Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Về chế độ sở hữu toàn dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.45 KB, 19 trang )

1. Lý do chọn đề tài.
Đất đai ở mỗi quốc gia đều là tài nguyên thiên nhiên vô cùng q úy báu vì đó là
nguồn tài ngun thiên nhiên có hạn trong khi nhu cầu sử dụng c ủa dân c ư
trong quốc gia thì cao, nhất là những quốc gia có đơng dân cư sinh sống. Ở
nước ta, dân cư tập trung sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, chính đi ều này
lại càng địi hỏi cao nhu cầu sử dụng đất đai hơn n ữa. Đất đai luôn có m ột v ị trí
quan trọng trong địi sống kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Truyền thống văn hóa luôn coi đất đai nhà cửa là không gian sinh th ống thiên
liêng mà ở Việt Nam, đất đai không chỉ có giá trị tài chính mà cịn có giá tr ị tinh
thần rất cao. Chuyển qua nhiều giai đoạn và thời kỳ lịch s ử khác nhau cùng v ới
đó là các chình sách sử dụng đất đai khác nhau trong các tr ường h ợp c ụ th ể nh ư
trường hợp do ông bà tổ tiên để lại, do Nhà n ước giao đ ất, do khai hoang l ấn
chiếm, do chuyển nhượng lại,... nên vấn đề sở hữu đất đai luôn là m ột v ấn đ ề
mang lại nhiều vướng mắt bất cập trong cả khâu quản lý và sử d ụng. Nh ất là
trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, đất đai đã và đang
được lưu thông trên thị trường như một loại hàng hóa. V ậy nên các chính sách
pháp luật về đất đai cần phải được xem xét lại để kịp thời bổ sung s ửa đổi
những điểm chưa hợp lý và điều chình để phù hợp h ơn v ới th ời kỳ phát tri ển
kinh tế thị trường như ngày này.
Hiện nay, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do nhà n ước làm đ ại
điện chủ sở hữu điều này đã được thể hiện trong hiến pháp và pháp lu ật c ủa
nước ta. Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến đóng góp, đề xuất s ửa đ ổi hồn thi ện
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai với nhiều ý kiến khác nhau. Chính vì đi ều
này nhóm thấy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về chế độ sở h ữu toàn dân
về đất đai nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và cũng cố quan đi ểm “đ ất đai là
sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện”. Vậy nên nhóm chọn đ ề tài “ Chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý
luận và thực tiễn.” để nghiên cứu sâu thêm về vấn đề này cũng như đề xuất
những khuyến nghị.



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Ở Việt Nam cũng có một số bài viết nghiên cứu đề cập Chế độ sở hữu
và Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay:
- TS. Nguyễn Minh Tuấn - trưởng khoa lý luận chính trị, Chế độ s ở
hữu toàn dân về đất đai – một vấn đề cần kiên quyết thực hiện, Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí cộng sản 7/2013.
- TS. Đinh Xuân Thảo – Ths. Võ Hồng Lan, Chế định sở hữu đất đai và
việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay –
những vấn đề và lý luận, Viện nghiên cứu lập pháp, Bản tin Thông
tin Khoa học Lập pháp số 01-2013.
- Nguyễn Văn Khánh (2013), Quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam, T ạp
chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12.
- Đặng Hùng Võ (2011), Bàn về chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai,
Báo Sài Gòn tiếp thị, ngày 18/3.
Các cơng trình nghiên cứu về “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam
hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn” là nguồn tư liệu quý báu để các
thế hệ sau kế thừa và tiếp tục phát huy. Với tinh thần khiêm tốn h ọc h ỏi, nhóm
chúng em xin được kế thừa, tiếp thu những thành tựu của các nhà khoa h ọc, l ấy
đó làm những gợi ý quan trọng để thực hiện và hồn thiện đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu những nội dung cơ bản về chế độ sở hữu toàn dân v ề đất
đai ở nước ta hiện nay nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và th ực tiễn.
Từ đó rút ra được những bài học, kinh nghiệm và đưa ra những khuyến
nghị cho các chính sách sở hữu đất đai của tồn dân trong th ời kỳ m ới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đạt được những mục đích trên bài tập nhóm em có nhiệm vụ sau:



- Trình bày cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của chế độ sở h ữu toàn dân
ở Việt Nam.
- Làm rõ những bất cập còn tồn đọng trong chế độ “sở hữu toàn dân
về đất đai” tại Việt Nam.
- Hệ thống hóa các quan điểm, nhận thức về chế độ sở hữu đất đai
hiện nay qua các nhóm ý kiến khác nhau.
- Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn trong việc s ở h ữu toàn dân về
đất đai mà đưa ra các khuyến nghị cơ bản nhằm phát huy ch ế đ ộ s ở h ữu toàn
dân về đất đai trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Những nội dung cơ bản về chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt
Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày bài này em đã s ử dụng các ph ương
pháp: tổng hợp, phân tích, liệt kê và phương pháp lịch s ử và ph ương pháp logic.
6. Phạm vi nghiên cứu.
Bài viết tập chung nghiên cứu về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam
hiện nay.
7. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, bài tiểu luận này gồm 5 mục.
1. Cơ sở lý luận của chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam.
2. Cơ sở thực tiễn của chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam.
3. Những bất cập cịn tồn đọng trong chế độ “sở hữu tồn dân về đất đai” ở
Việt Nam.


4. Những quan điểm, nhận thức về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai hiện
nay.


5. Kết luận của nhóm
Đề tài: Chế độ sở hữu tồn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay –
những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Bài làm
1.

Cơ sở lý luận của chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam .

