Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BIỆN CHỨNG GIỮA cái CHUNG và cái RIÊNG TRONG vận DỤNG xây DỰNG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.14 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
VI N ĐÀO

T O ẠQUỐỐC TẾỐ
Institute of International Finance Education
DUAL DEGREE PR OGRAMME- DDP

ESSAY | TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Title of the essay :

BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG TRONG VẬN DỤNG XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Course name:

PHILOSOPHY OF MARXISM AND LENINISM
(TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN)

Academic Year (Semester):

2021-2022 (Semester 1)

Student Full Name:

HOÀNG NGÂN THU

IIFE ID:

DDP0602065



Class Code:

TRIET0601

Mentor:

TS. NGUYỄN VĂN SANH

Word count:

6141

Hanoi, October 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................3
I.

LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI .........................................................................................................3

II.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP TRIỂN KHAI, KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN . .4

1.
2.
3.


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU..................................................................................................................4
PHƯƠNG PHÁP TRIỂN KHAI...........................................................................................................4
KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN..............................................................................................................4

CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................................................4
I.

KHÁI NIỆM CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG ................................................................................4

1.
2.

KHÁI NIỆM “CÁI RIÊNG”...............................................................................................................4
KHÁI NIỆM “CÁI CHUNG”.............................................................................................................5

II.

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG ..................................... 5

1.

“CÁI CHUNG” TỒN TẠI BÊN TRONG “CÁI RIÊNG”, THÔNG QUA “CÁI RIÊNG” ĐỂ BIỂU HIỆN SỰ TỒN
TẠI CỦA MÌNH......................................................................................................................................5
2. “CÁI RIÊNG” TỒN TẠI ĐỘC LẬP, SONG SONG KHƠNG BIỆT LẬP VỚI “CÁI RIÊNG” KHÁC MÀ NẰM
TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI “CÁI RIÊNG” ĐỂ DẪN TỚI “CÁI CHUNG”......................................................5
3. “CÁI CHUNG” LÀ BỘ PHẬN CỦA “CÁI RIÊNG”, “CÁI RIÊNG” LÀ TOÀN BỘ NHƯNG PHONG PHÚ HƠN

“CÁI CHUNG”.......................................................................................................................................6
4. “CÁI ĐƠN NHẤT” VÀ “CÁI CHUNG” CĨ THỂ CHUYỂN HỐ CHO NHAU TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦA SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG...........................................................................................................6

III.

Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN ...................................................................................7

1.
2.

PHẢI XUẤT PHÁT TỪ CÁI RIÊNG ĐỂ TÌM “CÁI CHUNG”..................................................................7
CẦN NGHIÊN CỨU, CẢI BIẾN “CÁI CHUNG” TRƯỚC KHI ÁP DỤNG “CÁI CHUNG” VÀO TỪNG
TRƯỜNG HỢP “CÁI RIÊNG”...................................................................................................................7
3. KHÔNG ĐƯỢC LẢNG TRÁNH GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG KHI GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ
RIÊNG..................................................................................................................................................7
4. KHI CẦN THIẾT, CẦN TẠO ĐIỀU KIỆN CHO “CÁI ĐƠN NHẤT” BIẾN THÀNH CÁI CHUNG VÀ NGƯỢC
LẠI 8
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG TRONG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ...............................................................8

1


I.

NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ..............................................................................8

1.
2.
3.

KHÁI NIỆM NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG............................................................................................8
TÍNH TẤT YÊU PHẢI XÂY DỰNG NÊN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG....................................................9

MỐI QUAN HỆ “CÁI CHUNG” VÀ CÁI RIÊNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO CƠ CHẾ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VỚI KINH TẾ THẾ GIỚI................................................................................10

II. THÀNH TỰU VÀ KHÓ KHĂN TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM ..........................................................................................................................................12
1.
2.

THÀNH TỰU................................................................................................................................12
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP................................................................................................13

KẾT LUẬN .........................................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................15

2


MỞ ĐẦU
I.

