Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tác động của hàng rào kỹ thuật của nhật bản đối với xuất khẩu thủy sản của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.26 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Chương I :
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong thời gian gần đây
và những trở ngại về hàng rào kỹ thuật của Nhật
1.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong những năm gần đây
1.2 Các cảnh báo của Nhật về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với hàng
thủy sản xuât khẩu của Việt Nam
1.3 Phản ứng của Bộ Thủy Sản và các doanh nghiệp trong nước.
Chương II :
Phân tích ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam
2.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Nhật trong những năm
gần đây.
2.2 Tác động hàng rào kỹ thuật của Nhật tới các doanh nghiệp kinh doanh
thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
Chương III :
Các bài học kinh nghiệm rút ra và giải pháp khắc phục
3.1 Những bài học kinh nghiệm
3.2 Các giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng của doanh nghiệp trong vệ
sinh an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu
Tác động của hàng rào kỹ thuật của Nhật Bản đối với xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam.
1
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ HÀNG
RÀO KỸ THUẬT.
1.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong những năm
gần đây.
Thủy sản Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát
triển rõ rệt về lượng xuất khẩu, thị trường cũng như giá trị. Nếu như


những năm trước, thủy sản chưa phát triển và chú trọng do không tìm
kiếm được thị trường cũng như kỹ thuật chế biến còn chưa cao thì trong
thời gian gần đây, kinh doanh thủy sản xuất khẩu đã và đang có những
bước tiến lớn.
Gần đây nhất, theo thông tin từ Bộ Thủy sản, giá trị kim ngạch xuất
khẩu thủy sản tháng 7 năm 2007 đạt 340 triệu USD, nâng tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu thủy sản 7 tháng lên 1.988 triệu USD, đạt 55,22% kế
hoạch năm, tăng 15,71% so với cùng kỳ năm 2006. Từ mức kế hoạch
mức 3 tỷ USD năm 2006, đã đề ra mức 3,6 USD trong năm 2007 và
nhanh chóng có thể vượt được mức dự kiến. Những thị trường chính của
thủy sản Việt Nam có thể kể đến là thị trường EU , Mỹ và Nhật Bản.
Theo số liệu từ năm 2006, thị trường khu vực Châu Á vẫn là lớn nhất về
số lượng (176 000 tấn), tuy nhiên về giá trị cao nhất vẫn là thị trường
Nhật đạt (842 triệu USD).
Theo Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam năm 2006 tăng mạnh là do kim ngạch xuất khẩu cá tra, ba sa
sang các thị trường đều tăng, nhất là thị trường Đông Âu và EU tăng. Sản
lượng cá xuất khẩu ước đạt 210 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu đạt 560 000
USD. Trong năm 2006, mặc dù gặp nhiều khó khăn như thiên tai nhiều,
2
giá xăng, dầu tăng, rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số thị
trường xuất khẩu thuỷ sản lớn của nước ta như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ,
Canada ngày càng khắt khe, nhưng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vẫn
hoàn thành sớm hơn một tháng so mức kế hoạch đề ra.
Thị trường Nhật Bản đã vươn lên vị trí số một, chiếm hơn 25% thị
phần xuất khẩu; thị trường EU chiếm hơn 21% thị phần xuất khẩu thuỷ
sản, Hoa Kỳ (hơn 19%), Hàn Quốc (hơn 6%)

Từ năm 2006, tôm vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của nước ta,
chiếm hơn 44% sản lượng thuỷ sản xuất khẩu, còn lại, cá đông lạnh

