Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

một số ý kiến đóng góp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn hà nội trong giai đoạn tiếp theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 74 trang )

Mở đầu
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ, nhiều quốc gia bùng
nổ mạnh mẽ như Anh, Pháp, Mỹ, Tuy nhiên thì các nhà đầu tư tại các quốc
gia này đang có xu hướng chuyển dòng vốn đầu tư của mình tới các quốc gia
khác. Đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đầu tư tại các quốc gia này thì
nhà đầu tư co lợi nhuận cao hơn hẳn bởi tại đây chi phí đầu tư thấp( lao động
rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, ).Do đó đang có một luồng vốn lớn
chuyển vào các quốc gia đang phát triển. Nhưng dòng vốn ấy đầu tư một cách
có chọn lọc, mặt khác thì giữa các quốc gia, hay bản thân trong một quốc gia
thì sự cạnh tranh giữa các thành phố nhằm thu hút đầu tư cho địa phương
mình là rất lớn.
Hà Nội với lợi thế là thù đô, là trung tâm của cả nước nhìn chung tình
hình chính trị, trật tự xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng tương đối tốt. Nhưng vẫn
còn nhiều tồn tại trong môi trường đầu tư của Thành phố, nhiều yếu tố còn
kém so với các thành phố khác trong khu vực. Do vậy tình hình thu hút đầu tư
nước ngoài của Thành phố vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nhận thức
được điều này em chọn đề tài: “ Một số ý kiến đóng góp nhằm cải thiện môi
trường đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội
trong giai đoạn tiếp theo”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng không thể không tránh khỏi các sai
sót, do vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để
chuyên đề của em được hoàn thiện.
Em xin chân thành cám ơn!


1
Chương I . Môi trường đầu tư của Thành Phố Hà Nội và
tác động của nó tới việc thu hút ngồn vốn FDI trên địa bàn giai
đoạn 2001-2006.
1. Môi trường đầu tư của Thành phố Hà Nội.
1.1 Quan điểm về môi trường đầu tư.


1.1.1 Quan điểm về môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư là một yếu tố hết sức quan trọng vì nó là cơ sở thúc
đẩy đầu tư từ khu vực tư nhân phát triển - động lực cho tăng trưởng và giảm
nghèo. Nó làm tăng việc làm và thu nhập cho nhân dân, đồng thời nó cũng
làm cho giỏ hàng hoá của người tiêu dùng phong phú cả về số lượng, chủng
loại cũng như chất lượng. Mặt khác nó cũng củng cố nguồn thu thuế cho
chính phủ nhằm trang trải cho các mục tiêu xã hội khác. Và nhiều mục tiêu
của môi trường đầu tư tốt - bao gồm cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ, toà án,
thị trường tài chính phát triển - đã trực tiếp nâng cao đời sống của nhân dân
cho dù người đó không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Như vậy chúng ta
có thể thấy trách nhiệm của Chính phủ cũng như chính quyền mỗi địa phương
trong việc tạo dựng một môi trường đầu tư tốt, hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư. Thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư thì chúng ta có thể tăng cường
được nguồn vốn cho hoạt động đầu tư từ đó sẽ giải quyết được các vấn đề về
việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng đói nghèo.
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là môi trường đầu tư là những gì? Nó bao gồm
những yếu tố gì? Và nó có quan hệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế như
thế nào?
2
Môi trường đầu tư đó là tập hợp các yếu tố đặc thù của địa phương,
đang định hình cho các cơ hội để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc
làm và mở rộng sản xuất.
Môi trường đầu tư bao hàm trong nó nhiều thành tố, từ điều kiện tự
nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội đến khả năng sinh lợi của các hoạt động đầu
tư, từ sự sẵn sàng đồng thuận của chính phủ, chính quyền một quốc gia đến
chính quyền địa phương và các thể chế tương ứng.
Một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn gồm các tiêu chí: Cơ hội lợi
ích rõ ràng, tính cạnh tranh, khả năng linh hoạt trong vận động của các nguồn
lực, bản thân các nguồn lực có chất lượng phù hợp, tính minh bạch của các
thể chế và trách nhiệm môi trường cũng như quan hệ doanh nghiệp và xã hội

hài hoà và được tôn trọng.
Trong hệ thống các yếu tố tác động mạnh mẽ đến các quyết định đầu tư
của doanh nghiệp, thể chế đặc bệt là các thể chế kinh tế được xem là những
nhân tố quan trọng nhất tác động đến tính hấp dẫn cao hay thấp của môi
trường đầu tư một quốc gia trong tình hình hiện nay.
Đối với mỗi nhà đầu tư thì trước khi đi đến quyết định có nên đầu tư
hay không thì họ luôn luôn xem xét, cân nhắc yếu tố: Chi phí, rủi ro.Giữa các
yếu tố này, mỗi yếu tố đứng độc lập đều có ý nghĩa và đồng thời thì các yếu
tố này cũng có quan hệ với nhau. Một số dạng rủi ro chúng ta có thể giảm
được nếu chúng ta tăng chi phí và ngược lại.
Chi phí: Mỗi nhà đầu tư đều rất nhạy cảm khi đứng trước các cơ hội
đầu tư, mỗi khi thấy xuất hiện các cơ hội làm ăn thì ngay lập tức nhà đầu tư
bắt tay vào tìm hiểu xem xét, xem nó có thực sự khả thi không, nó có thực sự
là một cơ hội làm ăn thuận lợi, một cơ hội làm ăn có khả năng sinh lời lớn hay
không và để có đựơc câu trả lời cho những câu hỏi trên thì nhà đầu tư có rất
nhiều các thức khác nhau tuy nhiên thì một trong những cách thức được dùng
3
phổ biến đó là so sánh giữa chi phí và lợi ích. Trong đó chi phí là tất cả những
gì mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thu về được khoản lợi ích nhất định, nó bao
gồm rất nhiều yếu tố và nó là hàm thông thường của các hoạt động thương
mại như chi phí lập thẩm định dự án, chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí
mua nguyên vật liệu, chi phí quản lý, Tuy nhiên thì cũng có những khoản
chi phí bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ các hành vi của Chính phủ, trực
tiếp nhất là các khoản thuế, phí, lệ phí. Tuy vậy thì những khoản chi phí này
là rất quan trọng vì nó bảo đảm sự vận hành của bộ máy chính quyền cũng
như cải thiện môi trường đầu tư. Cụ thể nó là nguồn để thực hiện các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng, củng cố an ninh, quốc phòng, Vấn đề tạo dựng môi
trường đầu tư tốt thì chúng ta tin rằng các doanh nghiệp không những không
phản đối mà còn ủng hộ nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng có hiệu quả tránh lãng
phí và cái quan trọng hơn cả đó là đúng mục đích là cải thiện môi trường đầu