Lý do lựa chọn đề tài
Trong suốt lịch sử phát triển và hình thành của Việt Nam, chúng ta cũng như bao

nhiêu quốc gia khác gặp rất nhiều những khó khăn trong việc phát triển nền kinh tế. Từ
những ngày còn áp dụng chế động Phong kiến, Việt Nam đã sai lầm khi thực thi một nền
kinh tế đóng kín; hạn chế giao thương, bn bán với nước ngồi. Chính vì vậy mà xã hội
Việt Nam vào thời kì cuối thế kỉ không thể phát triển, trở nên lạc hậu với thế giới và trở
thành mục tiêu xâm lược của thực dân Pháp. Để cuối cùng Việt Nam đã trở thành thuộc
địa của Pháp vào năm 1884. Tuy nhiên đến khi giành được độc lập và bước vào thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam lại quá vội vàng muốn phát triển đất nước mà áp

dụng hình thức nền kinh tế bao cấp. Điều đó đã làm cho Việt Nam càng chậm phát triển
vì xu hướng của thế giới bấy giờ một nền kinh tế thị trường, cởi mở, khác hẳn với một bộ
máy kinh tế tự cung tự cấp bảo thủ, khép kín. Nhận thức được những tác hại của cơ chế
bao cấp đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đưa ra một quyết định quan trọng nhằm
chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ một nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội- chủ nghĩa. Qua đó giúp nền kinh tế Việt Nam có thể phát triển
vững mạnh và theo kịp các cường quốc khác trên thế giới.
Vào những ngày đầu chuyển đổi, Việt Nam cũng gặp rất nhiều khó khăn, thử
thách. Tuy nhiên, bằng việc vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tiêu biểu
là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, Đảng và Nhà nước đã thành công đưa nền
kinh tế nước nhà thoát khỏi khủng hoảng và tiến vào công cuộc xây dựng một nề kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển vững chắc và nhanh chóng hội nhập
với thế giới.
Chính vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài: Biện chứng giữa cái chung và cái
riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam để nghiên cứu trong tiểu
luận. Qua đề tài này, em muốn phân tích, làm rõ những ứng dụng của mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam và những lợi ích. Từ

3


đó, em sẽ nêu lên quan điểm, suy nghĩ cá nhân và giúp mọi người có cách nhìn rõ ràng và
chi tiết hơn về đường lối phát triển của đất nước.

II.

Mục tiêu nghiên cứu, phương pháp triển khai, kết cấu của tiểu luận
1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và


cái riêng, ý nghĩa của phương pháp biện chứng. Từ đó, thấy được hiệu quả của việc áp
dụng mối quan hệ biện chứng vào trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua đó, ta có thể nhìn ra được những thành tựu
và khó khăn mà nền kinh tế đất nước đang mắc phải.
2. Phương pháp triển khai
Thứ nhất, nêu lên định nghĩa về “cái chung”, “cái riêng” và mối quan hệ biện
chứng của chúng. Thứ hai, nêu lên đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam so với thế giới.
Thứ ba, nêu lên những thành tựu, khó khăn của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và đề xuất
những giải pháp.
3. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm hai phần: Phần “cơ sở lý luận” và phần “mối quan hệ biện chứng
giữa cái chung và cái riêng trong hoạt động xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”

CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.

Khái niệm cái riêng và cái chung
1. Khái niệm “cái riêng”
“Cái riêng” là một phạm trù Triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng hay

một quá trình sản xuất riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ như con người
với tất cả những yếu tố cấu thành như cơ thể, tính cách,.. là một cái riêng; một ngôi nhà
với những thành phần như tường, cửa, mái- những thứ để tạo nên một ngơi là hồn chỉnhlà một “cái riêng”;…
Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng giữa “cái riêng” và “cái đơn nhất”. “Cái đơn
nhất” là một phạm trù Triết học dùng để chỉ những đặc điểm, thuộc tính chỉ có ở kết cấu