chiếm 34%, mực và bạch tuộc đông lạnh chiếm hơn 6%
Giá cá tra, ba sa tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ở mức cao so năm
trước; giá cá tra, ba sa thịt trăng nuôi hầm dao động 13.800-14.500
đồng/kg. Theo thông tin mới nhất trong năm 2007 giá đã tăng tới 16.000-
gần 17.000 đồng/ kg. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản chủ
động đầu tư, nâng cấp trang, thiết bị chế biến nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hết năm 2006, nước ta có
thêm 38 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang EU, nâng
tổng số doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường
này lên 209 đơn vị. Hàn Quốc công nhận thêm 13 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu, nâng tổng số doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu
thuỷ sản sang nước này lên 298 đơn vị.
1.2 Các cảnh báo của Nhật về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với
hàng thủy sản xuât khẩu của Việt Nam.
Như ta đã biết ở trên , thị trường Nhật được coi là thị trường tiềm
năng chính của thủy sản xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên sau khi cá basa
và tôm bị gặp vấn đề bán phá giá ở thị trường Mỹ rộng lớn thì Nhật Bản,
thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam cũng đang “báo động đỏ”
3
sẵn sàng áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu đối với hàng thuỷ sản Việt
Nam.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản (VASEP), việc
kiểm tra ngặt nghèo về chất lượng tại Nhật Bản khiến xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng tôm, sang thị trường này sụt giảm đáng
kể. Vào thời điểm tháng 5/2006 khi luật vệ sinh thực phẩm sửa đổi của
nước này có hiệu lực thì 31 nước bán thuỷ sản sang Nhật bị phát hiện dư
lượng kháng sinh cấm, trong đó có Việt Nam. VASEP đã nhận được cảnh
báo của Nhật là sẽ tăng cường kiểm tra hàng thủy sản của Việt Nam. Và
gần đây nhất, tháng 5/2007 theo số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy,
xuất khẩu tôm sang Nhật giảm 15,6% về lượng và gần 20% về giá trị so

với cùng kỳ năm ngoái. Nhật đã liên tục đưa ra các cảnh báo và kiểm tra
các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam cũng như đưa ra những quy định khắt
khe về an toàn vệ sinh thực phẩm là nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe
người tiêu dùng. Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận trên thực tế đó còn
có thể là rào cản kỹ thuật mà các doanh nghiệp của chúng ta phải lường
trước khi thâm nhập vào thị trường tiềm năng nhưng rất khó tính này.
Sau vụ cá basa và tôm ở thị trường Mỹ, Nhật Bản cùng với các
nước EU đã trở thành thị trường chuyển đổi cho các doanh nghiệp thuỷ
sản Việt Nam. Nhưng khi Việt Nam trở thành một trong ba khách hàng
lớn nhất thì cũng là lúc Nhật tỏ ra chặt chẽ không kém gì Mỹ và thậm chí
khó khăn hơn cả EU. Cụ thể, Nhật đã nâng mức kiểm tra từ 5%, 10% lên
50% và sau cùng là 100% lô hàng tôm nhập của Việt Nam. Và hiện nay
Nhật kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam nói
chung. Cụ thể về các vi phạm về dự lượng được Nhật phát hiện các chất
cấm, trong đó có 4 dẫn xuất của chất Nitrofuran, bao gồm AOZ, AMOZ,
AHN và SEM, cùng với Bộ Thủy sản đã cùng với các doanh nghiệp
thống nhất kiểm tra toàn bộ các loại hoá chất kháng sinh mà phía Nhật
4
cấm, tương đương với tổng lượng châu Âu và Mỹ cấm, cộng lại là 17
chất. Theo thống kê, từ đầu năm 2007 đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu
vào Nhật Bản 6.000 lô hàng và đã có 94 lô bị cảnh báo, chiếm 1,6%.
Trong đó, các loại kháng sinh bị phát hiện nhiều nhất là Chloramphenicol
(CAP), AOZ (dẫn xuất của Nitrofurans), Coliform Theo VASEP,
nguyên nhân nhiễm CAP chủ yếu từ việc bảo quản nguyên liệu trong quá
trình khai thác, các lô tôm nhiễm AOZ có khả năng bị nhiễm trong quá
trình trị bệnh cho tôm của nông dân tại ao.
Và đỉnh điểm của các rào cản về kỹ thuật của Nhật là Ngày 25-6-
2007, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Norio Hattori đã gửi thư cho Bộ
trưởng Bộ Thuỷ sản Tạ Quang Ngọc cảnh báo rằng cơ quan phụ trách
kiểm dịch của Nhật sẽ xem xét áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu thuỷ