tư. Thí dụ: Chi phí liên quan đến tội phạm, tham nhũng, điều tiết, cơ sở hạ
tầng yếu kém chiếm đến 25% doanh số - hoặc hơn 3 lần số thuế mà doanh
nghiệp phải đóng góp, quy mô và cơ cấu của những khoản chi phí này có thể
có sự thay đổi rất lớn hay như việc đăng ký kinh doanh ở Ôxtrâylia chỉ mất 2
ngày trong khi phải mất đến 200 ngày ở Haiti. Như vậy liên quan đến yếu tố
Chi phí chúng ta có thể thấy các yếu tố chi phí cho các khoản Thuế, chi cho
cơ sở hạ tầng, lao động, tham nhũng,
Rủi ro: Như chúng ta đều biết đầu tư là sư hi sinh các nguồn lực ở hiện
tại nhằm thu về một khoản lợi ích lớn hơn trong tương lai. Như vậy một trong
những đặc điểm của hoạt động đầu tư đó là chứa đựng yếu tố rủi ro. Một hoạt
động đầu tư càng rủi ro, càng mạo hiểm thì lợi nhuận càng cao. Hoạt động
đầu tư thì mang tình chủ quan còn thị trường thì luôn biến động do vậy chúng
ta rất khó dự đoán hết được những rủi ro có thể xảy ra đối với công cuộc đầu
tư của chúng ta. Rõ ràng là một thị trường mà có nhiều cơ hội làm ăn có lời
4
trong khi môi trường ít biến động, mọi thứ nằm trong sư kiểm soát của chúng
ta thì có thể thấy nó hấp dẫn và chúng ta sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, thực hiện
đầu tư cho dự án thích hợp. Ví dụ đơn giản đó là "Khủng hoảng" nó sẽ làm
cho hàng hoá không bán được, sẽ dẫn tới hoạt động sản xuất bị đình trệ, kinh
doanh thua lỗ. Đồng nghĩa với đó là các nghĩa vụ về thuế, đối với Nhà nước
không thực hiện được và Chính phủ cũng sẽ không có tiền để cải thiện tình
trạng này, đó là tác động mang tính dây truyền. Đứng trước các yếu tố rủi ro
này thì chúng ta có thể nhận thấy không thể thiếu vai trò của Chính phủ trong
ổn định kinh tế vĩ mô, bằng các chính sách của mình thì Chính phủ sẽ ngăn
trặn được các yếu tố rủi ro, tăng tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư, tuy nhiên thì
hiện nay đang xảy ra một thực tế là đôi khi các chính sách còn là tăng sự rủi
ro bởi các chính sách do chính phủ đưa ra không thực hiện được vai trò của
nó, không giải quyết được các vấn đề thực tế thậm chí chúng còn cản trở, sự
biến động trong chính sách khiến nhà đầu tư không nắm bắt được và trở nên
hoang mang, đồng thời thì hiện nay tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa

chính sách và việc thực thi chính sách. Các cuộc điều tra cho thấy rằng nếu
doanh nghiệp tăng cường được khả năng tiên liệu được các chính sách thì có
thể làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư lên tới 30%. Yếu tố này
bao gồm Sự ổn định, quyền về tài sản, khả năng tiên liệu và mức độ ổn định
của các chính sách, phản ứng của người tiêu dùng và của đối thủ cạnh tranh,
Như vậy đối với mỗi quốc gia cũng như các địa phương thì việc cải
thiện môi trường đầu tư là hết sức quan trọng và khó khăn. Nhưng cải thiện
không đồng nghĩa với giảm tất cả chi phí, rủi ro mà chúng ta chỉ có thể giảm
thiểu tối đa chi phí cung như rủi ro nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
nhà đầu tư.
5
1.1.2 Quan hệ môi trường đầu tư, thu hút đầu tư và
phát triển kinh tế.
Hiện nay các nước trên thế giới có tốc độ tăng dân số một cách chóng
mặt, do trách nhiệm của Chính phủ cũng như chính quyền các địa phương
càng trở nên khó khăn, bài toán đặt ra là phải làm sao giải quyết được tình
trạng này, xoá đói giảm nghèo đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì
trách nhiệm này càng nặng nề. Tình trạng này chỉ có thể được giải quyết khi
mà khắc phục được tình trạng hiện nay đó là kinh tế kém phát triển.
Sơ đồ 1: Quan hệ môi trường đầu tư, thu hút đầu tư
và phát triển kinh tế

Môi trường
đầu tư.
Phát triển
kinh tế.
Thu hút đầu
tư.
Chúng ta phải tăng cường đầu tư, xây dựng các xí nghiệp thành lập các
công ty, nhằm giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

cho người dân. Như vậy chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư.
Như sơ đồ 1 chúng ta có thể thấy giữa ba yếu tố có quan hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau:
6
Ví dụ: Như khi mà chúng ta tạo dựng được một môi trường đầu tư tốt
và an toàn thì ngay lập tức chúng ta sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư thực
hiện đầu tư, bởi nó sẽ có lợi cho bản thân nhà đầu tư an toàn mà lại có lợi
chắc chắn sẽ đầu tư. Đồng thời với việc thực hiện đầu tư thì kết quả của công
cuộc đầu tư đó là các nhà xưởng, các cơ sở sản xuất, và khi đi vào vận hành
thì nó tác động đến cung, làm tổng cung tăng nên, mặt khác với việc nhiều
nhà xưởng được xây dựng thì vấn đề việc làm được giải quyết, nhiều lao động
có thu nhập và một phần thu nhập của họ được tiêu dùng và lại làm tổng cầu
tăng, tổng cầu tăng lại kích thích nhà đầu tư đầu tư thêm và thế là chúng ta sẽ
tao ra sự tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế. Và khi nền kinh tế phát
triển thì sự sẵn sàng đóng góp của các doanh nghiệp cho Chính phủ nhằm cải
thiện môi trường đầu tư càng cao và thể là môi trường đầu tư cũng ngày càng
tốt lên.
Như chúng ta đã biết môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố trực tiếp
tác động đến hoạt động đầu tư. Nó có thể có những tác động tích cực hoặc là
tiêu cực đến hoạt động đầu tư và môi trường đầu tư bao gồm rất nhiều yếu tố
do vậy cải thiện môi trường đầu tư tức là chúng ta phải giải quyết một cách
đồng bộ trong từng yếu tố chúng ta phải xác định đâu là tác động tích cực đâu
là tác động tiêu cực tới hoạt động đầu tư. Từ đó chúng ta phải có các giải
pháp nhằm phát huy tính tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của môi trường
đầu tư, cải thiện tốt môi trường đầu tư sẽ khuyến khích đầu tư, tạo cơ hội cho
tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Môi trường đầu tư được cải thiện
đồng nghĩa với việc Đảng và Nhà nước đảm bảo về các yếu tố như pháp luật,
chính sách ổn định từ đó tạo niềm tin và sự an tâm cho các nhà đầu tư từ đó
họ thiết lập , mở rộng và đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, giảm thiểu các chi
phí ra nhập thị trường, chi phí giao dịch qua đó tạo điều kiện cho doanh