4


vật chất này và không thể lập lại ở kết cấu vật chất khác. Ví dụ như với con người cái đơn

nhất chính là dấu vân tay; Hà Nội là thủ đơ của Việt Nam thì đó là “cái đơn nhất”;…
2. Khái niệm “cái chung”
“Cái chung” là một phạm trù Triết học dùng để chỉ những đặc điểm, thuộc tính
khơng chỉ có ở kết cấu vật chất này mà cịn được lặp lại ở kết cấu vật chất khác.Ví dụ:
bún và phở đều có cái chung là được làm từ gạo; Hải Phịng và Đà Nẵng có cái chung là
đều là những thành phố của Việt Nam;…
“Cái chung” thường bao gồm những quy luật, sự lặp lại. Ví dụ như quy luật giá trị
thặng dư, quy luật cung- cầu có cái chung là đều là những đặc điểm mà mọi nền kinh tế
trên thế giới đều phải tuân theo.

II.

Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Triết học duy vật biện chứng cho rằng cả hai cặp phạm trù “cái chung” và “cái

riêng” đều có mối quan hệ biện chứng thân thiết với nhau và cả hai đều cùng tồn tại một
cách khách quan.
1. “Cái chung” tồn tại bên trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng” để biểu
hiện sự tồn tại của mình
Điều này có nghĩa là khơng có một “cái chung” nào tồn tại ở độc lập ở bên ngồi
“cái riêng”. Ví dụ: Trong nền kinh tế, quy luật bóc lột giá trị thặng dư là một đặc điểm
chung của các nhà tư bản. Thế nhưng quy luật đó khơng được thể hiện ra bên ngồi theo
một cách giống nhau mà nó xuất hiện dưới những biểu hiện khác nhau của mỗi nhà tư
bản;… Như vậy, có thể đi đến kết luận rằng rõ ràng “cái chung” khơng tồn tại ngồi “cái
riêng” mà bắt buộc phải thơng qua “cái riêng”.
2. “Cái riêng” tồn tại độc lập, song song không biệt lập với “cái riêng” khác
mà nằm trong mối quan hệ với “cái riêng” để dẫn tới “cái chung”
Điều này có nghĩa là khơng một “cái riêng” nào tồn tại một cách tuyệt đối độc lập,
khơng có liên hệ với “cái chung”. Ví dụ: mỗi con người là một “cái riêng”, nhưng con
người khơng bao giờ có thể tách rời với mối quan hệ với xã hội và tự nhiên xung quanh

(cái chung). Khơng có một cá nhân nào không chịu ảnh hưởng bởi những tác động sinh
học và những quy luật của mơi trường bên ngồi; hay như trong nền kinh tế, quy luật
5


cung- cầu và quy luật quan hệ sản xuất là những cái riêng nhưng chúng không bao giờ rời
xa khỏi nền kinh tế (cái chung);… Như vậy, có thể thấy được rằng bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới khách quan đều có mối quan hệ chặt chẽ với “cái chung”, không
thể tách rời.
3. “Cái chung” là bộ phận của “cái riêng”, “cái riêng” là toàn bộ nhưng
phong phú hơn “cái chung”
Nói “cái riêng” phong phú hơn “cái chung” là bởi vì ngồi những đặc điểm chung
thì “cái riêng” còn bao gồm cả “cái đơn nhất”. Còn “cái chung” lại sâu sắc, ổn định hơn
“cái riêng” vì chúng phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, lặp lại ở
nhiều “cái riêng” cùng loại. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam là một cái riêng. Giống như
nhiều nền kinh tế trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng có những đặc điểm: giao
thương với các nước trên thế giới, được cấu thành bởi nhiều thành phần kinh tế khác
nhau,…Nhưng nền kinh tế Việt Nam cũng có những “cái đơn nhất”: cơ chế thị trường
hướng xã hội chủ nghĩa, đi theo những mục đích và hướng dẫn chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước;…
Chính vì vậy, qua đây, có thể rút ra được một quy luật giữa “cái chung” và “cái
riêng” đó là “cái riêng” bằng với “cái chung” cộng với “cái đơn nhất”. Đó cũng chính là
mối quan hệ bao trùm giữa “cái chung” và “cái riêng”.
4. “Cái đơn nhất” và “cái chung” có thể chuyển hố cho nhau trong q
trình phát triển của sự vật, hiện tượng
Trong hiện thực cuộc sống, cái mới bao giờ cũng xuất hiện với tư cách là một “cái
đơn nhất”. Về sau trải qua quãng thời gian phát triển, cái mới dần hoàn thiện và thay thế
cái cũ, trở thành đặc điểm, thuộc tính, “cái chung”. Nhưng khi xã hội phát triển, “cái
chung” trở nên lỗi thời thì sẽ bắt đầu bị đào thải và khơng cịn được áp dụng, trở thành
“cái đơn nhất”. Ví dụ: nền kinh tế tồn tại chỉ huy đã tồn tại ở miền Bắc Việt Nam từ trước