sản Việt Nam. Theo nội dung thư trích dẫn :” Từ năm ngoái đến năm
nay, liên tiếp tìm thấy chất kháng sinh bị cấm theo luật vệ sinh thực
phẩm của Nhật trong mực và tôm xuất khẩu từ Việt Nam. Nếu trong
thời gian tới cũng tiếp tục phát sinh các trường hợp vi phạm thì cơ
quan phụ trách kiểm dịch của Nhật Bản bắt buộc phải xem xét áp
dụng biện pháp cấm nhập khẩu ” Trong thư, Đại sứ Hattori cho biết
từ năm 2006 tới nay, các cơ quan kiểm tra của Nhật liên tiếp phát hiện
các chất kháng sinh bị cấm trong tôm và mực xuất khẩu từ Việt Nam. Do
đó nếu trong thời gian tới vẫn còn các trường hợp vi phạm thì Bộ Y tế lao
động và Phúc lợi Nhật Bản bắt buộc phải xem xét áp dụng biện pháp cấm
nhập khẩu. Sau khi đã áp dụng nhiều biện pháp từ nhẹ tới nặng, nước này
đã ra tối hậu thư đi đến hình phạt cấm nhập khẩu.
1.3 Phản ứng cúa Bộ Thủy Sản và các doanh nghiệp trong nước.
Rõ ràng những hàng rào kỹ thuật và thương mại ngày càng chặt
chẽ, với các quy định về dư lượng kháng sinh, về truy xuất nguồn gốc sản
5
phẩm thủy sản, về kiểm dịch đang là thách thức lớn đối với doanh nghiệp
thủy sản Việt Nam.
Các chuyên gia trong ngành thuỷ sản của Việt Nam cho rằng vấn
đề dư lượng là một thực tế nhưng Việt Nam vẫn ở tỉ lệ rất thấp. Việc
dùng máy móc tối tân để phát hiện dư lượng kháng sinh ở tỷ lệ 0,7 phần
tỷ thì quả là quá khắt khe đối với Việt Nam. Cần phải lưu ý ở trên rằng thị
trường Nhật gần như đứng đầu về sản lượng và giá trị xuất khẩu nên
quyết định trên rất ảnh hưởng tới giá trị xuất nhập khẩu của thủy sản Việt
Nam.
Sau lời cảnh báo của Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam, Bộ Thuỷ sản
đã ban hành Quyết định mới nhất về kiểm soát chất lượng thuỷ sản vào
Nhật. Theo đó, từ 26/7/2007, các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm tra
chứng nhận Nhà nước về dư lượng, hoá chất kháng sinh cấm đối với
100% lô hàng giáp xác (tôm, cua, ghẹ ), nhuyễn thể chân đầu (mực,

