn chính sau:
 Nhập và xử lý nguyên liệu: Kho chứa và bảo quản nguyên liệu, thiết bị
xay nghiền nguyên liệu, thiết bị chứa nguyên liệu sau xử lý,
 Khu vực nấu: Thiết bị phối trộn nguyên liệu, thiết bị nấu, thiết bị
đường hoá, thiết bị lọc hèm, thiết bị làm lạnh dịch đường.
 Khu vực lên men và gây men giống: Bồn lên men, bồn gây men
giống, rửa men.
 Khâu lọc thành phẩm: Thiết bị lọc bia, thiết bị ổn định và bão hoà CO
2
cho bia.
 Khâu chiết bia: Thiết bị rửa chai, chiết chai và đóng nút, chiết KEG,
thiết bị thanh trùng, thiết bị dán nhãn
 Khu thiết bị phụ trợ: Hệ thống điện, lò hơi, hệ thống máy lạnh, máy
nén khí và hệ thống lọc khí, thiết bị thu hồi CO
2

, thiết bị xử lý nước nấu và
phục vụ sản xuất, hệ thống xử lý chất thải
Dưới đây là danh sách một số hãng đã cung cấp thiết bị cho ngành sản
xuất bia và đã được thị trường Việt Nam chấp nhận.
Bảng 4 : Một số hãng sản xuất thiết bị, công nghệ sản xuất bia lựa chọn đầu

Khu vực sản xuất Hãng sản xuất thiết bị Nước sản Hãng ưu tiên
16
xuất thiết bị lựa chọn
1. Nhập và xử lý nguyên
liệu
Seeger, Wihelm Kunzel, Kulmbach
Buhler GmbH, Steinecker GmbH ,
Kuzel
Đức
Đức
Seeger
2. Hệ thống nhà nấu
Máy lọc hèm
STEINECKER
MEURA
Đức
Bỉ
STEINECKR
MEURA
3. Hệ thống gây men giống Gresser, Regensburg Đức Gresser
4. Tank lên men unitank Schmidding Werke, Ziemann,
Gresser,Regensburg
Đức Schmidding
Werke

5. Hệ thống lọc bia fILTROX
Krones, Neutraubling
Thuỵ sĩ
Đức
fILTROX
Krones
6. Dây chuyền chiết chai
Máy dán nhãn
Máy kiểm tra chai rỗng
Máy chiết chai và đóng nắp
Máy thanh trùng
Krones
Krones
Krones
Krones
NIKO, Krones
Đức
nt
nt
nt
nt
Krones
Krones
Krones
Krones
NIKO
7. Dây chuyền chiết KEG GEA Till, Kriftel Đức GEA Till
8. Hệ thống thu hồi CO
2
ANION

SEEGER,BuseAnlagenbauGmbH
Bad Honningen
Đức
Đan mạch
SEEGER
9. Hệ thống xử lý nước nấu Kyll GmbH, Bergisch Đức
10. Hệ thống nồi hơi Loos Đức Loos
11. Hệ thống máy lạnh GEA Ahlborn GmbH,
ABB Kalteanlagen GmbH
Đức ABB Kalteanlagen
GmbH
12. Hệ thống máy nén khí Atlas copco GmbH
Igersonll - Rand GmbH
Đức Atlas copco
GmbH
2. Công nghệ sản xuất bia
Quy trình công nghệ được tóm tắt như sau:
Nguyên liệu đưa vào sản xuất ngoài malt, đại mạch, còn một phần là gạo,
houblon và một số phụ gia khác. Gạo và malt được đưa vào Silo chứa, từ đó
được chuyển sang thùng Hopper để ngâm, rửa sạch, để ráo nước rồi đưa tới
bộ phận xay nghiền nguyên liệu thành các mảnh vỏ nhỏ tạo điều kiện cho quá
trình chuyển hoá nguyên liệu và trích ly tối đa dung dịch nấu bia. Nguyên liệu
sau khi đã xay nghiền được chuyển tới nồi nấu malt theo tỷ lệ quy định công
nghệ của Công ty bia Sài Gòn. Tại đây tinh bột và protein được phân huỷ để
tạo thành đường, axit amin và các chất hoà tan khác rồi chúng đưa qua lọc
hèm để tách đường và các chất hoà tan ra khỏi bã bia. Dung dịch này được
gọi là "nước nha". Tiếp theo nước nha được đưa tới nồi nấu có chứa houblon
để ổn định thành phần của nước nha và làm cho nước nha có hương vị của
hoa houblon. Sau khi kết thúc thời gian đun sôi, dịch đường được lọc để loại
17