nghiệp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
7
nghiệp, qua đó càng làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, huy động
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, lao động, tiếp thu được khoa học và công
nghệ tiên tiến ở cả trong và ngoài nước.
1.1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề cải thiện
môi trường đầu tư
Trong tình hình hiện nay thì cả trong nước và trên thế giới đang diễn ra
nhiều xu hướng biến động mạnh mẽ, nó tiềm ẩn nhiều cơ hội và thác thức lớn.
Hiện nay chúng ta có thể thấy có một dòng vốn đầu tư nước ngoài của
khu vực Mỹ, Châu Âu, đang đổ dồn về khu vực châu Á, mà đặc biệt là khu
vực Đông Nam Á. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế của các thành phố nói riêng và cả nước nói
chung. Nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, bị tàn phá, cơ sở vật chất
yếu kem, chúng ta phải xây dựng lại từ đầu. Đồng thời do nhiều nguyên nhân
cả khách quan và chủ quan mà nước ta có dân số phát triển khá nhanh kéo
theo lao động thì thừa, nhu cầu việc làm ngày càng tăng cao.Trong khi chúng
ta lại thiếu vốn. Do vậy muốn phát triển chúng ta phải thu hút được đầu tư từ
khu vực tư nhân đặc biệt là từ nước ngoài.Việc tiếp nhận nguồn vốn này có
đặc điểm chúng ta không phải nợ, thay vì nhận lãi suất trên vốn vay nhà đầu
tư tự tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và nhận phần lợi nhuận thích
đáng trên cơ sở vốn góp. Đầu tư nước ngoài sẽ cho chúng ta rất nhiều cái lợi,
nhà đầu tư vào nước ta cũng như trên địa ban Thành phố thì nhà đầu tư
không đơn thuần chỉ mang theo vốn đầu tư mà họ còn mang đến cho chúng ta
nhiều điều quan trọng hơn như máy móc thiết bị hiện đại, phương thức tổ
chức, qua đó thậm chí nó còn hình thành nhiều ngành mới đặc biệt là những
ngành đòi hỏi phải kỹ thuật cao,công nghệ hiện đại. Vì thế nguồn vốn này có
tác dụng cực kỳ lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
8
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý
để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nướctheo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
Có thể nói quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước thì Thành phố
Hà Nội đã chú trọng công tác hội nhập, đặc biệt là trong công tác kêu gọi và
sử dụng nguồn vốn FDI. Thành Phố đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, tuy nhiên thì những cái chưa làm được còn rất là
nhiều,môi trường đầu tư đã được cải thiện tuy nhiên thì vẫn kém hấp dẫn.
Chính vì vậy trong thời gian tới thì Thành Phố phải có các biện pháp khắc
phục những hạn chế tồn tại làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư.
1.2 Các yếu tố chính của môi trường đầu tư Hà Nội
1.2.1 Nhóm yếu tố liên quan đến chi phí hoạt động đầu tư
1.2.1.1 Thuế
Đối với doanh nghiệp thì phần lớn các khoản thuế phải nộp là các
khoản chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy trước khi quyết định đầu tư, nhà đầu
tư phải xem xét, tính toán các khoản thuế phải nộp. Trong quá trình xin cấp
phép đầu tư thì chủ đầu tư cũng nghiên cứu xem lĩnh vực mình hoạt động có
được ưu đãi gì không và sau đó đề nghị phòng Đầu tư nước ngoài - bộ phận
cấp phép ghi mức ưu đãi.
Đối với một công cuộc đầu tư thì nó rất kéo dài hàng chục thậm chí đến
hai, ba chục năm. Và các khoản chi phí thuế bắt đầu phát sinh từ khâu chuẩn
bị cho tới tận khi đưa dự án vào vận hành khai thác. Trong quá trình thực hiện
dự án thì nhiều nhà đầu tư nhập nguyên liệu từ nước ngoài và chúng ta biết
đến với các hình thức thuế suất nhập khẩu. Còn đối với một doanh nghiệp thì
9
chúng ta có thể thấy các hình thức thuế như: Thuế Giá trị gia tăng( VAT),
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế Giá trị Gia tăng(VAT): Là loại thuế gián thu, thu trên phần giá trị
tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các giai đoạn sản xuất, lưu thông đến