bạch tuộc ).
Quyết định này cũng quy định cụ thể các trường hợp doanh nghiệp
có bao nhiêu lô hàng thuỷ sản từng bị cảnh báo về dư lượng kháng sinh
cấm thì không được phép xuất khẩu hai nhóm hàng này vào thị trường
Nhật. Bộ Thuỷ sản thông báo, doanh nghiệp chỉ được phép xuất khẩu trở
lại lô hàng giáp xác, nhuyễn thể chân đầu sang Nhật sau khi có báo cáo
đúng nguyên nhân, thiết lập biện pháp khắc phục có hiệu quả và được
Cục Quản lý chất lượng, An toàn vệ sinh và Thú y thuỷ sản (Nafiqaved)
công nhận. Các doanh nghiệp chỉ có thể được miễn kiểm tra chứng nhận
bắt buộc khi có liên tiếp 10 lô hàng các loại không bị cảnh báo.
Về phía Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP), đang phối hợp với Bộ Thủy sản, Cục Nafiqaved thay đổi Quy
6
chế 649 và 650 về phương thức kiểm soát điều kiện bảo đảm an toàn thực
phẩm, kiểm nghiệm chất lượng và cấp chứng thư xuất nhập khẩu, nhằm
giảm chi phí doanh nghiệp, giảm thủ tục phiền hà và lãng phí, tăng hiệu
quả và trách nhiệm kiểm soát của các doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước
đối với các Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Còn các doanh nghiệp đối phó với tình trạng trước mắt theo nhiều cách
nhưng có xu hướng tiêu cực. Theo Cục Quản lý Chất lượng, ATVS và
Nafiqaved , để đối phó với sự kiểm tra chất lượng gắt gao từ thị trường
Nhật Bản, các DN bị phía Nhật cảnh báo có lô hàng nhiễm kháng sinh đã
mượn "code" (code- mã số xuất khẩu) để xuất khẩu.
Ông Nguyễn Như Tiệp, Phó Cục trưởng Nafiqaved, đã đưa ra thông tin
này tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm của ngành thuỷ sản mới đây.
Lý giải điều này, một quan chức của Nafiqaved cho biết, thực tế kiểm tra
cho thấy số lô hàng kiểm tra có hoá chất, kháng sinh cấm trước khi xuất
khẩu không tăng. Ví dụ, kiểm tra 10 lô hàng xuất đi, chỉ phát hiện 1 lô
hàng vi phạm quy định về VSATTP. Tỷ lệ này chỉ ở mức dưới 10%,
chứng tỏ số lô hàng bị nhiễm không nhiều. Trong khi đó, các Doanh

nghiệp thuỷ sản bị phía Nhật cảnh báo lại càng tăng lên, chủ yếu do
Doanh nghiệp đã cho nhau mượn code để xuất khẩu. Điều này là vô cùng
nguy hiểm do đó , sắp tới Bộ Thuỷ sản sẽ cấm tuyệt đối việc cho mượn
mã số. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản (VASEP), việc
kiểm tra ngặt nghèo về chất lượng tại Nhật Bản khiến xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng tôm, sang thị trường này sụt giảm đáng
kể. Đến nay, Nhật Bản đã mất vị trí dẫn đầu về nhập khẩu thuỷ sản Việt
Nam.
7
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG TỚI CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT
KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
2.1 Tình hình xuất khẩu của thủy sản Việt Nam tới Nhật trong
những năm gần đây
Trong năm 2006 tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những
bước tăng trưởng lớn so với những năm trước. Với kim ngạch đạt hơn 3,2
tỷ USD, vượt hơn 400 triệu USD so kế hoạch năm,tổng sản lượng thuỷ
sản ước đạt hơn 3,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm hơn
1,7 triệu tấn. Cơ cấu về thị trường và hàng thuỷ sản xuất khẩu cũng có sự
chuyển hướng tích cực. Nhật đã vươn lên số 1 trong thị phần xuất khẩu
chiếm hơn 25%
Qua bảng số liệu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào các thị
trường chính của Việt Nam :
Nguồn: Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản (FICen)
Thị trường Số lượng(tấn) Giá trị (USD)
Nhật Bản 129284.6 823953603
Hoa Kỳ 92859.1 644145629
Châu Á (không kể Nhật Bản, ASEAN) 166771.3 442382451
EU 132350.2 441371591
ASEAN 49195.1 125151126

Châu Đại dương 23185.7 102352844
Châu Mỹ (không kể Hoa Kỳ) 20645.2 92688315
Châu Âu (không kể EU) 18554.7 60446290
Châu Phi 1653.7 4373457
Total 634499.6 2736865306
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2005
Thị trường Số lượng(tấn) Giá trị (USD)
Nhật Bản 123889.1 842613677
EU 219967 723504870
Hoa Kỳ 98824.3 664195527
8
Châu Á (không kể Nhật Bản, ASEAN) 176160.6 493798680
Châu Âu (không kể EU) 73921 174208547
ASEAN 60295.7 150887101
Châu Đại dương 25849.6 133583406
Châu Mỹ (không kể Hoa Kỳ) 28661.8 124374152
Thị trường khác 10170 41572891
Châu Phi 3941. 7 9220726
Total 821680.8 3357959577
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2006
Qua bảng số liệu về thị truờng xuất khẩu thủy sản của 2 năm gần
đây cho thấy thị phần của Nhật Bản đều đứng đầu về giá trị. Cho thấy thị
trường Nhật là thị trường rất lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam, các
Doanh nghiệp Việt nam cần tận dụng để khai thác tốt thị trường tiềm
năng này.
2.2 Tác động hàng rào kỹ thuật của Nhật tới các doanh nghiệp kinh
doanh thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
Tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm 2007 do những rào cản về vệ sinh
an toàn thực phẩm của Nhật và tối hậu thư của Nhật tháng 7 vừa qua đã
cho thấy thị trường này đang dần bị giảm sút nghiêm trọng. Thống kê từ