Đất đai là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và tái s ản
xuất xã hội, vì vậy quan hệ sở hữu về đất đai từ xa xưa đã đ ược các nhà kinh t ế
học kinh điển đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Lý luận về địa tơ c ủa A-đam Xmit,
Đa-vít Ri-các-đơ... tiếp tục được Mác, Ăng-ghen hoàn thiện, đặt n ền t ảng lý
thuyết cho việc giải thích các hiện tượng và q trình kinh tế trong nơng
nghiệp, là cơ sở để hình thành, hồn thiện luật pháp, chính sách nh ằm phát
triển kinh tế cũng như ổn định xã hội. Sau khi nghiên cứu lý lu ận địa tô, Mác và
Ăng-ghen đã rút ra một số kết luận, trong đó có 2 vấn đề quan trọng:
+ Địa tô trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hay có th ể nói là địa tơ trong
nền kinh tế thị trường có tính ổn định, không phụ thuộc vào quan hệ s ở h ữu v ề
đất đai.
+ Khi đã tách quyền sở hữu và quyền chiếm hữu (trong đó tr ước hết là
quyền sử dụng) đất đai, người chiếm hữu (người sử dụng) nếu đầu tư vào đất
sẽ thu được địa tô chênh lệch.
Trên cơ sở những nghiên cứu về lý luận địa tô của Mác - Ăng-ghen, Lê-nin
đã đưa ra cơ sở lý luận của việc quốc hữu hóa ruộng đất. Trong tác ph ẩm
“Cương lĩnh ruộng đất của Đảng xã hội dân chủ trong cuộc cách mạng đ ầu tiên
ở Nga năm 1905 - 1907”, V.I. Lê-nin chỉ rõ mối liên hệ của đ ịa tô chênh l ệch và
địa tô tuyệt đối với hai hình th ức độc quy ền trong nông nghiệp. Theo Lê-nin,
địa tô chênh lệch là kết quả của sự hạn chế về ruộng đất. Trong ch ế đ ộ t ư b ản,



việc canh tác ruộng đất của các doanh nghiệp t ư bản mặc dù chế độ tư hữu
ruộng đất có tồn tại hay khơng và hình thức chiếm h ữu ruộng đ ất nh ư th ế nào
đi nữa thì đều có địa tơ chênh lệch. Lê-nin viết: “Địa tơ chênh lệch khơng tránh
khỏi hình thành trong chế độ nơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, ngay cả khi chế độ
tư hữu về ruộng đất bị xóa bỏ hồn tồn”1.
Địa tơ tuyệt đối diễn ra bắt nguồn từ chế độ sở hữu ruộng đ ất t ư nhân.
Chế độ tư hữu này đã cản trở việc cạnh tranh tự do, cản trở việc san bằng l ợi
nhuận thành lợi nhuận bình quân giữa các doanh nghiệp nông nghiệp và doanh
nghiệp phi nơng nghiệp.
Nếu địa tơ chênh lệch là vốn có của bất kỳ nền nông nghi ệp t ư b ản ch ủ
nghĩa nào, thì địa tơ tuyệt đối khơng phải với bất kỳ, mà ch ỉ v ới đi ều ki ện c ủa
chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân.
V.I. Lê-nin còn viết: “Như vậy là vấn đề quốc hữu hóa ruộng đất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa chia thành hai phần khác nhau về bản chất: vấn đề địa tô
chênh lệch và vấn đề địa tô tuyệt đối. Quốc hữu hóa thay đổi người hưởng địa tơ
chênh lệch và xóa bỏ ngay cả sự tồn tại của địa tơ tuyệt đối. Vậy qu ốc h ữu hóa
một mặt là một cải cách bộ phận trong khuôn khổ của chủ nghĩa t ư bản (thay
đổi người làm chủ một bộ phận giá trị thặng dư), và mặt khác, là sự xóa b ỏ các
độc quyền gây trở ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói chung ”2.
V.I. Lê-nin chỉ rõ rằng, nhận thức đúng đắn cơ s ở lý luận của việc qu ốc h ữu
hóa ruộng đất và tiếp đó là vấn đề ruộng đất có ý nghĩa r ất to l ớn. Nh ững sai
lầm trong lý luận dẫn tới những kết luận không đúng đ ắn và d ẫn đ ến nh ững
sai lầm về chính trị. Chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân là s ự tr ở ng ại c ủa vi ệc
đầu tư tự do tư bản vào ruộng đất. Ơng cũng vi ết: “ Do đó, thủ tiêu chế độ tư
hữu ruộng đất tức là xóa bỏ đến mức tối đa có thể có được trong xã hội tư sản,
tất cả những trở ngại, ngăn cản việc tự do dùng tư bản vào nông nghi ệp và t ự
do chuyển tư bản từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác. Sự phát
triển tự do, rộng rãi nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản, sự xóa bỏ tất cả những
1 V.I. Lê-nin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.16, tr. 346
2 V.I. Lê-nin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.16, tr. 349