bỏ bã và một phần protein kết tủa. Rồi được chuyển sang thùng lắng trong để
kết lắng các chất cặn lơ lửng. Bước tiếp theo, nước nha được làm lạnh nhanh
để hạ nhiệt độ từ 90
0
C xuống 8
0
C, rồi chuyển sang thùng lên men để cấy
giống nấm men.
Lên men được chia thành hai giai đoạn lên men chính và lên men phụ,
thời gian lên men phụ phụ thuộc vào từng loại sản phẩm mà nhà sản xuất dự
kiến cung cấp cho người tiêu dùng.
Công nghệ lêm men hiện đại: lên men chính và lên men phụ tiến hành
trong cùng một tank.
- Lên men chính : t
0
= 9
0
- 10
0
C
- Lên men phụ : t
0
= 2 - 3
0
C
Quá trình chủ yếu của sản xuất bia là quá trình chuyển hoá các loại đường
trong nước nha dưới tác dụng của enzyme trong nấm men bia dẫn đến sự thay
đổi cơ bản trong thành phần hoá học của nước nha, biến nước nha thành một
loại nước uống có hương thơm và dễ chịu - đó là bia.
18

SƠ ĐỒ TỔNG QUÁT CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA

Xuất xưởng bia thùng

Nhập kho xuất
xưởng bia lon


Nhập kho xuất
xưởng bia chai
19
Malt
Gạo, Ngô
Nước
Đường, sirô
Hoa bia
Nghiền
Ngâm, nấu
trộn - đường hoá
Lọc
Đun sôi
Lắng cặn
Làm lạnh
Thổi oxy
Giống
(nấm men )
Lên men
Tàng trữ
Lọc bia
Bổ sung CO

2
Chứa bia trong
Chiết bia
thùng
Rửa thùng
Dán nhãn
Thanh trùng
Chiết đóng
nút
Rửa chai
Chiết bia
lon
Tráng rửa
vô lon
Thanh trùng
bia lon
IV. Thực trạng đầu tư của ngành bia Việt Nam
Nước ta thực hiện công cuộc đổi mới và cơ chế thị trường làm kinh tế
phát triển mạnh, thu nhập bình quân đầu người tăng, nên nhu cầu về bia,
nước giải khát của người tiêu dùng càng tăng nhanh, thúc đẩy ngành công
nghiệp bia phát triển mạnh.
Trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương đầu tư chiều sâu, đổi
mới thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo uy tín của sản
phẩm trên thị trường, các doanh nghiệp trong Tổng công ty đã tập trung đầu
tư để đổi mới thiết bị công nghệ, tiết kiệm chi phí và đảm bảo sức cạnh
tranh, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động kể cả của các nhà máy
đang gặp khó khăn.
Các doanh nghiệp đã xác định triển khai một số dự án trọng điểm đem
lại hiệu quả kinh tế cao. Trong năm 2000, các dự án đã được duyệt và triển
khai gồm: 01 dự án nhóm A, 03 dự án nhóm B và 15 dự án nhóm C với tổng

số vốn đầu tư trên 600 tỷ đồng và đã thực hiện gần 200 tỷ đồng.
Theo số liệu thống kê, ngành bia có các loại hình doanh nghiệp sản xuất
bia như sau:
TT Loại hình sở hữu
Số cơ
sở
CS thiết
kế
(triệu lít)
SL.thực
hiện
(triệu lít)
Hiệu
suất
(%)
Tỷ trọng
(%)
1 Quốc doanh TW 2 205 219 107,0 32,8
2 Liên doanh nước ngoài 6 355 167 49,8 25,0
3 Bia địa phương, tư
nhân, cổ phần
461 461 283 61,3 42,2
Tổng cộng 469 1.021 669 100,0
1. Công ty bia Trung ương
Tháng 10/1995, Tổng công ty Rượu - Bia - Nước giải khát được thành lập
theo mô hình quyết định 90/ TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng
chính phủ . Trong đó công ty bia Sài Gòn và Công ty bia Hà nội là hai doanh
nghiệp lớn của Tổng công ty chiếm 35,4% thị phần trong cả nước, lợi nhuận
hàng năm do hai công ty này mang lại 445,69 tỷ đồng. Hai công ty này hoạt
động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả do làm tốt công tác quản lý các