Bộ Thuỷ sản, xuất khẩu thuỷ sản đã đạt khoảng 1,64 tỷ USD, tăng gần
17% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, các thị trường chính vẫn là EU
chiếm 24,4%; Hoa Kỳ 18,3%; Nhật Bản 17%.
9
Thị trường Số lượng (tấn ) Giá trị (USD)
EU 56048.7 175041870
Hoa Kỳ 18151.9 131036093
Hoa Kỳ 18151.9 131036093
Nhật Bản 19332.1 121721703
Châu Âu (không kể EU) 24596.9 57120848
ASEAN 14835.2 41661987
Châu Mỹ (không kể Hoa Kỳ) 5743.6 27279333
Châu Đại dương 4562.8 22722806
Thị trường khác 3290 12425118
Châu Phi 1892.6 4772941
Total 189717 715661500
Bảng xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 tới tháng 7 năm
2007
Qua bảng xuất nhập khẩu với số liệu mới nhất, đã cho ta thấy rõ
nhất sự thụt dốc của thị trường rộng lớn này. Điều đó cho thấy nếu không
sớm loại bỏ các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thị trường
Nhật thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam giảm sút rất nhiều. Thiệt hại
trước mắt là việc các Doanh nghiệp bị tạm ngừng xuất khẩu và giải trình.
VASEP đề nghị tạm ngưng xuất khẩu đối với doanh nghiệp có nhiều lô
hàng liên tiếp bị phát hiện nhiễm kháng sinh tại Nhật để doanh nghiệp
giải trình chi tiết nguyên nhân và có biện pháp khắc phục mới cho phép
xuất trở lại. Thời gian tạm ngưng có thể từ 1 đến tháng 6 tháng tuỳ theo
trường hợp, việc giải trình được thực hiện với sự giám sát của Hiệp hội và
Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản- Naviqaved.
Theo đó, trước mắt, doanh nghiệp chưa có lô hàng bị cảnh báo trong 6

tháng đầu năm nếu bị 3 lô sẽ phải tạm ngưng và giải trình. Doanh nghiệp
có từ 1 đến 3 lô hàng nhiễm kháng sinh đã bị cảnh báo trong sáu tháng
đầu năm nếu bị tiếp hai lô nữa sẽ phải tạm ngưng và giải trình. Doanh
10
nghiệp có 4 lô hàng nhiễm kháng sinh trở lên đã bị cảnh báo trong 6
tháng đầu năm nếu bị tiếp 1 lô nữa sẽ phải tạm ngưng và giải trình
Nếu có quá nhiều các doanh nghiệp bị tạm ngưng để giải trình thì
thủy sản Việt Nam sẽ bị mất đi một lượng lớn kim ngạch xuất khẩu, có
khả năng ảnh hưởng tới kế hoạch của năm nay với mục tiêu là đạt 3,6 tỷ
USD.
11
CHƯƠNG III :
CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
3.1 Những bài học kinh nghiệm
Không chỉ qua thị trường Nhật mà rất nhiều thị trường xuất khẩu thủy sản
cũng bị cảnh báo và bị chặn do rào cản vệ sinh an toàn thực phẩm như
EU, Mỹ…Theo Cục trưởng Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y
thủy sản (NAFIQAVED) Nguyễn Tử Cương, danh sách các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản bị phát hiện nhiễm chất kháng sinh
trong các lô hàng thủy sản ngày một dài ra. Một số lô hàng thủy sản bị trả
về, nhưng một số doanh nghiệp vì lợi nhuận đã không xử lý triệt để. Ðiều
này ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của hàng thủy sản Việt Nam. Không
giống với các thị trường như EU, Hàn Quốc, việc kiểm tra chất lượng các
lô hàng thủy sản trước khi xuất khẩu sang Nhật Bản trước đây là không
bắt buộc. Việc kiểm tra chất kháng sinh, hóa chất cấm chỉ xảy ra khi
doanh nghiệp có yêu cầu và doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về
chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Nhật là một thị trường lớn, khi
bị các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ rất ảnh hưởng tới uy tín và
quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai nước.
Cho đến nay, tôm sú và cá da trơn là hai sản phẩm xuất khẩu thủy