khâu trung gian không cần thiết khiến cho nền nông nghiệp giống như một nền
cơng nghiệp có những “nhịp độ kinh khủng”, - quốc hữu hóa ruộng đất dưới ch ế
độ sản xuất tư bản chủ nghĩa là như thế đấy ”3.
Như vậy có thể hiểu rằng, cái mà Lê-nin đề cập là sự cần thiết ph ải thay
đổi chế độ tư hữu ruộng đất đi, mà thay vào đó là chế độ sở h ữu Nhà n ước, m ột
chế độ sở hữu có lợi cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất nói chung. Có
thể thấy, thực tiễn của các nước tư bản hiện nay trên thế giới, vẫn cịn nhi ều
nước giữ hình thức sở hữu tư nhân, nhưng bên cạnh đó sở hữu Nhà nước v ẫn
chiếm một vị trí khơng nhỏ như Mỹ (40% là sở hữu Nhà nước), Đài Loan (ch ỉ có
đất nơng nghiệp mới là sở hữu tư nhân), … Hay s ở h ữu Nhà n ước chiếm v ị trí
đa số như Ố-xtrây-lia (chiếm tới 93% là sở hữu Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nền tảng cơ sở của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chế độ sở hữu, cũng xem việc quốc hữu hóa ruộng đất là một biện pháp
cần thiết phải thực hiện. Nhưng khác với việc quốc h ữu hóa trong ch ế đ ộ t ư
bản chủ nghĩa, quốc hữu hóa trong điều kiện dưới sự lãnh đạo của m ột Đ ảng
tiên phong đại diện cho giai cấp vô sản đã hình thành nên m ột ch ế đ ộ s ở h ữu
mới, đó là chế độ sở hữu toàn dân (mà thực tế Nhà nước là người đại di ện
quản lý).
2. Cơ sở thực tiễn của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam .
Ở Việt Nam, đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hố, xã hội, an ninh và quốc phịng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao
công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ mới có được vốn
đất như ngày nay.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, trong các văn bản tối cao c ủa h ệ
thống pháp luật của đất nước từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980 và Hiến pháp 1992 đã có những quy định khác nhau v ề v ấn đ ề s ở h ữu đ ất
3 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.16, tr. 371



đai, để từ đó xác lập chế độ quản lý và sử dụng đất. Hiến pháp 1946, đã xác l ập
nhiều hình thức sở hữu đất đai, tuy nhiên đến Luật Cải cách ruộng đất năm
1953 thì cịn lại hai hình thức là Nhà n ước và c ủa ng ười nông dân; Hi ến pháp
1959, tức là sau khi đã sửa sai các sai lầm trong C ải cách ru ộng đ ất, có xác đ ịnh
ba hình thức sở hữu về đất đai là: Nhà nước, tập th ể và sở h ữu t ư nhân v ề đ ất
đai; Hiến pháp 1980 được ban hành đã xác định chỉ cịn l ại m ột hình th ức s ở
hữu duy nhất, đó là sở hữu tồn dân về đất đai, và điều này ti ếp tục đ ược Hiến
pháp 1992 tiếp tục thừa nhận tài Điều 17.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Đây là hình
thức sở hữu duy nhất đối với đất đai ở Việt Nam. Mặc dù từ Hiến pháp 1980 đã
xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà n ước quản lý nh ưng pháp lu ật
lại chưa quy định cụ thể về nội dung hình thức sở h ữu này. Do đó, nh ằm xác
định cụ thể vị trí, vai trị đại diện của chủ sở hữu của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường thì luật đất đai năm 2003 đã ra đời và quy định rõ về đi ều này. T ại
khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 s ửa đổi, năm 2009 b ổ sung và quy đ ịnh:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà n ước đại diện ch ủ s ở h ữu”. Đây là l ần
đầu tiên vai trò của Nhà nước với tư cách đại diện chủ s ở h ữu đã đ ược pháp
luật quy định rõ ràng. Nhà nước đứng ra thay mặt toàn dân th ực hi ện các quy ền
năng cụ thể của chủ sở hữu nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu đó là tồn
dân.
Việc thực thi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở n ước ta hi ện nay v ẫn
được Đảng và Nhà nước công nhận về sự hiểu quả và tính đúng đ ắn c ủa nó.
Những người ủng hộ quan điểm này, đã dựa trên những căn cứ lịch sử khách
quan sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ lập trường “Tất cả quyền lực thuộc v ề nhân dân,”
thì nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, đặc biệt quý giá c ủa
quốc gia là đất đai. Đất đai là thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước
lâu dài của cả dân tộc, khơng thể để cho một số ít người nào đó độc quyền

chiếm sở hữu. Đất đai của quốc gia dân tộc phải thuộc sở h ữu chung c ủa toàn


dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của c ủa toàn dân t ộc, c ủa
nhân dân.
Ở đây dùng chung cũng có nghĩa là khơng ph ải c ủa c ơ quan nhà n ước đ ể
các cơ quan này có quyền giao hoặc chia cho ai tùy thích. Vi ệc quy ết đ ịnh m ột
phần diện tích đất đang dùng chung được chuy ển sang đất dùng t ư nhân ph ải
hỏi ý kiến tồn dân (thơng qua trưng cầu dân ý) hoặc giao quy ền cho c ơ quan
nhà nước (Quốc hội) quyết định và giám sát, với những ràng buộc điều kiện
chặt chẽ để tránh việc quyết định tùy tiện của các quan chức nhà nước.
Thứ hai, sở hữu toàn dân tạo điều kiện để những người lao động có đi ều
kiện tiếp cận đất đai tự do. Với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ th ống xã h ội ch ủ
nghĩa thế giới, nhiều người khơng cịn tin vào chủ nghĩa xã h ội và th ậm chí h ọ
cịn cho rằng Việt Nam nên bỏ đi “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song bản ch ất xã h ội ch ủ
nghĩa không bị cố định vào mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
càng khơng bị trói buộc vào chế độ phân phối bình qn.
Trong điều kiện tồn cầu hóa hiện nay, nếu Chính phủ đánh thuế cao vào
giới chủ sở hữu các tập đồn kinh tế lớn, họ có thể chuy ển cơ sở sản xuất-kinh
doanh của họ sang nước có mức thuế thấp hơn. Do vậy, không th ể chỉ trông
chờ vào công cụ điều tiết gián tiếp của Nhà nước để giải quy ết công bằng. Phải
tạo cơ chế công bằng ngay từ gốc, tức là người lao động phải có tư liệu sản
xuất, trong đó có đất đai, để lao động mưu sinh.
Thứ ba, sở hữu toàn dân về đất đai ít ra cũng cho ta cơ chế đ ể ng ười lao
động có quyền hưởng lợi ích từ đất đai một cách có lợi h ơn, cơng b ằng h ơn và
bình đẳng hơn. Bởi vì sở hữu toàn dân là sở hữu chung của người Việt Nam,
hiểu đúng nghĩa là cơng dân của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù là sở hữu chung nhưng sử dụng và quản lý theo được thực hiện
theo một cơ chế cụ thể mà Nhà nước hiện nay đang bàn luận để xây dựng,