năm 1975, dưới chế độ của Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, đó chính là cái đơn nhất. Đến
đầu 1976 tới cuối 1986, nền kinh tế bao cấp học tập theo cơ chế của Liên Xô trở thành
nền kinh tế của cả nước, trở thành “cái chung”. Nhưng sau đó, do sự lạc hậu của cách làm

6


này, Đảng và Nhà nước đã quyết định thay đổi nền kinh tế. Từ đó, chế độ bao cấp bị loại
bỏ và quay trở lại làm “cái đơn nhất”.

III.

Ý nghĩa của phương pháp luận
1. Phải xuất phát từ cái riêng để tìm “cái chung”
Bởi vì “cái chung” chỉ tồn tại và thơng qua “cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu,

nghiên cứu về “cái chung” ở bên trong “cái riêng” chứ khơng thể bên ngồi, tách biệt “cái
riêng”. Chính vì vậy, để hiểu về “cái chung”, phải bắt đầu từ những sự vật, hiện tượng
riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý chí chủ quan của con người.
2. Cần nghiên cứu, cải biến “cái chung” trước khi áp dụng “cái chung”
vào từng trường hợp “cái riêng”
“Cái chung” tồn tại như là một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận ấy có sự tác động
qua lại với những “cái chung” khác của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”.
Chính vì vậy, bất cứ “cái chung” nào tồn tại trong “cái riêng” cũng đều dưới dạng đã bị
cải biến. Điều này có nghĩa là sẽ ln có những sự khác biệt nhất định giữa “cái chung”
nằm trong “cái riêng” này và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia. Tuy nhiên, sự khác
biệt đó cũng rất nhỏ, khơng đủ làm thay đổi bản chất của “cái chung”. Do đó, để có thể
áp dụng “cái chung” vào “cái riêng” thì cần phải cải biến và thay đổi. Nếu khơng thì “cái
chung” rất dễ bị rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh. Ngược lại, nếu
xem thường “cái chung”, tuyệt đối hố “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc bảo

tồn cái vốn có mà khơng chịu tiếp thu, lắng nghe bên ngồi. Ví dụ: chuỗi nhà hàng nổi
tiếng thế giới McDonald đều có một thực đơn với một số món là chính cho tất cả những
chi nhánh. Nhưng đối với từng thị trường riêng biệt, họ lại thêm vào những món ăn khác
nhau để phù hợp với sở thích và thói quen của mỗi quốc gia. Chính vì sự chủ động thay
đổi cái chung này, McDonald đã trở thành một trong những chuỗi đồ ăn nhanh thành
công nhất thế giới.
3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết
những vấn đề riêng
Vì “cái riêng” ln gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, khơng tồn tại mối liên hệ bên
ngồi dẫn tới “cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu
7


quả, thì khơng thể bỏ qua được việc giải quyết nhưng vấn đề chung. Nếu ta không giải
quyết những vấn đề chung, thì sẽ sa vào tình trạng mị mẫm. Nếu bắt tay vào nghiên cứu
những vấn đề riêng trước thì những vấn đề chung sẽ khơng có định hướng mạch lạc.
4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành cái
chung và ngược lại
Trong quá trình phát triển của sự vật, với những điều kiện nhất định thì “cái đơn
nhất” có thể phát triển và biến thành “cái chung” và ngược lại. Nên trong cuộc sống, ta
cần phải cố gắng tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể để “cái đơn nhất” chuyển hố được
thành cái chung, nếu điều này có lợi. Ngược lại, phải tìm cách khiến cho những “cái
chung” tiêu biến, trở thành cái đơn nhất, nếu như điều này khơng cịn phù hợp.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và
“cái chung” nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một cách vững chắc, theo
đuổi kịp các quốc gia khác, đồng thời cung cấp cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa.