sản chủ lực của nước ta. Nhưng trong những năm qua, đã xuất hiện quá
nhiều khó khăn đối với các sản phẩm thủy sản này. Cá da trơn gặp rào
cản về thương mại khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ, tôm sú thì gặp rào cản về
VSATTP khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Tại các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long, nơi chiếm sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản
lớn nhất nước ta, hiện xuất hiện nhiều bất ổn. Ðó là tình trạng phát triển
nuôi tôm, cá da trơn không theo quy hoạch. Tình trạng tôm, cá chết có
chiều hướng ngày càng tăng do chất lượng con giống chưa bảo đảm, môi
trường ao nuôi bị ô nhiễm. Theo Quyền Vụ trưởng nuôi trồng thủy sản
12
(Bộ Thủy sản) Vũ Dũng, việc sử dụng thức ăn, thuốc thú y thủy sản hiện
khó kiểm soát. Người dân một phần do ý thức, một phần thiếu hiểu biết
nên đã sử dụng thức ăn, thuốc thú y có nhiễm chất kháng sinh, nhưng tỷ
lệ này rất ít, vì diện tích nuôi tôm công nghiệp hiện nay chưa đến 10%
tổng diện tích nuôi tôm của cả nước. Người dân chủ yếu nuôi tôm quảng
canh và quảng canh cải tiến. Từ đó, cho thấy Bộ thủy sản và các cơ quan
cần đề ra các giải pháp cho việc nuôi trồng có quy hoạch, phân rõ việc
nuôi trồng thủy sản theo ba hướng chính:
Có nguồn giống, thức ăn công nghiệp đạt tiêu chuẩn, Có môi trường nuôi
đạt vệ sinh, về cả môi trường cũng như về vệ sinh an toàn cho tủy sản, Có
công nghệ thu hoạch cũng như bảo quản, chế biến hợp vệ sinh, theo tiêu
chuẩn xuất khẩu. Nếu đáp ứng được ba yêu cầu chính kia thì không chỉ
Nhật, mà bất cứ thị trường nào cũng không còn quá khó khăn với chúng
ta.
Theo lời khuyên của ông Ken Arakawa, Cố vấn cao cấp của Tổ
chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) dành cho các doanh
nghiệp Việt Nam làm ăn với đối tác Nhật là: Muốn nhập gia phải tùy
tục. Theo ông , các điểm yếu của các Doanh nghiệp Việt Nam là còn
mắc phải hạn chế như thiếu thông tin, tư tưởng thụ động chờ các đơn
hàng còn phổ biến. Từ đó dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều,