nhằm có thể đạt được một lúc hai mục đích: hiệu quả và cơng bằng đối v ới
người

lao

động.


Khơng được sao nhãng mục tiêu cơng bằng, vì nếu để đạt đ ược hi ệu qu ả b ằng
cách hy sinh quyền lợi của đa số người lao động sao cho c ủa c ải làm ra nhi ều
hơn nhưng chui vào túi người giàu thì khơng ph ải là hiệu quả mà Đảng và Nhà
nước hiện nay hướng tới.
3. Những bất cập còn tồn đọng trong chế độ “sở hữu toàn dân về đất
đai” tại Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có bộ luật về quản lý đất đai đồ sộ và ph ức tạp,
bao gồm Luật đất đai năm 2003 cùng với hơn 400 văn bản h ướng dẫn đ ược
ban hành từ trước tới nay, chủ yếu là các văn bản liên quan đến qu ản lý Nhà
nước hay quản lý hành chánh về đất đai, nói rõ hơn là xoay quanh việc b ảo v ệ
các quyền và lợi ích của Nhà nước với tư cách là ng ười đ ại di ện c ủa ch ế đ ộ s ở
hữu toàn dân về đất đai.
Có thể nói, chế độ sở hữu về đất đai đã mang lại nh ững lợi ích đáng k ể
song cũng không thể phủ nhận rằng hệ thống quản lý pháp lu ật hiện nay c ủa
chúng ta còn kém và thiếu hiệu quả đã dẫn đến những vấn đề lạm d ụng trong
việc sử dụng quyền hạn của Nhà nước khi đại diện “ch ế đ ộ s ở h ữu toàn dân”
nhằm tiến hành các hoạt động trục lợi cho các mục đích cá nhân, làm giàu b ất
chính.
Trong thời gian qua, các “lạm dụng” trong lĩnh vực đất đai ch ủ y ếu đ ến t ừ
các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước tại các địa ph ương. Sự “l ạm
dụng” xảy ra đặc biệt nghiêm trọng trong hai khía cạnh là: quy hoạch sử dụng
đất và thu hồi quyền sử dụng đất hiện hữu của người dân (nh ất là nông dân)

để xây dựng các dự án công nghiệp và thương mại. Về mặt lý thuy ết, quy ền
quy hoạch sử dụng đất đương nhiên thuộc chủ sở hữu đất. Vậy nếu chủ sở
hữu là “tồn dân” thì nhân dân phải được tham gia xây d ựng quy hoạch.
Trên thực tế, nhân danh vai trị “đại diện chủ sở hữu tồn dân”, các cơ
quan chính quyền nắm giữ tồn quyền và độc quyền trong việc lập và s ửa đổi
quy hoạch. Quá trình lạm dụng sẽ bắt đầu một cách “ triệt để” khi có các nhóm
lợi ích tư nhân từ phía các doanh nghiệp tham gia, th ậm chí chi ph ối, d ẫn đ ến


hậu quả là quy hoạch khơng cịn phục vụ các mục đích dân sinh mà chỉ nhằm
hỗ trợ các nhóm lợi ích tư nhân tìm kiếm lợi nhuận thơng qua các d ự án kinh t ế.
Ngoài ra, Luật Đất đai và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã h ợp th ức
quyền thu hồi đất của người đang sử dụng để phát triển các d ự án kinh t ế mà
khơng tính đến ảnh hưởng và sự hiệu quả của các dự án này. Khác với giai đoạn
của nền kinh tế kế hoạch trước đây, trong nền kinh tế thị tr ường, hầu hết các
dự án kinh tế được hình thành trên cơ sở các cân nh ắc về lợi ích kinh tế và vì
động cơ lợi nhuận của cá nhân hoặc nhóm của những kẻ kinh doanh (bất
chính). Có thể nêu ví dụ, chẳng hạn tại Điều 40 Luật Đất đai năm 2003 quy
định quyền được thu hồi đất với “mục đích phát triển kinh tế” , do chưa có một
sự quy định rõ ràng nên đã tạo kẽ hở cho chính quyền một số địa phương lấy lý
do vì mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc th ực hiện một số m ục tiêu xã h ội đ ể thu
hồi đất của các chủ sử dụng là cá nhân, hộ gia đình rồi giao cho một ch ủ t ư
nhân sử dụng khơng vì mục đích chính đáng. Rõ ràng, quyền sử dụng đất hợp
pháp của người dân sẽ bị biến dạng và gây khơng ít thiệt hại cho họ. Mặt khác,
giá đền bù khi thu hồi đất trong nhiều tr ường h ợp th ường th ấp h ơn giá th ị
trường, có khi đến vài chục lần, thậm chí trong một số tr ường h ợp chính quy ền
thu hồi đất của người dân nhưng không đền bù cũng đ ược coi là h ợp pháp, t ừ
đó đã dẫn đến các vụ khiếu kiện của người thuộc diện có đất thu h ồi.
Một sự cần thiết hay nhất thiết phải phân biệt giữa dự án vì l ợi ích cơng
cộng (trong đó có lợi ích của chính những người bị thu hồi đ ất) và d ự án vì m ục