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ

TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
I.

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều

loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh
bình đẳng và ổn định. Theo Xmit (Adam Smith), với lí thuyết bàn tay vơ hình thì nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường và gần
như khơng có sự can thiệp của Nhà nước.
Như vậy, có thể nói, nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế- xã hội mà ở đó
các hoạt động kinh tế đều do quy luật của thị trường điều tiết và chi phối, với các đặc

8


điểm nổi bật như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doang, tự do
thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do cung- cầu,…
2. Tính tất yêu phải xây dựng nên nền kinh tế thị trường
Đặt trên phương diện lịch sử, Việt Nam ta bắt nguồn từ nền kinh tế phong kiến lạc
hậu, cũ kĩ. Ngoài ra, nước ta còn phải chịu ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh xâm lược
kéo dài với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính vì những lý do kể trên mà nền kinh tế
cũng như những cơ sở vật chất vốn ít ỏi của Việt Nam lại càng bị phá hoại nặng nề. Ngay
sau chiến tranh, Việt Nam đã xây dựng nền kinh tế bao cấp, ké hoạch hoá tập trung dựa
trên hình thức cơng cộng về sở hữu tư liệu sản xuất. Trong thời gian đầu, với sự giúp đỡ
của các nước trong hệ thống Xã hội chủ nghĩa, mơ hình kế hoạch hố đã thể hiện được
tính ưu việt của nó. Nền kinh tế kế hoạch hố lúc này đã tỏ ra rất phù hợp với Việt Nam,
trở thành một động lực vững chắc cho tiền tuyến. Đến sau khi hồn thành giải phóng
miền Nam, nền kinh tế của nước ta tồn tại ba thái cực: kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế tập

trung và kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên do sự khơng hài hồ giữa các nền kinh tế, sự chủ
quan cứng nhắc, không cân nhắc sự phù hợp của cơ chế Việt Nam đã không tạo được
động lưc cho nền kinh tế phát triển mà lại gây ra lãng phí tài ngun, ơ nhiễm mơi
trường. Vào lúc này, những nước Xã hội chủ nghĩa cũng cắt giảm viện trợ. Chính vì tất cả
những lý do đó mà vào khoảng thời gian những năm 80 của thế kỉ trước, nước ta lâm vào
một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân sa sút. Nguyễn nhân dẫn đến tình
trạng này có thể kể đến một số lý do. Ta đã thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất trên
quy mô lớn trong điều kiện đất nước chưa cho phép. Điều này đã dẫn tới một bộ phận tài
sản vô chủ và không sử dụng đúng nguồn lực vốn đang khan hiếm của đất nước khi dân
số đang gia tăng với tốc độ nhanh. Trong khi tổng sản phẩm quốc dân thấp, ta vừa phân
phối theo hình thức bình quân vừa phân phối theo hình thức gián tiếp, dẫn tới làm mất
động lực phát triển. Nhà nước quản lý kinh tế nhưng lại sử dụng các khung thời gian,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến, không phù hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản
xuất. Và bởi vì là nền kinh tế do Nhà nước chi phối nên ngườ tiêu dùng khơng kích thích
được sự sáng tạo của người lao động.

9


Do q tập trung vào bên ngồi “cái riêng”, đó là mục tiêu phát triển, xây dựng mà
quên đi “cái riêng” là sở hữa cá nhân và tư nhân. Điều đó là trái với mối quan hệ biện
chứng giữa “cái chung” và “cái riêng” và quy luật của sự phát triển, làm kìm hãm sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Đồng thời, trước sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới
khi các nước tư bản đã chuyển sang cơ chế thị trường. Đó đều là những địi hỏi cấp bách
bắt buộc phải thay đổi phương hướng nhằm cải thiện nền kinh tế. Đó chính là lý do để
khiến cái chung trở thành cái đơn nhất- khiến cho nền kinh tế trong nước bắt kịp tốc độ
của thế giới.
Chính vì vậy mà tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã có một quyết định lịch
sử về việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường, đánh dấu một
thay đổi lớn của đất nước. Tuy nhiên, việc chuyển đổi cần tiếp thu bản chất chứ khơng