20
dự án đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng, hơn nữa hai công ty này có đội ngũ
công nhân lành nghề, có tay nghề cao, có trình độ kỹ thuật.
Đây là những doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, từng bước phát
triển và đầu tư. Các đơn vị này tiến hành nghiêm túc từ khâu điều tra, lập dự
án, thẩm định đến các thủ tục mời thầu, đấu thầu, chấm thầu và các bước
này đều được cơ quan có thẩm quyền thẩm tra một cách kỹ lưỡng ( như Văn
phòng Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Công nghiệp, Ngân hàng Nhà
nước, Tổng cục vốn, Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và môi trường )
và thực chất các dự án này đã và đang được triển khai mang lại hiệu quả rõ
rệt. Hàng năm nộp ngân sách 1.243.589 triệu đồng và đang đầu tư mở rộng
thêm để nâng công suất lên 600 triệu lít/ năm trong thời gian tới.
Bảng 2 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Quốc doanh Trung ương
TT
Đơn vị Công suất Vốn đầu

Sản
lượng
Doanh thu
1997
Lợi nhuận
1997
Nộp ngân
sách
thiết kế
(triệu lít)
( triệu
đồng)
( triệu lít) ( triệu đồng) ( triệu đồng) 1997(triệu

đồng)
I
Bia Trung
ương
1
Công ty Bia Hà
Nội
50 237.904 45,9 394.000 87.000 223.000
2
Công ty Bia Sài
Gòn
160 153.689 173,0 1.870.162 358.691 1.020.589
Tổng cộng 210 319.593 218,9 2.264.162 445.691 1.243.589
Qua phân tích và đánh giá ta thấy:
* Suất đầu tư bình quân của các doanh nghiệp
Quốc doanh Trung ương
1.521,9 đ /lít bia
* Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp
Quốc doanh Trung ương
2.122,3 đ /lít bia
* Nộp Ngân sách bình quân của các doanh nghiệp
Quốc doanh Trung ương
5.921,9 đ /lít bia
* Doanh thu bình quân của các doanh nghiệp
Quốc doanh Trung ương
10.781,7 đ /lít bia
* Bình quân lao động cho sản xuất kinh doanh
12,5 người /triệu lít bia
1.1- Công ty bia Hà nội
21

Đây là nhà máy bia hình thành lâu đời nhất Việt Nam. Nhà máy đã qua
nhiều thời kỳ đầu tư, cải tạo, nâng cao, sản lượng không ngừng được nâng
lên. Hiện tại đạt công suất gần 50 triệu lít/năm. Sản phẩm chủ yếu là bia chai
và bia hơi có uy tín trên thị trường miền Bắc. Với truyền thống và có tiếng lâu
đời với "gu" đã được tạo ra. Nhà máy bia Hà nội là một đối thủ nặng ký đối
với bất kỳ hãng bia nào. Vì vậy nhiều nhà máy bia ở miền Bắc đã đầu tư thiết
bị hiện đại nhưng không tiêu thụ được sản phẩm, đang đề nghị cho được sản
xuất theo công nghệ và nhãn mác của bia Hà nội.
Công ty đã lắp đặt hệ thống thiết bị lên men ngoài trời (Unitank V=
150m3), thiết bị loc bia hiện đại, thiết bị thu hồi CO
2
mới, thiết bị lạnh, hai
dây chuyền chiết bia chai và bia lon với công suất 10.000 chai/giờ và
15.000chai/giờ, 10.000 bia lon/giờ, cân đối với công suất nhà máy 50 triệu
lít/giờ. Công ty chủ yếu nhập máy móc thiết bị - công nghệ của Cộng hoà liên
bang Đức và các nước thuộc khối EC.
1.2- Công ty bia Sài Gòn
Đây là nhà máy bia lớn nhất Việt Nam hiện nay. Sản phẩm là bia chai Sài
gòn loại 450ml, bia lon, bia bom 50lít và 100lít. Đây là nhà máy bia sản xuất
tiêu thụ khắp cả nước, nhất là miền Trung và miền Nam và đã có sản phẩm
bia xuất khẩu sang một số nước.
Máy móc thiết bị - Công nghệ sản xuất khá hiện đại . Công suất nhà máy
đạt 170 triệu lít/năm, đang mở rộng lên 200 - 210 triệu lít/năm và đầu tư một
nhà máy mới ở Bình Tây với công suất 50 triệu lít/năm. Công ty còn liên
doanh trong nước với tỉnh Sóc Trăng, Bình Định, Cần Thơ, Phú Yên, mỗi nơi
có công suất 10 -15 triệu lít/năm.
2. Các doanh nghiệp quốc doanh địa phương
Ngoài hai đơn vị sản xuất bia quốc doanh nêu trên, toàn quốc có 114 cơ
sở thuộc bia quốc doanh. Các cơ sở này chủ yếu sản xuất bia hơi, chiếm thị
phần lớn 42%, đáp ứng người tiêu dùng tại chỗ. Những đơn vị này được phát