giá thành còn cao, thời gian giao hàng không đảm bảo Bên cạnh đó việc
nghiên cứu thị trường còn chưa bằng các công ty Nhật. Hơn một nửa các
công ty Nhật có văn phòng đại diện tại Việt Nam, nên hoạt động của họ
rất hiệu quả. Họ thường xuyên theo dõi nắm vững tình hình thị trường
Việt Nam.
Theo ông, muốn xuất khẩu sang thị trường Nhật cần phải “nhập gia tùy
tục”, tức là phải tìm hiểu rõ các phong tục tập quán cũng như thị hiếu
người Nhật. Trong thời buổi cạnh tranh cao việc chủ động tìm đến với thị
trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh
13
doanh và thành công cho doanh nghiệp. Một lời khuyên nữa của tôi là các
doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu kỹ thông tin về các hội chợ để thu
được hiệu quả cao nhất.
3.2 Các giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng của doanh nghiệp trong
vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu
Các giải pháp chính chủ yếu đặt ra là cần phải hiểu biết về thị
trường xuất khẩu, nắm rõ các rào cản kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm
của thị truờng Nhật để có thể khắc phục được các điểm yếu đó. Thứ
trưởng Thủy sản Lương Lê Phương cho rằng, nước ta vừa gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề cạnh tranh sẽ rất quyết liệt.
Ðể bảo hộ sản xuất trong nước, các nước sẽ dựng lên rất nhiều rào cản,
đặc biệt là rào cản về thương mại và rào cản về VSATTP. Vì vậy, để
nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ngành thủy
sản cần tổ chức lại sản xuất, đáp ứng tốt yêu cầu của các thị trường xuất
khẩu thủy sản. Trước thực trạng khó khăn về thị trường xuất khẩu thủy
sản như hiện nay, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Thủy sản cùng với
NAFIQAVED, VASEP và gần 100 doanh nghiệp chế biến thủy sản vừa
bàn biện pháp tháo gỡ vướng mắc, giữ vững thị trường xuất khẩu thủy
sản chủ lực. NAFIQAVED, VASEP và các hội viên đều thống nhất kiên
quyết loại bỏ các lô hàng thủy sản có dư lượng kháng sinh, hóa chất bị

cấm; làm rõ doanh nghiệp nào làm tốt, làm xấu để có chính sách khen
thưởng và xử lý kịp thời. Tới đây, NAFIQAVED sẽ sang làm việc với cơ
quan chức năng của Nhật Bản, Nga cùng tháo gỡ những vướng mắc về
xuất khẩu thủy sản.
Bộ Thủy sản vẫn xác định Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ là những thị
trường xuất khẩu thủy sản chủ lực của nước ta và bằng mọi cách phải giữ
vững. Ðể làm được điều này, cần có sự liên kết ngang (doanh nghiệp chế
biến - người nuôi thủy sản), liên kết dọc (nuôi trồng, thu mua, chế biến,
14
xuất khẩu thủy sản). Sự liên kết chặt chẽ này sẽ tạo ra các sản phẩm thủy
sản sạch, giúp việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản "từ ao nuôi
đến bàn ăn" dễ dàng hơn. Cục trưởng NAFIQAVED Nguyễn Tử Cương
cho biết, trong những năm qua, ngành thủy sản đã triển khai, nhân rộng
các mô hình nuôi thủy sản sạch tại Bình Ðại (Bến Tre), Cam Lập (Khánh
Hòa), Công ty Quốc Việt (Cà Mau), Vĩnh Hậu (Bạc Liêu), Công ty Vĩnh
Thuận (Sóc Trăng), Công ty XNK lâm, thủy sản Bến Tre, Công ty Hùng
Vương (Tiền Giang), Công ty Agifish (An Giang). Tại các vùng nuôi này,
tôm sú, cá da trơn được kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất con giống,
thả nuôi, thức ăn, thuốc thú y đến thu hoạch, bảo quản, chế biến xuất
khẩu. Phó Chủ tịch VASEP Nguyễn Hữu Dũng đã công bố tình trạng
khẩn cấp đối với việc xuất khẩu thủy sản vào Nhật Bản, kiến nghị Chính
phủ, Bộ Thủy sản tăng cường biện pháp giám sát việc nhập khẩu, lưu
thông, sử dụng kháng sinh cấm trên thị trường; tích cực kiểm tra tàu cá,
xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức cố tình sử dụng kháng sinh cấm trên thủy
sản.
NAFIQAVED cần cập nhật và phổ biến kịp thời đến các doanh
nghiệp chế biến thủy sản quy định mới của các thị trường xuất khẩu thủy
sản; cần có cơ chế, quy trình kiểm tra chặt chẽ hơn đối với các lô hàng
thủy sản trước khi xuất khẩu; kiên quyết loại bỏ các doanh nghiệp vi
phạm quy định về VSATTP. Các doanh nghiệp chế biến cần đẩy mạnh