chỉ dừng lại ở hình thức, cần phải áp dụng “cái chung” một cách phù hợp nhưng cũng
phải giữ được “cái đơn nhất” đặc trưng, cần thiết của nền kinh tế đất nước.Từ đó xây
dựng một nền kinh tế mới về chất, cho thấy sự phát triển, phủ định biện chứng đối với
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trước những yêu cầu đó, Đảng và Nhà nước ta đã quyết
định xây dựng nên một nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
chuyển đổi này mặc dù đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho Chính phủ, tuy nhiên đây là một
hướng đi đúng đắn cho đất nước và là một bước phát triển cần thiết đúng theo quy luật
biện chứng cái chung và cái riêng.
3. Mối quan hệ “cái chung” và cái riêng của nền kinh tế thị trường theo
cơ chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với kinh tế thế giới
Mặc dù nền kinh tế của Việt Nam theo một cơ chế đặc biệt, thế nhưng theo mối
quan hệ biện chứng giữa “cái chung” và “cái riêng”: “cái riêng” tồn tại độc lập, song
song bên cạnh cái riêng khác nhưng không biệt lập mà nằm trong mối quan hệ “cái riêng”
dẫn tới “cái chung”. Nền kinh tế của Việt Nam cũng có những đặc điểm chung của nền
kinh tế thế giới. Nền kinh tế của Việt nam bắt buộc phải tuân theo những quy luật như
quy luật tiền tệ, quy luật cung- cầu,… giống như thế giới. Cũng như tất cả các nền kinh tế
khác, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi thị trường và các xu hướng của thế giới. Nền kinh

10


tế của Việt Nam cũng là một nền kinh tế hội nhập, luôn sẵn sàng gia nhập với thế giới, áp
dụng các công nghệ kĩ thuật cao.
Nền kinh tế của Việt Nam là một nền kinh tế đặc biệt, nền kinh tế tuân thủ theo
mọi quy tắc, hoạt động của nền kinh tế thị trường nhưng đồng thời đảm bảo những yêu
cầu của chủ nghĩa xã hội, có sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước. Điều
này đã được thể hiện qua các mặt: mục tiêu kinh tế; đặc trưng về sở hữu, cơ cấu kinh tế;
phân phối; cơ chế vận hành của nền kinh tế; phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh
tế.
Về mục tiêu kinh tế, “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa là phát triển sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân” [1]
Về đặc trưng sở hữu, trước đổi mới, nước ta với nền kinh tế bao cấp chỉ có duy nhất một
chế độ về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu. Nhưng từ khi tiến hành đổi mới, nền kinh
tế của nước ta xuất hiện cả hai đối tượng sở hữu: tư hữu và công hữu.
Về cơ cấu kinh tế, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều thành phần kinh tế đa
dạng khác nhau, trong đó thì kinh tế tư nhân là một động lực qua trọng của nền kinh tế,
tuy nhiên Nhà nước vẫn đóng vai trị chủ đạo. Việc có nhiều thành phần tham gia đóng
góp và nền kinh tế sẽ tạo nên sự cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Về đặc trưng phân phối, khác với chế độ bao cấp, nền kinh tế thị trường phân phối
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp nguồn vốn và các điều kiện khác,
dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi
Nhà nước là chủ thể phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối
lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Về cơ chế vận hành, kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế. Vì
có sự quản lý của Nhà nước nên nền kinh tế có hiệu quả trên cơ sở đảm bạo lợi ích quốc
gia. Đồng thời do có sử dụng cơ chế thị trường nên nền kinh tế được kích thích sản xuất,
phát triển những vẫn tránh được những hạn chế tiêu cực của nền kinh tế thị trường như
các nước tư bản do theo hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy ta có thể thấy Đảng và Nhà
11