triển ồ ạt từ năm 1990 trở lại đây, nhưng đều là quy mô nhỏ, chỉ có 23 nhà
máy có công suất 3 triệu lít/năm, 30 nhà máy có công suất từ 1-2 triệu lít/năm,
còn lại đều có công suất dưới 1 triệu lít/năm.
Những nhà máy bia địa phương này nhập thiết bị đồng bộ từ nước ngoài,
chủ yếu là Cộng hoà liên bang Đức, Đan Mạch , nhiều nhà máy đã tự động
hoá từng phần, song chủ yếu sản xuất vẫn cơ giới, năng suất lao động cao,
22
chất lượng sản phẩm tốt. Một số cơ sở nhập công nghệ hay licence nước
ngoài. Các cơ sở này do suất đầu tư cao, sản xuất kinh doanh thiếu kinh
nghiệm, không có thị trường tiêu thụ, "gu" bia chưa hợp với thị hiếu người
tiêu dùng nên hiệu quả chưa cao, làm ăn thua lỗ, nợ Nhà nước hàng trăm tỷ
đồng.
Điều rõ nhất là 12 nhà máy bia địa phương, nhập thiết bị đồng bộ, tiên
tiến của nước ngoài. Mỗi nhà máy có vốn đầu tư 60 - 70 tỷ đồng, hoàn toàn
bằng vốn vay, nâng tổng số lên 1000 tỷ đồng. Nhưng do quy mô nhỏ (3-5
triệu lít/năm), suất đầu tư cao, bất cập với kỹ thuật công nghệ nên bia chai
làm ra không tiêu thụ được, nay chủ yếu phải tạm làm bia hơi. Doanh thu
thấp, không có khả năng hoàn vốn và trả nợ Ngân hàng, các nhãn hiệu bia
Kaiser, Nager, Henninger, Viger, Habada, Nada, Vida, Timer, Beyker là
hậu quả của những đầu tư sai, mà khi xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật
chắc rằng đều kết luận có hiệu quả cao !!! còn hiện nay đang khó khăn, chưa
có hướng giải quyết.
Bảng 3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Quốc doanh địa phương
Đơn vị Công suất Vốn đầu tư Sản lượng Doanh thu
1997
Lợi nhuận
1997
Nộp ngân sách
thiết kế (triệu

lít)
( triệu đồng) ( triệu lít) ( triệu đồng) ( triệu đồng) 1997(triệu
đồng)
114 Quốc
Doanh
435 1.219.618 283 1.067.910 -72.093 283.441
Qua bảng thống kê trên cho ta thấy:
* Suất đầu tư bình quân của các doanh nghiệp
quốc doanh địa phương
2.803,7 đ /lít bia
* Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp
quốc doanh địa phương
-165,7 đ /lít bia
* Nộp Ngân sách bình quân của các doanh nghiệp quốc
doanh địa phương
651,6 đ /lít bia
* Doanh thu bình quân của các doanh nghiệp
quốc doanh địa phương
2.455,0 đ /lít bia
* Bình quân lao động cho sản xuất kinh doanh
28,4 người /triệu lít bia
Để có sự đánh giá cụ thể về hiệu quả đầu tư giữa hai khu vực đầu tư
Trung ương và địa phương ta cần có sự so sánh về các mặt của hai khu vực
này:
23
Bảng 4: So sánh tỷ lệ của các chỉ tiêu đầu tư giữa hai khu vực
Trung ương và địa phương
* Suất đầu tư
54,28%
* Lợi nhuận bình quân ( tính theo giá trị tuyệt đối )