tiêu dùng. Thuế suất được quy định theo mức thuế suất cố định, căn cứ vào
hàng hoá, dịch vụ kinh doanh.
Theo hệ thống thuế giá trị gia tăng, " thuế đầu ra" được thu từ người
tiêu dùng bằng cách cộng thêm giá trị gia tăng vào số tiền phải trả. Tuy nhiên
thì bản thân doanh nghiệp cũng phải nộp thuế giá trị ra tăng cho các doanh
nghiệp cung ứng của họ. Doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế cho Nhà nước sau
khi đã khấu trừ khoản thuế đầu ra doanh nghiệp đã phải trả cho nhà cung ứng.
Chính vì vậy hiện nay trên địa bàn Thành phố đang xảy ra hiện tượng đó là
trốn thuế, lậu thuế bằng cách các doanh nghiệp mua chứng từ hoá đơn giả
mạo nhằm nhận khoản hoàn thuế hàng vài tỷ đồng, mặc dù doanh nghiệp
không hề hoạt động. Hiện nay thì trên địa bàn Hà Nội nói riêng và nước ta nói
chung thì trong cơ cấu thuế vẫn tồn tại nhiều vấn đề khá phức tạp.
Những hàng hoá và dịch vụ trước đây được xếp vào 11 mức thuế suất
doanh thu, nay VAT chuyển sang 4 mức, với các mức thuế suất: 0%, 5%,
10% và 20% . Khoảng cách là rất lớn từ 5 đến 20% như vậy nó đã và đang
gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, dẫn tới nhiều khiếu lại tố cáo về
vấn đề này. Hầu hết các doanh nghiệp cho rằng mức thuế 10% và 20% là qua
cao, chỉ nên áp dụng mức 5% . Một số doanh nghiệp lại yêu cầu bỏ mức thuế
20% Trên địa bàn Thành phố cũng như nước ta thi hành nhiều chính sách
nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài như miễn thuế, giảm thuế. Tuy nhiên
thì cơ chế này đã tạo không ít phiền hà như trong quá trình cấp phép đầu tư,
xác định mức ưu đãi, đồng thời nó đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Đây là một cơ chế rất tốt vì nó có thể khuyến
10
khích đầu tư vào các khu vực khó khăn, lĩnh vực cần đẩy mạnh đầu tư, nhưng
nhiệm vụ của Chính phủ là phải xây dựng các quy định khuyến khích hợp lý
vừ đảm bảo mức thu cho Chính phủ mà vừa không gây quá bất bình đẳng hay
vẫn tạo được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế được tính theo công thức
Thuế Số lượng Giá tính Thuế TTĐB

TTĐB = hàng hoá * thuế đ/vị * Thuế suất - được khấu trừ
phải nộp tiêu thụ hàng hoá đầu vào
Về bản chất thì thuế tiêu thụ đặc biệt giống như thuế VAT nhưng khác
với thuế VAT ở chỗ nó chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng hạn chế sản xuất,
kinh doanh hoặc xuất nhập khẩu.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Là thuế tình trên lợi nhuận trước thuế
( thu nhập trước thuế ) của doanh nghiệp mức thuế suất được quy định theo tỉ
lệ cố định căn cứ vào ngành nghề kinh doanh.
Ngoài ra doanh nghiệp còn chịu nhiều loại thuế khác tuỳ thuộc vào lĩnh
vực và ngành nghề kinh doanh.
Như vậy chúng ta có thể thấy một trong những yếu tố quan trong của
môi trường đầu tư đó chính là Thuế, vì nó cấu thành vào chi phí và do vậy nó
sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư. Như thế
chúng ta thấy rằng việc xây dựng các mức thuế suất khác nhau là hết sức quan
trọng, nó sẽ tác động trực tiếp tới quyết định đầu tư của chủ đầu tư. Vậy thì
câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta là thuế có tác động mạnh thê thì tại sao chúng
ta không miễn thuế hoàn toàn cho các nhà đầu tư đi, nhưng vấn đề là ở chỗ
thứ nhất qua công cụ thuế Chính phủ kiểm soát được hoạt động của các doanh
nghiệp, khống chê được công suất, nhằm thu được hiệu quả tối ưu cho toàn
11
xã hội. Yếu tố thứ hai đó là Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách và nó
đóng góp tỉ lệ quan trong trong cơ cấu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản: điện,
đường, trường tram, khách sạn, những yếu tố này chính là mồi cho những
luồng vốn đầu tư.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp phàn nàn về vấn đề hoàn thuế, Nhiều nhà
đầu tư cho rằng Thành phố chậm trễ trong hoàn thuế. Luật quy định việc hoàn
thuế phải được thực hiện trong vòng 15 ngày nhưng trên thực tế phải mất
hàng tháng, thậm trí hàng năm doanh nghiệp vẫn chưa được hoàn thuế. Đối
với doanh nghiệp thì phải tiến hành vay vốn để đầu tư, phải chịu lãi suất hàng
ngày do đó doanh nghiệp phải luôn tính toán sao cho mỗi đồng vốn của họ

đều phải sinh lời nhưng thực tế xảy ra tình trạng chậm trong hoàn thuế, tạo
cho doanh nghiệp một khoản vốn không sinh lời nằm tồn đọng, mà nguồn
thuế đó không những không thấp thậm trí còn chiếm tỉ lệ khá lớn trong cơ cấu
vốn của doanh nghiệp.
Nguyên nhân của hoàn thế chậm trễ có thể là do thủ tục hành chính quá
phức tạp, đội ngũ cán bộ thuế thiếu năng lực. Nhưng một yếu tố không kém
phần quan trọng đó là do rắc rối trong hoá đơn. Hoá đơn do Bộ tài chính ban
hành và hoá đơn do doanh nghiệp được phép in ấn phát hành gọi là hoá đơn
đỏ. Hoá đơn do cá hộ kinh doanh sử dụng và được lưu hành khá phổ biến hiện
nay là hoá đơn xanhvì chúng thường được in ấn bằng mực xanh.
Các cơ quan thuế lại chỉ chấp nhận hoá đơn đỏ. Những hàng hoá được
mua bằng hoá đơn xanh được coi là các hoá đơn không hợp pháp và các
khoản chi phí này đều không được chấp nhận dù có thật và khoản thuế từ
hàng hoá này đều không được hoàn thậm trí có thể bị phạt.
Việc thiếu hoá đơn tài chính trong chừng nực nhất định, là một khó
khăn khách quan vì nó nảy sinh từ trình độ kinh doanh thấp của một số lượng
lớn các hộ kinh doanh tại Việt Nam ( chỉ tính riêng trong lĩnh vực nông
12
nghiệp đã có đến 2 triệu hộ kinh doanh). Đa số các hộ kinh doanh chưa có khẳ
năng chấp hành hệ thống hoá đơn và kế toán theo tiêu chuẩn.
Bảng 1 : Doanh nghiệp coi thuế suất là một trong những
trở ngại hàng đầu của họ
Đơn vị: %
Tỷ lệ các nước trong đó doanh nghiệp coi
thuế suất là một trong những trở ngại chính
Trở ngại
lớn nhất
Một trong
ba trở ngại
lớn nhất