nước đã nghiên cứu rất kĩ “cái chung”, thay đổi cái chung cho phù hợp trước khi áp dụng
vào cái riêng.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó là một nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện
đại hố.
Như vậy, có thể nói, nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa là một nền
kinh tế vừa có những cái chung và những cái đơn nhất so với nền kinh tế thế giới. Thể

hiện rõ mối quan hệ “cái chung” là một bộ phận của “cái riêng” trong Triết học. Trong
đó, cả “cái chung” và “cái đơn nhất” đều đóng vai trò là hai bộ phận quan trọng để thúc
đấy “cái riêng”- nền kinh tế- phát triển.

II.

Thành tựu và khó khăn trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam
1. Thành tựu
Trải qua 35 năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã

đạt được những thành tựu tích cực từ khi bắt đầu đổi mới. Tính đến năm 2016, 30 năm
sau khi đất nước mở cửa, Việt Nam đã có những cột mốc nhất định.
Xét về lĩnh vực con người, người Việt Nam đã thể hiện được sự năng động, nhanh
nhạy đặc biệt đối với sự chuyển dịch của thị trường hơn hẳn những năm 80.
Về lĩnh vực kinh tế, bằng việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đúng đắn, phù hợp với thời đại, hoàn cảnh mà nền kinh tế Việt
Nam cũng như đời sống nhân dân đã được cải thiện đáng kể. Vào giai đoạn đầu đổi
mới,GDP bình quân hàng năm đạt 4,4% một năm. Đến giai đoạn 1991- 1995, GDP bình
quân đã tăng tới 8,2% một năm. Thậm chí đến những năm 2011- 2015, tuy GDP của Việt
Nam đã tăng chậm lại thế ở mức 5,9% một năm thế nhưng vẫn là mức cao của khu vực
và thế giới. Không những thế, quy mô nền kinh tế cũng tăng rất nhanh. GDP bình quân
đầu người năm 1991 là 188 USD những đến năm 2020, GDP trên đầu người là hơn 2,700
USD.
Về xã hội, tỷ lệ đói nghèo đã giảm mạnh từ 58% năm 1992 xuống còn dưới 6%,
Từ một nước còn khơng có đủ lương thực, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất
12


khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Nhờ đó mà Việt Nam đã dần kiểm soát và bù đắp được

những khiếm khuyết do nền kinh tế bao cấp mang lại và chăm lo cho đời sống nhân dân
đầy đủ hơn.
Vào năm 2020, khi đại dịch COVID-19 xuất hiện và làm đảo lộn cuộc sống, rối
loạn nền kinh tế thì Việt Nam vẫn nổi lên như là một điểm sáng của thế giới. Việt Nam là
một trong số ít các quốc gia duy nhất, ghi nhận mức tăng trưởng dương 2,9%, trong khi
các nền kinh tế lớn khác phải chịu một tác động nặng nề do đại dịch. Trong bối cảnh đại
dịch đang bùng phát nghiêm trọng thì đây chính là một thành cơng đáng được cơng nhận
của Chính phủ Việt Nam. Lý giải về thành tựu này, nhiều chuyên gia kinh tế đã cho rằng,
ngun nhân quan trọng đó chính là từ mơ hình kinh tế đặc biệt của Việt Nam. Nền kinh
tế Việt Nam đã thể hiện rõ khả năng tự chủ, tự cường, phản ứng chính sách và phản ứng
với thị trường đồng bộ. Có thể nói nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa
đã trở thành cơ sở gúp Việt Nam hoàn thành được mục tiêu “kép”: phòng chống dịch và
tập trung nguồn lực phát triển kinh tế.
2. Những khó khăn và giải pháp
Bên cạnh những thay đổi tích cực trong nền kinh tế cũng như đời sống nhân dân,
Việt Nam cũng phải đối mặt với khơng ít khó khăn, trắc trở. Thứ nhất, việc thực hiện nền
kinh tế thị trường nhưng chưa có kinh nghiệm đã khiến việc phân bố các nguồn lực phát
triển cịn dàn trải, khơng đều. Từ đó mà gây ra tình trạng lãng phí, khơng cơng bằng, tạo
nên sự phân hoá giàu nghèo giữa vùng miền và giữa tầng lớp người dân trong xã hội; tệ
nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Thứ hai, do q trình đổi mới nhận thức về nền kinh
tế thị trường diễn ra còn chậm, đặc biệt là về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã tạo nên sự thiếu đồng bộ, nhất qn trong q
trình hồn thiện nền kinh tế thị trường do vậy mà ta vẫn chưa huy bộ được tiềm lực để
phát triển nền kinh tế. Thứ ba, mặc dù Việt Nam kể từ khi đổi mới có ghi nhận sự tăng
trưởng lạc quan trong nền kinh tế, tuy nhiên mức tăng trưởng lại không đều, kém ổn định;
lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để; năng suất lao động còn thấp và khả
năng cạnh tranh với thị trường quốc tế cũng chưa cao.