1280,59%
* Nộp Ngân sách
908,83%
* Doanh thu
439,18%
* Bình quân lao động
44,02%
Qua bảng so sánh trên cho ta biết, cùng nguồn vốn Nhà nước song kết quả
sản xuất kinh doanh tại khu vực Trung ương mang lại lợi nhuận nhiều hơn
cho Đất nước và cho doanh nghiệp. Từ đây ta cũng có thể thấy được việc đầu
tư phải tính toán kỹ lưỡng nhất là những bước ban đầu chuẩn bị dự án.
3. Bia liên doanh
Bia liên doanh là một dạng đầu tư mới, đồng bộ, nhiều bộ phận tự động.
Do đó suất đầu tư cho 1 triệu lít là cao nhất: 10.352 triệu đồng/ 1 triệu lít.
Những hãng bia này cung cấp cho thị trường 167 triệu lít, chiếm 25% thị
phần, nhưng phát huy công suất thấp (47,04%). Đó là do sản xuất ra sản phẩm
bia chưa phù hợp với người tiêu dùng, giá bán sản phẩm cao, đối tượng tiêu
dùng chọn vào những người có thu nhập cao, bán chủ yếu ở các nhà hàng,
khách sạn Vì vậy, 13 liên doanh được cấp giấy phép nhưng chỉ có 6 liên
doanh vẫn đang hoạt động. Liên doanh bia Hà Tây cũng mới xây dựng nhà
xưởng để lâu chưa lắp máy. Một số liên doanh quá lỗ như BGI Tiền Giang,
BGI Đà Nẵng phải bán cho hãng Foster's (Úc) thành 100% vốn nước ngoài,
còn BGI Hải Phòng phải rút giấy phép đầu tư, liên doanh bia Khánh Hoà cũng
thành 100% vốn nước ngoài và mang tên Rồng Vàng - Khánh Hoà.
4. Các doanh nghiệp sản xuất bia của các thành phần kinh tế khác
Sự đầu tư phát triển của các doanh nghiệp bia lớn ở Trung ương và ở các
địa phương, cùng 6 liên doanh với nước ngoài không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Vì vậy, hơn 300 cơ sở sản xuất bia hơi ở các địa phương và
của các thành phần kinh tế khác phát triển, cung cấp trên 100 - 200 triệu lít
bia/ năm.

Các cơ sở sản xuất bia hơi này có đủ loại quy mô khác nhau. Hàng trăm
"lò" bia mini công suất dưới 1000 lít/ngày của tư nhân, công ty TNHH, đơn vị
quân đội không chuyên ngành, gần trăm xưởng bia mini công suất từ 1000 -
24
5000lít/ngày. Ta chỉ cần có thu nhập bằng 50% thu nhập của người dân ở Hà
Nội là có thể mở xưởng bia.
Các xưởng bia này đều có thị trường riêng của mình. Đó là các thị xã,
thành phố, vùng nông thôn đông dân phát triển nhanh nhưng ở xa các nhà
máy bia lớn.
Hầu hết các cơ sở này với thiết bị tự chế tạo, lạc hậu; nguyên liệu malt,
houblon, nấm men thường mua rẻ, chất lượng kém; nguồn nước nấu bia
không đảm bảo vệ sinh, khâu nấu, lọc, lên men không tốt nên chất lượng
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Như vậy, chính sự phát triển tràn lan các cơ sở sản xuất bia và hoạt động
kém hiệu quả, nhất là của các thành phần kinh tế. Chất lượng, giá cả lại không
được quản lý dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Các hãng bia
liên doanh, dành nhiều kinh phí lớn vào quảng cáo, tiếp thị, tài trợ và cạnh
tranh mạnh với bia Sài Gòn, bia Hà Nội. Ngay cả Foster' Đà Nẵng, sau khi
mua lại của BGI, đã dùng biện pháp hạ giá và tiếp thị, cạnh tranh giành giật
thị trường, làm cho công ty bia Đà Nẵng lâm vào tình trạng khó khăn, sản
xuất giảm sút. Trên thị trường Hà nội, các đại lý quầy, quán thường treo biển
quảng cáo " Bia hơi Hà nội 100%" mục đích là lợi dụng của bia Hà Nội để
chiêu khách. Các nhà máy bia chủ lực sản xuất bia ở các địa phương cũng bị
các cơ sở nhỏ bán phá giá cạnh tranh. Còn rất nhiều hiện tượng sai trái khác
về làm bia tươi giả, bia Đức, bia lên men lậu v v
25

×