Một trong năm
trở ngại lớn nhất
Tất cả các nước 18 56 82
Các nước thu nhập trung bình cao 40 90 100
Các nước thu nhập trung bình thấp 12 35 71
Các nước thu nhập thấp 11 56 83
Đông Âu và Trung À 14 62 86
Châu Phi 33 67 83
Châu Á 14 29 71
Châu MỸ Latinh 50 50 50
Nguồn: Điều tra môi trường đầu tư của Ngân hàng Thế giới năm 2005.
Qua bảng 1: Chúng ta có thể thấy các doanh nghiệp, các nhà đầu tư rất
chú ý tới vấn đề thuế, hiện nay nước ta vẫn tồn tại nhiều biểu thuế với nhiều
mức thuế khác nhau đồng thời hiện nay bên cạnh các pháp lệnh về thuế và
luật thuế, thì tuỳ trong nhiều trường hợp phải có các văn bản hướng dân riêng.
Trên địa bàn Thành phố cũng vậy nhiều phát sinh trong vấn đề về thuế đối với
các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra không ít trở ngại. Các chính sách thuế
thường xuyên sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn tuy nhiên
13
chính điều này tạo tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư trong việc lập kế hoạch
cũng như hoạt động. Các nhà đầu tư nước ngoài có rất ít cơ hội để nắm bắt
các nguồn thông tin, nên thường nhầm lẫn về thu thuế và nộp thuể không biết
đến các quy định sửa đổi và bổ sung.
1.2.1.2 Cơ sở hạ tầng
Trong quá trình đầu tư thì các doanh nghiệp nhận được các điều kiện là
rất khác nhau. Ngay trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đầu tư thì có
doanh nghiệp chỉ mất có tuần, hai tuần nhưng cũng có những doanh nghiệp
phải mất tới vài tháng. Và như vậy thì các cơ hội đầu tư thuận lợi đã trôi qua,
thời điểm đầu tư tốt nhất đã không còn. Hay một ví dụ khác đó là trong quá
trình vay vốn nhiều doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục rất khắt khe mà

vẫn chưa chắc đã vay được vốn nhưng cũng có những doanh nghiệp thì rất rễ
vay vốn mà còn được ưu đãi về lãi suất và thời gian vay. Với những điều kiện
khác nhau này thì nó ảnh hưởng mạnh đến sự thành bại của doanh nghiệp, và
một trong những điều kiện đó là về cơ sở hạ tầng. Nó bao gồm các sân bay, hệ
thống đường giao thông, vận tải, hệ thống điện, nước, mạng lưới phân phối
khí đốt, hệ thống cầu cảng, viễn thông,
Những doanh nghiệp mà có cơ hội đầu tư tại các khu vực có điều kiện
cơ sở hạ tầng thuận lợi thì sẽ có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp khác. Ví
dụ: Trong giai đoạn vừa qua chúng ta có thể thấy Thành phố đã thực hiện cắt
điện ở một số quận, huyện nhằm thực hiện tiết kiệm điện. Nhiều doanh nghệp
cả trong và ngoài nước đã phải chịu ảnh hưởng mạnh, mất điện đồng nghĩa
với ngừng sản xuất và dẫn tới nhiều doanh nghiệp đã không thể hoàn thành
hợp đồng đúng thời hạn, phải chị phạt và khoàn tiền phạt này là rất lớn. Chính
điều này làm cho nhiều nhà đầu tư rất thận trọng, không dám mở rộng quy
mô, mà chỉ có thể sản xuất với quy mô hiện tại, hoặc phải chuyển địa điểm
đầu tư.
14
Các báo cáo cho thấy cơ sở hạ tầng ở Nam Phi và Nam Á yếu kém hơn
rất nhiều so với các khu vực còn lại. Tuy nhiên vấn đề bảo dưỡng và đặc biệt
là xây dựng mới hệ thống điện, hệ thống cung cấp năng lượng thường đòi hỏi
phải có một nguồn kinh phí rất lớn do vậy chúng ta hoàn toàn có thể hiểu tại
sao khu vực này cơ sở hạ tầng yếu kém, nhưng vấn đề không chỉ tồn tại ở
khâu huy động vốn. Các công trình này có nhiều đặc điểm rất khác biệt ví như
hệ thống đường sắt chẳng hạn. Chúng ta không thể để cho hai hay nhiều nhà
đầu tư xây dựng hai hay ba hệ thống đường sắt cùng đến một địa điểm để
cạnh tranh nhau. Chúng sẽ rất lãng phí nguồn lực, như vậy cơ chế thị trường
không thể điều tiết dẫn tới phải có vai trò của Chính phủ. Trên thực tê nguồn
thu ngân sách, cung như các nguồn vay ưu đãi khác thì rất hạn chế trong khi
lại cần rất nhiều vốn cho xây dựng cơ bản. Điều này làm hạn chế cơ sở hạ
tầng ở khu vực này, Chính phủ tiến hành đấu thầu thực hiện các công trình

này, tuy nhiên thì do chưa tạo được lòng tin nên các doanh nghiệp vẫn còn e
ngại các công trình xây dựng này sau khi vận hành, phải mất một thời gian rất
dài doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn, bởi họ phải đặt giá thấp cho các sản
phẩm cung ứng. Đồng thời các công trình này mang tính bất động, tức nếu
chính phủ không thực hiện về lời hứa thì doanh nghiệp cũng không thể di
chuyển công trình đi nơi khác.
Rõ ràng một Thành phố có cơ sở hạ tầng tốt sẽ hấp dẫn được các nhà
đầu tư. Một trong những vấn đề cơ bản của các Thành phố nhằm cải thiện cơ
sở hạ tầng đó là cải thiện hệ thống giao thông đi lại, cải thiện hệ thống điện,
hệ thống cung cấp nước, thoát nước, hệ thống cầu cảng,hệ thống viễn thông,
15
Biểu 1: Chi phí giao thông và viễn thông đang giảm
100

80
Vận tải biển
60

40 Vận tải hàng không

20 Viễn thông


0 1930 1940 1950 1960 1970 1980 1990 2000 năm
Chú thích: Chỉ số cho mọi loại dịch vụ là 100 vào năm 1930
Nguồn: BESSE.
Tuy nhiên hiện nay thì vấn đề nổi cộm của Thành phố, tác động không
nhỏ đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp đó là vấn đề về giao thông.
Hệ thống giao thông cũng như các dịch vụ hạ tầng khác là những đầu
vào trung gian. Nó góp phần làm cho các hoạt động khác tăng năng suất, đóng

góp vào tăng trưởng phát triển kinh tế cũng như xoá đói giảm nghèo. Đối với
các nhà đầu tư thì vấn đề giao thông có vai trò vô cùng quan trọng nó tác
động rất lớn tới các công cuộc đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận
đến các nguồn lực sản xuất như vốn, nguyên vật liệu, lao động, cung như tới
thị trường tiêu thụ góp phần làm giảm chi phí kinh doanh.
Hiện nay các Thành phố đang tìm mọi cách phát triển hệ thống giao
thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư. Và kéo theo có thể thấy
trong biểu 1 đó là các chi phí liên quan cũng đang có xu hướng giảm mạnh
mẽ. Điều này càng làm cho việc cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài
càng trở nên khốc liệt.
16
Phát triển giao thông nó liên quan đến cả ba nội dung phát triển bền
vững là kinh tế, xã hội và môi trường.
Sơ đồ 2: Tác động của giao thông vận tải tới phát triển bền vững.
Phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông
-Tính sẵn có
-Giảm chi phí
-Tiết kiệm thời gian
- Sự tiện lợi của các
dịch vụ
Phát triển kinh tế
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Cải thiện môi trường đầu tư.
- Tăng cường khả năng tiếp cận thị
trường cho các doanh nghiệp.
-Tăng cường năng lực canh tranh của
doanh nghiệp.