đích thương mại thuần t đã khơng được tính đến khi ban hành các văn b ản
pháp luật về đất đai và đầu tư. Do đó, hậu quả c ủa q trình cơng nghi ệp hố
và đơ thị hố thời gian qua, như các phương tiện thông tin đ ại chúng đã c ảnh
báo, là sự mất và giảm nghiêm trọng “đất trồng lúa” và biến hàng triệu nông
dân thành “tay trắng” về phương diện tư liệu sản xuất.
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quy định Nhà n ước là đại di ện quy ền
sở hữu, thực tế trong nhiều trường hợp, không biết ai là “Nhà n ước” th ực s ự,
chính quyền trung ương hay chính quyền địa phương, do đó dẫn đến l ạm


quyền trong việc thu hồi đất, xâm hại quyền lợi của người dân nh ưng l ại đ ể
đất đai rơi vào tay các nhóm lợi ích, khiến cả quy ền l ợi của ng ười dân l ẫn l ợi
ích quốc gia khơng được bảo đảm. Hậu quả là trong một số trường h ợp đ ất đai
sẽ được chuyển từ người dân nghèo sang tay “các đại gia” v ới giá r ất th ấp. Đ ồng
thời, bằng động tác đầu tư trở lại, “các đại gia” này l ại bán đ ất ra v ới giá cao
cho người dân có nhu cầu. Khơng ít trường hợp đất đai bị thu hồi đ ể r ồi b ỏ
hoang, bởi những dự án “treo” khơng có điểm dừng, trong khi ng ười dân khơng
có đất để ở hoặc canh tác.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường đã dẫn đến nhu cầu tư nhân hóa về
quyền sử dụng một bộ phận đất đai, điều này cũng tác động làm biến d ạng chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quá
trình phát triển kinh tế thị trường, chủ thể sở hữu đất đai luôn luôn tách r ời
khỏi người sử dụng đất. Nhà nước là đại diện chủ sở h ữu, c ố gắng duy trì
quyền sở hữu của mình bằng cách can thiệp vào quá trình s ử d ụng, đ ịnh đo ạt
đất đai. Tuy nhiên, thực tế không phải là Nhà nước luôn nắm phần chủ động
trong việc can thiệp, mà ngược lại còn dần dần bị hạn chế bởi chính các yếu tố
thị trường, từ đó làm phá vỡ các quy hoạch và kế hoạch chủ động c ủa Nhà n ước
về đất đai, buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên thay đ ổi các
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã ban hành, làm cho chính sách v ề đ ất đai
bất ổn, gây khó khăn cho các đối tượng được giao quyền s ử dụng đ ất.

Một vấn đề khác cũng gây nhiều bức xúc trong việc chính quy ền giao
quyền sử dụng đất, thể hiện cả trong phân loại đất và chủ thể nh ận giao đất.
Đối với phân loại đất, nếu như đất ở được Nhà nước giao quy ền s ử d ụng lâu
dài, ổn định, thì với đất nơng nghiệp chỉ được xác định th ời h ạn là 20 năm hoặc
50 năm tùy loại đất trồng trọt hay đất rừng. Với ch ủ th ể đ ược giao quy ền s ử
dụng đất, nhà đầu tư nước ngồi thường được chính quy ền ưu tiên h ơn so v ới
nhà đầu tư trong nước cả về thời gian và hạn mức. Đối với các đơn vị hành
chính sự nghiệp, trường học, bệnh viện,... trong nhiều trường h ợp Nhà n ước
giao đất có hoặc khơng thu tiền sử dụng đất, từ đó cũng tạo ra s ự b ất bình
đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Đối với cá nhân, h ộ gia đình khi giao


đất, Nhà nước áp dụng hạn điền trong khi không áp dụng đ ối v ới các t ổ ch ức,
đồn thể,... Sự khơng bình đẳng này tạo ra kẽ h ở để các nhóm l ợi ích hình thành,
tác động đến các quyết định của chính quy ền nhằm thay đổi các quy ết đ ịnh
giao đất cũng như khai thác đất cơng vì lợi ích riêng.
Việc nhận thức và vận dụng không đúng chế độ sở h ữu toàn dân v ề đ ất
đai trong thời gian qua đã dẫn đến sự lãng phí về đất đai, gây thiệt h ại cho
người sử dụng đất, đồng thời nảy sinh những tiêu cực, mâu thuẫn gay g ắt trong
lĩnh vực này. Từ đó dẫn đến sự hồi nghi chế đ ộ sở h ữu toàn dân v ề đ ất đai,
nảy sinh ý kiến đòi hỏi phải thay đổi chế độ sở h ữu toàn dân về đ ất đai.
4. Những quan điểm, nhận thức về chế độ sở hữu đất đai hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về chế độ sở hữu toàn dân ở
Việt Nam nhằm cải thiện ngày càng tốt hơn các chế đ ịnh s ở h ữu toàn dân đ ể
thực hiện nhằm đáp ứng cho các yêu cầu đẩy mạnh q trình cơng nghi ệp hóa
– hiện đại hóa đất nước hiện nay, các nhà làm luật ở Việt Nam thông qua vi ệc
trưng cầu thảo luật về sửa đổi Hiến pháp năm 2013, đã tổng kết đ ược 3 nhóm
ý kiến chủ yếu góp ý liên quan đến vấn đề ch ế độ sở h ữu toàn dân v ề đ ất đai ở
Việt Nam như sau:
+ Nhóm ý kiến thứ nhất, cho rằng cần phải quay về chế độ sở hữu toàn dân