13



Chính vì vậy, để có thể xây dựng một nền kinh tế thị trường vứng mạnh, theo em,
Việt Nam cần tập trung vào các điều sau. Thứ nhất, ta phải nâng cao nhận thức của toàn
dân về nền kinh tế thị trường theo hương xã hội chủ nghĩa bởi vì muốn làm tốt cái gì nhất
định ta phải có hiểu biết về thứ đó. Từ đó, ta mới có thể đưa ra những chính sách, quyết
định đúng đăn và phù hợp. Thứ hai, ta cần phải tạo dựng một hành lang, cơ sở vững chắc
đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường. Để làm được
điều đó, ta cần phải củng cố, tăng cường hiệu lực của Quốc hội ban hành các luật pháp
còn thiếu, điều chỉnh bổ sung các bộ luật sao cho phù hợp với thực tiễn hiện tại của Việt
Nam. Thứ ba, ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất vữg mạnh, tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế tăng trưởng, phát triển. Thứ ba, ta phải tạo lập được một nền kinh tế
tự do, cởi mở, không ngại cạnh canh với quốc tế. Thứ tư và cũng là quan trọng nhất, ta
cần phải xây dựng được một bộ máy Nhà nước vững mạnh, chí cơng vơ tư, liên chính
trong sạch. Nhà nước sẽ có được uy tín trong mắt của người dân và các doanh nghiệp, từ
đó sẽ thực hiện được cơng việc quản lí và điều hành nền kinh tế một cách dễ dàng hơn.

KẾT LUẬN
Bằng việc nghiên cứu nhưng kiến thức cơ bản và phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng. Ta có thể thấy được sự áp dụng một cách triệt để quy
luật Triết học của Đảng và Nhà nước ta vào trong công cuộc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đó ta có thể hiểu thêm được về
cách hoạt động, điều hành của nền kinh tế Việt Nam, thấy được nhưng thành tựu đang tự
hào mà đất nước đã đạt được trong suốt hơn 30 năm đổi mới, cũng nhìn được những
thách thức, khó khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Chính nhờ việc phân tích, tìm hiểu nền kinh tế qua việc vận dụng nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, ta có thể đưa ra được những giải pháp cho nền kinh tế
nước nhà, đóng góp chất xám của bản thân vào việc phát triển kinh tế và đời sống của Tổ
quốc. Qua đó, giúp kinh tế Việt Nam năng động, phát triển và có thể sớm sánh vai với các
cường quốc năm châu.


14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nxb Chính trị quốc gia.
2. [1]: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2001, tr. 25
3. Ths. Nguyễn Kiêm Ái, “Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt nam” (01/07/2013), Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Tiền Giang.
/>4. PGS. TS Đặng Quang Định, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (18/07/2021), Tạp chí Cộng sản.
/>5. “Tổng quan về Việt Nam” (07/04/2021), The World bank.
/>6. “Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế” (05/01/2016), Báo Nhân dân.
/>7. T.S Nguyễn Sĩ Dũng, T.S Nguyễn Minh Phong, Hoàng Gia Minh, Hồ Quang
Phương (15/02/2018), “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Xây dựng Đảng
/>
15



×