Phát triển bền vững

Phát triển xã hội
- Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y
tế, giảm tai nạn giao thông
- Giảm chênh lệch giữa các vùng
Môi trường
- Tiếng ồn
- Ô nhiễm không khí
Như vậy giao thông vận tải có tác động rất lớn tới phát triển bền vững
của một đô thị. Giao thông được coi là một yếu tố cơ bản của môi trường đầu
tư, nó có vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư của chủ
đầu tư.Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới năm 2005 thì giao thông vận tải
là một trong những trở ngại lớn nhất trong hoạt động kinh doanh. So với các
nước trong khu vực như singapore, indonesia, Thailan, thì vấn đề giao thông
của Việt Nam còn là vấn đề trở ngại lớn hơn.
17
Theo kết quả điều tra này có đến 24% các doanh nghiệp Việt Nam cho
rằng giao thông là rào cản đối với hoạt động kinh doanh. Bởi hiện nay chúng
ta đang xá còn thiếu, chất lượng đường kém, do đó làm chi phí vận tải là rất
lớn.
Theo đánh giá trong báo cáo về “môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi
người năm 2005” thì do chất lượng đường xá kém thế nên chi phí vận tải
chiếm khoảng 15% giá hàng ở Nga và khoảng 20% -40% ở Brazin. Trong khi
đó nó chỉ chiếm khoảng 7-8% ở Tây Âu và Hoa Kỳ bởi tại đây hệ thống giao
thông vận tải rất tốt. Như vậy chúng ta cũng có thể thấy tỷ lệ chi phí vận tải
chiếm một tỉ lệ rất cao trong giá thành sản phẩm, bởi chất lượng giao thông
vận tải của chúng ta vẫn chưa thể bằng Nga hayBrazin.
Biểu 2: Tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp cho rằng GTVT là yếu tố cản
trở đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
0%

5%
10%
15%
20%
25%
30%
Ấn Độ Malaysia Thái Lan Indonesia Philippines Việt Nam
Hà Nội là một trong những đầu mối giao thông hết sức là quan trọng.
Muốn phát triển Hà Nội thành một trung tâm kinh tế cho xứng tầm với các
thành phố trên thế giới, và tăng cường thu hút đầu tư thì chúng ta phải cải
thiện được môi trường đầu tư của thành phố

18
Hiện nay tuy đã được đầu tư khá nhiều nhưng vấn đề giao thông của Thành phố
vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại.
a. Cơ sở hạ tầng yếu kém
Tuy là trung tâm của cả nước nhưng giao thông Hà Nội vẫn rất yếu
kém, nghèo nàn và lạc hậu.
Bảng 2: So sánh hiện trạng đường phố Hà Nội với các Thành phố
lớn trong cả nước.
Tiêu chí Thành phố
Cả nước Hà Nội TPHCM Đà Nẵng
Diện tích (Km2) 329.241 927 2.095 1.256
Dân số(1000 người) 82.032 2.793 5.037 728,8
Tổng chiều dài đường(Km) 72.926 1.423 1.658 433
Mật độ đường 0,22 1,09 0,79 0,34
Độ dài đường trên 1000 dân (km/
1000dân)
0.95 0,36 0,33 0,59
Tỷ lệ diện tích đường trên tổng

diện tích
0,62 7% 6% 4,2%
Nguồn: TDSI,Bộ giao thông vận tải.
Theo bảng 2 ta thấy quỹ đất dành cho giao thông của Thành phố còn rất
thấp chỉ khoảng 2,5% trong khi ở Thành phố Hồ Chí Minh là 1,5%, trên thế
giới là 20-25%. Diện tích đường chỉ có 5,2 km2 trong tổng số 84,3km của 7
quận nội thành; ở ngoại thành chỉ có 770 km đường các loại chiếm khoảng
0,9% trong tổng diện dích đất ngoại thành. Mật độ đường ở Hà Nội chỉ có
1,9km/km2 thấp hơn rất nhiều so với các đô thị khác trong khu vực và trên
thế giới (5-6 km/km2). Không những tỉ lệ đường thấp thì việc phân bố rất
không đồng đều, Hoàn Kiếm tỉ lệ đường chiếm 12% diện tích, trong khi các
quận còn lại chỉ đạt 4-5%.Hầu hết 326 tuyến đường trong thành phố đều ngắn
và hẹp ngang, giao cắt nhiều các tuyến đường trong phố cổ chỉ có chiều rộng
từ 6-8m, các tuyến đường cũ từ 12-18m khoảng cách giữa các nút giao cắt chỉ
19
50-100m. Do hẹp ngang, đồng thời nhiều nút giao cắt nên ảnh hưởng tới tốc
độ các phương tiện trung bình chỉ đạt 17,7 đến 27,7 km/h.
Thành phố đang có chủ trương phát triển thành phố theo hướng Tây và
Tây- Nam do vậy hiện nay khu vực này dân số đang tập trung nhanh, đồng
thời các phương tiện cũng tăng nhanh bên cạnh đó thì giao thông tại khu vực
này vẫn chưa cải thiện nên thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông.
Để có thể đạt chỉ tiêu đất giành cho giao thông 20-25% bằng mức
chung của thế giới thì Thành phố cần 15 triệu m2 với tổng số tiền giải phóng
mặt bằng 210.000 tỷ đồng(14 tỷ $). Trong khi đó thì quy hoạch tổng thể của
thành Phố đến 2020 nhu cầu vốn cho giao thông chỉ có 5 tỷ $ do vậy nếu
Thành phố vẫn tiếp tục đầu tư cho giao thông thì càng làm cho luồng dân vào
thành phố càng nhiều, giá đất trong thành phố vẫn cao, đất đai tại các khu đô
thị mới càng không hấp dẫn, do đó Thành phố cần xây dựng quy hoạch rộng
hơn và cần xây dựng quy hoạch hệ thống giao thông vành đai thật tốt. Cần
xây dựng và hoàn thiện các hệ thống đường vành đai I, II, III xây mới tuyến