một cấp độ chủ sở hữu - sử dụng là Nhà nước, không giao nhiều quyền cho người
sử dụng (chúng ta có thể nhận thấy quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai ở
nhiều nước trên thế giới và quyền sử dụng đất tại Việt Nam đang có s ự ti ệm
cận rất gần nhau, giao dịch thể hiện rõ nét nhất sự tương đồng này chính là
giao dịch “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ); khi đó nhà nước mới quản lý,
quy hoạch sử dụng, thu hồi dễ dàng, không phải đền bù quá lớn.
Có thể nhận định, phương án này đã bị thực tế hiện tại hiện nay v ượt
qua, đồng thời không phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, đặc biệt là pháp lu ật v ề đ ất
đai đã quy định các quyền cho người sử dụng đất, đã c ấp gi ấy ch ứng nh ận
quyền sử dụng đất, nhiều trường hợp đã thực hiện giao d ịch v ề quy ền s ử d ụng


đất hình thành nên các trường hợp sử dụng đất do người dân bỏ tiền ra nh ận
chuyển nhượng (như trường hợp mua đất của các nước có sở h ữu t ư nhân),
thậm chí người sử dụng đất đã góp vốn bằng quyền sử dụng đ ất đ ể s ản xu ất
kinh doanh theo thời hạn đến 70 năm.
Nhóm ý kiến thứ hai, cho rằng cần thừa nhận và xác lập sở hữu nhà nước,
sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân về đất đai. Chế độ sở hữu tồn dân về đất đai
khơng phù hợp với thời kỳ q độ, đồng thời cịn là mơi trường pháp lý thuận lợi
cho tham nhũng phát triển4. Quan điểm này cho rằng phải hạn chế đến mức thấp
nhất sự xáo trộn của quan hệ đất đai. Trước hết chỉ nên thừa nhận quyền sở hữu
đất đai của hộ gia đình, cá nhân đối với đất ở vì đây là loại đất luôn gắn liền với tài
sản không thể lượng hóa về thời gian tồn tại thuộc sở hữu của họ.
Mặc dù, quan điểm này về mặt lý thuyết có vẻ như hợp logic, nhưng về mặt
thực tiễn ở nước ta cịn nhiều vấn đề khó có thể xử lý như: Xác lập sở hữu tư
nhân đối với đất đai trên cơ sở nào? Đối với những loại đất đai nào? Bắt đầu từ
đâu? Chủ thể sở hữu tư nhân là ai? Nội hàm về quyền sở hữu tư nhân đối với các
loại đất? Những hệ quả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội khi chấp nhận sở hữu tư
nhân về đất trong điều kiện cụ thể của nước ta? Toàn bộ những vấn đề này cho

đến nay chưa được nghiên cứu kỹ càng. Nếu việc thay đổi đột ngột như thế, cịn
chứa nhiềm tiềm ẩn nguy hại khơn lường cịn hơn là việc tiếp tục duy trì chế độ
sở hữu tồn dân về đất đai hiện nay.
Nhóm ý kiến thứ ba, trên cơ sở muốn làm rõ bản chất và hình thức thể hiện
cụ thể về quan niệm “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu, nhà nước thống nhất quản lý về đất đai” để quy định rõ quyền hạn, trách
nhiệm, nghĩa vụ quyền lợi của Nhà nước (với tư cách là đại diện chủ sở hữu) đối
với từng loại đất; quy định rõ quyền hạn, quyền, trách nhiệm, lợi ích của mọi chủ
thể sử dụng đất đối với các quyền sử dụng đất được vận động trong thể chế kinh
tế thị trường, sao cho có hiệu quả cao nhất cả về kinh tế - xã hội. Phương án này
về mặt lý luận hình thức có thể thấy dường như có mâu thuẫn khi nói về sở hữu
4 GS.TS Đặng Hùng Võ- Công hữu đất đai: thay đổi để mang lại bước ngoặt mới trong phát triển – Chủ
nhật, 26/9/2010 – Tuần Việt Nam


toàn dân, nhưng lại trao các quyền sử dụng khá đầy đủ cho các chủ thể sử dụng.
Nhưng về mặt thực tiễn, xét bản chất của quá trình vận động quan hệ sở hữu đất
đai với tổng hợp cả về các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, mang nhiều tính
khả thi và phù hợp đối với điều kiện cụ thể ở nước ta.
Có thể thấy trong 3 nhóm ý kiến trên, nhóm ý kiến th ứ 3 là t ương đ ối có
nhiều ưu điểm nhất, và có tính khả thi nhất, phù hợp v ới th ực ti ễn trong xã h ội
Việt Nam. Đằng rằng là chế độ sở hữu đất đai toàn dân hiện nay v ẫn cịn nhi ều
khuyết điểm, bị lạm dụng khơng ít, tuy nhiên sự cần thiết có các gi ải pháp hồn
thiện điều đó vẫn là tốt hơn cả so với việc phải thay đổi chế độ s ở h ữu đất đai
hiện nay, vốn chưa được nghiên cứu kỹ càng, dễ gây xáo trộn v ề m ặt l ịch s ử
đồng thời dẫn đến nhiều phức tạp khác trong quá trình th ực tiễn qu ản lý đ ất
đai.
5. Kết luận của nhóm.
Mặc dù, nhóm chúng em đồng tình với nhóm ý kiến th ứ 3 trong vi ệc ti ếp
tục làm rõ bản chất và hình thức thể hiện cụ thể về quan niệm “đất đai thuộc sở

hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhà nước thống nhất quản lý về
đất đai”. Tức là sự phù hợp nhất đối với tình hình thực tiễn hiện nay với th ực
trạng của chế độ sở hữu tồn dân về đất đai. Tuy nhiên, nhóm em xin nhấn mạnh
rằng, nhóm ý kiến số 1, tức là chế độ sở hữu toàn dân đơn nhất phải được xem là
một chiến lược lâu dài mà chế độ sở hữu toàn dân hiện nay cần phải phát triển
để đạt được tới, trong một thời gian có thể lâu dài và tùy thuộc vào điều kiện
khách quan của toàn xã hội. Mặc dù trên cơ sở hiện nay, thực tiễn đã vượt qua
nhóm ý kiến thứ nhất, nhưng thực tiễn diễn ra trong điều kiện các yếu tố cơ sở
của cơ chế sở hữu tồn dân đơn nhất đó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ. Tức là trong
một điều kiện khả dĩ hơn trong tương lai, khi các yếu tố cơ sở của chế độ sở hữu
toàn dân đơn nhất đã được đáp ứng một cách đầy đủ, thì có thể chế độ sở hữu
tồn dân đơn nhất vẫn có khả năng đạt hiệu quả, và có thể đạt hiệu quả tốt hơn
so với việc cải tiến hoàn thiện chế độ sở hữu tồn dân ở nhóm ý kiến số 3. Việc
nhận định trên của nhóm em, là căn cứ dựa trên một số điển hình của các mơ hình


chế độ sở hữu toàn dân đơn nhất đã từng thực thi tại Liên Xô, trong một điều kiện
cụ thể mà nước họ đáp ứng đủ các yêu cầu cơ bản của chế độ sở hữu đó. Cịn Việt
Nam, chúng ta do những điều kiện hết sức khác biệt thì cần thiết phải từng bước
tiến hành trong khả năng của chúng ta. Vì thế nhóm em xin bảo lưu ý kiến cho
rằng nhóm ý kiến số 1 phải là một vấn đề lâu dài, cịn hiện nay nhóm ý kiến thứ 3
là hợp lý nhất.
Cịn đối với nhóm ý kiến số 2, tức là thừa nhận một phần t ư h ữu đất đai
và chế độ đa sở hữu về đất đai, thì nhóm em cho rằng khơng nên tái l ập l ại ch ế
độ sở hữu như thế, ngay cả khi các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới có đ ạt
được các thành tựu đi chăng nữa thì việc vận dụng đa dạng chế đ ộ s ở h ữu vào
nước ta có thể được xem là khơng phù hợp theo các góc độ lịch s ử, văn hóa,
chính trị, xã hội, ….
Thứ nhất, về góc độ lịch sử. Có thể nói, điều kiện tự nhiên và phong t ục
tập quán văn hóa của người Việt trong q khứ ít nhiều đã có nh ững ảnh

hưởng chế độ sở hữu ruộng đất của Việt Nam trong hiện tại.
+ Về điều kiện tự nhiên: Lịch sử vấn đề quan hệ đất đai ở Việt Nam đều xuất
phát từ lĩnh vực nơng nghiệp vì Việt Nam có truy ền th ống là n ền nông nghi ệp
lúa nước chịu sự chi phối rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Điển hình là việc
đắp đê làm thủy lợi phải huy động sức mạnh của cả cộng đ ồng t ừ xa x ưa đã tr ở
thành truyền thống ở Việt Nam. Nhưng, để chế ngự được thiên nhiên, huy đ ộng
được sức mạnh của toàn dân, nhà nước của các triều đại lịch s ử buộc ph ải n ắm
giữ đất đai, hay nói cách khác đất đai phải thuộc về quốc gia cơng thổ. Ngồi ra,
chỉ có tập trung đất đai như vậy thì các chính quy ền trong lịch s ử Vi ệt Nam m ới
có thể tạo được sức mạnh kinh tế cho đất nước vì các chủ thể nhỏ trong xã h ội
như các hộ gia đình với trình độ canh tác lạc hậu, đất đai lại bị địa hình chia cắt
manh mún sẽ khơng thể khai thác đất đai có hiệu quả. Tất nhiên, trong trong
lịch sử chế độ sở hữu ở Việt Nam vẫn tồn tại hai loại hình sở hữu là sở hữu nhà
nước quân chủ tập trung và sở hữu của cộng đồng làng xã, nh ưng s ở h ữu nhà
nước vẫn là sở hữu chiếm ưu thế.


+ Về tập quán văn hóa: Truyền thống văn hóa của người Việt là lối sống cấu
trúc nhà - làng - nước. Sự tác động của mối quan hệ đó đã chi ph ối rất sâu s ắc
đến quan hệ ruộng đất từ trong lịch sử. Một mặt, đất đai thu ộc v ề nhà n ước
tập quyền; mặt khác, một bộ phận ruộng đất được giao cho làng s ở h ữu và
trong mối quan hệ song song đó, sở hữu của nhà n ước tập quy ền v ẫn chi ếm ưu
thế. Và, mặc dù có sự sở hữu của làng nhưng ruộng đ ất của làng th ường đ ược
chia lại cho các thành viên trong làng là các hộ gia đình để cày c ấy. Vi ệc chia này
khơng phải là mãi mãi mà mang tính định kỳ sẽ chia lại. Do đó, ở Vi ệt Nam
khơng có cơ sở cho việc tồn tại sở hữu cá thể hộ gia đình về đất đai m ột cách
lâu dài, trên thực tế các hộ gia đình chỉ là nh ững ch ủ th ể đ ược s ử d ụng đ ất đai.
Tất nhiên, không phủ nhận rằng thực tế trong lịch sử đã từng có nhiều
nhân tố tác động có tính chất tấn cơng vào ruộng đất công đ ể bi ến ru ộng công
thành ruộng tư, làm cho quan hệ đất đai biến đổi. Chẳng hạn nhân danh ng ười