đầu tư vùng nguyên liệu, liên kết với người nuôi để bảo đảm nguồn
nguyên liệu sạch phục vụ chế biến. Nhà nước và các địa phương cần có
cơ chế, chính sách để người dân, doanh nghiệp tích tụ ruộng đất, quy
hoạch vùng nuôi thủy sản tập trung có sự quản lý chặt chẽ theo mô hình
quản lý cộng đồng từ sản xuất con giống, nuôi trồng, thu hoạch, bảo
quản, chế biến, xuất khẩu thủy sản. Bộ Thủy sản cần có những giải pháp
kịp thời và quyết liệt hơn để nâng cao chất lượng hàng thủy sản xuất
khẩu, giữ vững thị trường xuất khẩu thủy sản.
15
Ngoài các giải pháp về khắc phục vệ sinh an toàn thực phẩm, chúng
ta cần thêm các giải pháp về tăng thị phần xuất khẩu sang Nhật. Nếu đã
làm tốt các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm hàng thủy sản xuất khẩu,
thì việc này không khó. Thống kê từ Bộ Công thương cho thấy chỉ riêng 5
tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật đạt 2,119 tỷ
USD, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2006; và Nhật Bản tiếp tục là thị
trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam. Thị phần xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật Bản ngày càng tăng, hiện nay xấp xỉ 1% thị phần nhập
khẩu của Nhật.
Ông Nguyễn Bảo, Vụ trưởng Vụ châu Á - Thái Bình Dương, Bộ
Công thương cho biết: hiện nay xu hướng chuyển đơn hàng từ Trung
Quốc sang Việt Nam ngày càng nhiều và lượng doanh nghiệp Nhật đang
có kế hoạch thành lập công ty, văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt
Nam ngày càng tăng do quan hệ Trung - Nhật đang đóng băng. Đáng chú
ý là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam không chỉ tăng về kim ngạch mà
còn có những chuyển biến khá rõ rệt về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu được hoa tươi, hàng may mặc cao
cấp, thực phẩm chế biến sang thị trường Nhật Bản. Cùng với sự biến
đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tỷ lệ gia công nội địa trong sản phẩm
xuất khẩu, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu thành phẩm trong tổng kim ngạch
xuất khẩu ngày càng được nâng cao (đặc biệt đối với sản phẩm thủy sản,

cơ khí, công nghệ thông tin)
Cũng phải nhìn nhận rằng trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế mạnh
mẽ như hiện nay thì việc duy trì sự ổn định mức tăng trưởng xuất khẩu
không đơn giản. Song như vậy không có nghĩa là Việt Nam không thể
chinh phục được thị trường Nhật.
16
Phần lớn các chuyên gia Nhật Bản, các nhà xúc tiến thương mại, các
doanh nghiệp đã làm ăn với Nhật tại hội thảo đều cho rằng, để làm được
công việc trên, các doanh nghiệp và đối tác Việt Nam cần nắm bắt được
thị hiếu, việc định giá chào hàng không nên dựa vào giá bán lẻ tại thị
trường Nhật, bảo đảm thời gian giao hàng; duy trì chất lượng sản phẩm.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chủ yếu từ Internet :
Thời báo kinh tế Việt Nam :
/>home=detail&page=category&cat_name=0904&id=51f676c642b123
/>home=detail&page=category&cat_name=0904&id=b6454fa6f06025
Bộ Ngoại Giao Việt Nam
/>1083632
Báo Điện tử Việt Nam Net
/> /> /> />Hội Lương thực thực phẩm Hồ Chí Minh

Báo Sóc Trăng
/>tn=tn&id=47355
Báo Điện tử - Đảng Cộng Sản Việt Nam
www.cpv.org.vn
Doanh Nghiệp 24g
/>18

×