vành đai mới, vành đai IV.
b. Tắc nghẽn giao thông ngày càng nghiêm trọng.
Chúng ta có thể thấy bản chất của tắc nghẽn giao thông là do cơ sở hạ
tầng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đi lại. Đối với Hà Nội thì vấn đề tắc
nghẽn vẫn chưa nghiêm trọng bằng một số thủ đô khác trong khu vực như
Băngkok, Manila, Nhưng nó đang diễn ra ngày càng nhiều và với quy mô
ngày càng nghiêm trọng, thời gian tắc nghẽn kéo dài, tắc không chỉ còn diễn
ra ở quy mô nhỏ mà nó đã diễn ra trên quy mô hệ thống và nó có ảnh hưởng
không nhỏ tới kinh tế. Hà Nội hiện nay có đến hàng trăm điểm thường xuyên
xảy ra tắc nghẽn, thời gian tắc nghẽn ngắn thì 30-45 phút dài thì có thể vài
tiếng và đặc biệt nghiêm trọng là các điểm nút cửa ngõ thành phố như tuyến
20
Ngã Tư Sở; Diễn, Chúng ta có thể chí ra một số nguyên nhân của hiện tượng
tắc nghẽn đó là:
- Sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện giao thông
Tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông giai đoạn 2000-2006 là
26,7% đặc biệt là sư gia tăng của xe máy (năm 1985 xe máy chỉ có 7,5% thì
đến 2005 đã là 63,2% và năm 2006 là 72,2%).
- Tình trạng lấn chiếm đường giao thông và sự thiếu quỹ đất cho giao
thông tĩnh. Hiện nay thành phố vẫn thiếu rất nhiều cac bãi đỗ xe, mới chỉ có
135 điểm đỗ xe nhưng chỉ có một số điểm được đầu tư hiện đại. Tỷ lệ đất
giành cho giao thông tĩnh chỉ chiếm 1%, đến nay thì mới chỉ đáp ứng được
10% nhu cầu. 90% còn lại thì được đặt không đúng chức năng như vỉa hè,
lòng đường,
- Vận tải giao thông chưa hiệu quả`
- Mạng lưới giao thông đô thị hiện có mới chỉ có đường bộ chưa có
đường sắt trên cao, tàu điện ngầm,
- Dòng giao thông hỗn hợp, gồm nhiều loại có tốc độ khác nhau
- Ý thức tham gia giao thông của người dân còn kém.
c. Yếu kém trong công tác xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch

Hiện nay thì quy hoạch hiện tại của Việt nam bao gồm một số lượng
lớn các quy hoạch, trong đó có nhiều quy hoạch chồng chéo về địa bàn phạm
vi và chuuyên ngành. Viện chiến lược và phát triển giao thông( TDSI), Bộ
GTVT xây dựng quy hoạch quốc gia dài hạn và trung hạn, các Cục, Vụ
chuyên ngành của Bộ GTVT xây dựng quy hoạch và các chiến lược về các
ngành vận tải quốc gia, còn các Sở xây dựng chiến lược và quy hoạch cấp
tỉnh. Chúng ta có thể thấy các quy hoạch này hiện nay chưa có được sự gắn
kết các quy hoạch cấp tình và cả quy hoạch cấp quôc gia. Giữa các quy hoạch
này thiếu sự liên kết thống nhất, và cũng không có cơ quan nào đứng ra nhằm
21
phối hợp trong công tác phối hợp giữa các cấp nhằm tạo ra sự nhất quán. Quy
hoạch hiện nay chưa thực sự công khai, chưa có được sự đóng góp của dân.
Đồng thời thì hiện nay chưa phân rõ chức năng giữa các cơ quan trong quản
lý quy hoạch về chức năng xây dựng hiện nay vẫn tồn tại hai cơ quan đó là Sở
quy hoach kiến trúc Thành phố Hà Nội và Sở Xây dựng. Đồng thời nguồn
kinh phí chi cho công tác xây dựng quy hoạch và đông thời thì đội ngũ cán bộ
thiếu năng lực hoặc được sử dụng không đúng chức năng dẫn tới chất lượng
công tac lập kế hoạch và quy hoạch của Thành phố nói chung và kế hoạch
quy hoạch về giao thông nói riêng là rất kém, tính khoa học và khả thi chưa
cao.Một ví dụ thực tế là Thành Phố có phố Nguyễn Văn Cừ, Cầu Giấy, Chùa
Bộc, Phạm Văn Đồng mới chỉ được xây dựng gần đây trên dưới 10 năm
nhưng đến nay đã quá tải.
d. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải chưa đáp ứng nhu cầu
Hiện nay có thể thấy Thành phố đang phát triển với tốc độ rất nhanh,
nó đang đặt ra yêu cầu phải phát triển hệ thống giao thông vận tải sao cho phù
hợp với tốc độ phát triển. Tỷ trọng vốn dành cho cơ sở hạ tầng giao thông chỉ
chiếm 17% vốn đầu tư cho hạ tầng hiện nay hay 9,96% vốn đầu tư toàn xã
hội. Mặt khác tỉ lệ này lại giảm qua các năm.
Bảng3: Vốn đầu tư phát triển giao thông đô thị giai đoạn 2001-2005
Chỉ tiêu Đơn

vị
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng vốn đầu tư toàn
xã hội Tỷ
đồng
18.120 22.185 24.957 29.027 34.640
Tốc độ phát triển định
gốc
% 0 22,44 37,73 60,19 91,16
Tốc độ phát triển liên
hoàn
% 0 22,44 12,49 16,3 19,33
22
Tổng vốn đầu tư cho
giao thông
Tỷ
đồng
1.077,4 1.590,7 2.677,8 1.878,
2
4.909,2
Tỷ trọng so với tổng
vốn đầu tư toàn xã hội
% 5,94 7,17 10,72 6,47 14,17
Tốc độ phát triển định
gốc
% 0 47,63 148,53 74,32 355,63
Tốc độ phát triển liên
hoàn
% 0 47,63 68,34 -29,85 161,37
Nguồn: Sở giao thông công chính Hà Nội.

e.Khó khăn trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng
Hiện nay thì công tác đền bù giải phóng mặt bằng cũng như tái định cư
cho các hộ dân đang gặp rất nhiều khó khăn. Chủ yếu là chi phí đền bù quá
tốn kém Ví dụ: Tháng 12/2005 dự án đường Kim Liên - Ô chợ Dừa (Đường
vành đai I) được khởi công giá trị xây lắp 1080m chỉ hết 100 tỷ đồng trong
khi chi cho đền bù giải phóng mặt bằng là 600 tỷ. Năm 2002 để có 550m
đường đoạn Voi Phục - Cầu Giấy Hà Nội đã phải chi 8 triệu $ ( 113 tỷ đồng )
trong khi xây lắp chỉ mất 13 tỷ đồng.
1.2.1.3 Thị trường tài chính
Một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có vốn đầu tư, mà muốn có
vốn đầu tư thì cần phải có sự tích luỹ, tiết kiệm. Ngược lại một nền kinh tế
phát triển tốt thì lại có thể gia tăng tích luỹ nhằm tái đầu tư. Đó chính là quan
hệ nhân quả và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng sản xuất
kinh doanh và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên thì cũng tồn tại một thực tế là xã hội tồn tại hai bộ phận đó là
bộ phận những người có khoản tiển nhàn rỗi, nhưng họ lại không thấy được
các cơ hội đầu tư hoặc không dám mạo hiểm. Đồng thời cũng tồn tại bộ phận
thứ hai là những người có các cơ hội đầu tư nhưng vấn đề lớn nhất của họ là
23
không có vốn. Và thế là hình thành thị trường tài chính. Đó là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán các tài sản tài chính.
Yếu tố này có quan hệ mật thiết tới chi phí của doanh nghiệp và do đó
sẽ có ảnh hưởng thúc đẩy hoạt động đầu tư nếu như tính hoàn thiện cao và hỗ
trợ đắc lực cho những nhu cầu về vốn cho các chủ thể, tính chất này đồng
nghĩa với việc hạn chế chi phí đầu tư kinh doanh. Trái lại những chi phí đầu
tư sản xuất kinh doanh liên quan đến loại hình thể chế thị trường này làm phát
sinh tăng những yếu tố chi phí của doanh nghiệp tất sẽ dẫn đến giảm tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư. Chẳng hạn việc có những khoảng cách về tiếp cận
những khoản vay giữa những tác nhân kinh tế khác nhau cũng là một nhân tố
góp phần làm giảm động lực đầu tư. Ví dụ như việc các chủ thể thuộc khu vực

tư nhân khó tiếp cận với những khoản tài chính thuộc sở hữu nhà nước, khiến
họ phải tìm kiếm đến các nguồn khác với chi phí cao hơn và ít bình đẳng hơn
sẽ là một biểu hiện của môi trường đầu tư kém hấp dẫn và do đó không giải
phóng được hết các nguồn lực trong xã hội, đó cũng là hình ảnh của một môi
trường đầu tư không hấp dẫn. Đó là chưa kể tới tác động tiêu cực của một hệ
thống tỷ lệ lãi suất cao. Các thị trường tài chính thiếu ổn định, hiệu quả thấp
thường đi liền với lãi suất cao khi cho vay, từ đó cũng làm cho chi phí đầu tư
cao. Đây là một trong những điểm yếu khá phổ biến đối với các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam. Khi hoạt động tốt, các thị trường tài chính
liên kết các doanh nghiệp với những người cho vay và các nhà đầu tư muốn
cấp tiền cho các hoạt động kinh doanh và chia sẻ một số rủi ro của họ. Ngược
lại, việc thiếu tài chính và cơ sở hạ tầng tạ ra những rào cản cơ hội và làm
tăng các chi phí đối với nhiều doanh nghiệp nhỏ thậm chí ngay cả đối với các
công ty lớn hay tập đoàn đa quốc gia. Những thể chế hay những quy tắc và cơ
chế cũng như các tổ chức thực hiện việc điều tiết các hoạt động của thị trường
tài chính nếu như nó gây ra những chi phí bằng việc ngăn cản việc thâm nhập
24
mới vào các thị trường sẽ làm giảm những khuyến khích nhằm đổi mới và đầu
tư. Những can thiệp của chính phủ đối với thị trường tài chính không phải lúc
nào cũng thành công. Thị trường tài chính bị bóp méo khi việc thực hiện tín
dụng chỉ đạo một cách tràn lan. Từ đó làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp
khác, họ có thể phải mất chi phí để thực hiện vận động hành lang để có được
những khoản tín dụng chỉ định như vậy. Việc làm này đương nhiên hạn chế
các cơ hội tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp khác . Mặt khác đối
với một thể chế thị trường hoạt động tốt hay phát triển, nó sẽ cung cấp các
dịch vụ thanh toán hộ, trong đó Ngân hàng sẽ cấp cho các doanh nghiệp giấy
chấp nhận thanh toán đó. Nó là giấy bảo đảm rằng Ngân hàng sẽ thanh toán
vô điều kiện khoản tiền mà bên mua còn thiếu vào một ngày xác định. Khi
các thị trường tài chính này hoạt động tốt chúng tạo ra cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp khả năng nắm bắt cơ hội đầu tư tốt hơn. Chúng làm giảm sự lệ

thuộc của các doanh nghiệp vào các dòng tiền mặt tự tạo. Trên thực tế hiện
nay, các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có sự
khác biệt khá lớn về nguồn tài trợ cho kinh doanh. Việc tiếp cận các nguồn
vốn nhất là các ngân hàng chính thức để đầu tư đối với các doanh nghiệp lớn
và đối với một số quốc gia chẳng hạn như Việt Nam, thông thường đơn giản
so với các doanh nghiệp nhỏ. Nguyên nhân kinh tế thường xuất phát từ chỗ
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường có những dự án chưa thực sự
hấp dẫn đối với các ngân hàng, do đó việc cân nhắc cũng là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên, nhiều khi nguyên nhân tâm lý cà chính trị cũng có thể là cản trở chính .
Trong trường hợp như thế khó có thể nói đó là một môi trường đầu tư có độ
hấp dẫn cao. Tác động tương tự tới môi trường đầu tư dói với những thể chế
quy định về việc linh hoạt trong chu chuyển các nguồn lực tài chính với tư
cách là kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi
việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài còn chưa được tự do hoá cũng là tác
25

×