nắm quyền sở hữu tối cao, nhà nước qn chủ có thể sử dụng đất cơng đ ể
phong cấp cho các quan lại quý tộc dưới hình thái l ộc điền; nh ững h ộ gia đình
nơng dân giàu lên có thể mua lại ruộng đất của người nghèo làm tài s ản riêng;
bộ máy quản lý làng, xã cũng có thể biến đất cơng thành đất riêng. Tuy nhiên,
sự thừa nhận trên pháp lý về quyền tư hữu đất đai không phổ biến, h ơn n ữa,
điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội của dân tộc Việt Nam đã không thúc đẩy cho
sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng tư hữu hóa đ ất đai và cơng nhận sự tư
hữu đó là lâu dài. Có nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy, mỗi khi ruộng đ ất bị
tập trung quá lớn vào trong tay một bộ phận nhỏ của xã h ội, thì l ập t ức đa s ố
dân chúng còn lại tiến hành đấu tranh để giành lại quy ền s ử dụng ru ộng đ ất
cho mình, đó là khởi nguồn của các phong trào nông dân xuyên su ốt trong quá
trình lịch sử của đất nước chúng ta . Các vương triều phong kiến Việt Nam chỉ
hưng thịnh khi nào triều đại đó biết chăm lo đ ến l ợi ích c ủa nơng dân, nh ững
người cần có ruộng đất để sản xuất. Như vậy, trong lịch sử ở Việt Nam, ch ế độ
sở hữu công cộng của nhà nước đối với đất đai là đặc điểm nổi bật và ln có
điều kiện khách quan để tồn tại lâu dài.


Thứ hai, về góc độ kinh tế - xã hội. Hiện nay đất nước chúng ta đang th ực
hiện công cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, việc công nh ận ch ế
độ sở hữu tư nhân về đất đai (ngay cả trong ph ạm vi h ẹp) cũng có kh ả năng
trở thành một yếu tố cản trở cho sự phát triển kinh tế xã hội. Ngay một th ực tế
rõ ràng, là hiện nay mặc dù chưa công nhận, tuy nhiên chỉ v ới việc cho phép
mua bán, chuyển nhận quyền sử dụng đất, một hình th ức tiệm cận (ch ưa phải)
với hình thức tư hữu ruộng đất, cũng đã gây nên nhiều vấn đề h ết s ức ph ức
tạp đối với việc quản lý đất đai trong tình hình hiện nay. Thì khơng có gì có th ể
đảm bảo rằng nếu như việc công nhận tư hữu ruộng đất (ngay cả hạn chế) sẽ
không cản trở, hay gây phức tạp cho sự phát triển kinh tế xã h ội.
Thứ ba, về góc độ chính trị. Sự hình thành của chế độ tư hữu về đất đai,
chắc chắn sẽ dẫn đến việc tập trung ít hay nhiều đất đai, nói cách khác s ự ph ục

hồi của một giai cấp thống trị trong nông thôn lại đ ược tái l ập, t ức là các đ ịa
chủ sở hữu tuyệt đối về chế độ tư hữu ruộng đất, mà khơng ai có th ể can thi ệp
hay tước đoạt công cụ nô dịch của họ (vì đấy được coi là tài sản riêng). T ất
nhiên, đằng rằng là việc tập trung ruộng đất hiện nay trong nơng thơn m ặc dù
chỉ qua hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tức là người nơng dân
sản xuất cá thể làm ăn được có thể tập trung một kh ối lượng l ớn ru ộng đ ất
trong tay (cánh đồng mẫu lớn), tuy nhiên, họ chỉ mới dừng lại ở việc khai thác
lợi ích một cách tối đa trên chính mảnh ruộng đ ất ấy mà thôi, và ch ỉ ph ục v ụ
riêng cho một mục đích sản xuất ấy mà thơi (mặc dù vẫn giàu lên), ch ứ khơng
phải chiếm hữu nó một cách lâu dài và sử dụng ruộng đất nh ư m ột cơng c ụ bóc
lột và nơ dịch những người nông dân như trước đây trong lịch s ử. Vi ệc thu tô l ợi
chênh lệch trên ruộng đất mà người ta có quyền sử dụng, ít nhiều gì v ẫn đ ược
xem là một hành động chính đáng và hiện nay được Đảng và Nhà n ước ta cơng
nhận.
Ngồi ra, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là ph ấn đấu
nhằm xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ph ải tr ở thành m ột
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Phấn đấu nh ằm xây d ựng m ột xã h ội công
bằng, dân chủ và văn minh. Thì trong trường hợp cơng nh ận m ột ph ần ch ế đ ộ


sở hữu tư nhân về đất đai, ngay cả khi Nhà n ước có th ể gi ữ l ại quy ền quy
hoạch mục đích sử dụng từng thửa đất và ràng buộc chủ s ở h ữu th ực hiện m ột
số quy định về lợi ích chung của cộng đồng thì Nhà nước cũng khơng th ể ngăn
cản quyền sử dụng theo mục đích cá nhân của các chủ sở h ữu ấy, vì đ ất đai là
tài sản cá nhân của họ. Chính như vậy diễn ra m ột bất c ập trong xã h ội đó là
người khơng có đất để cày cấy, cịn người có đất lại có khi khơng dùng đ ến.
Thực tiễn ở các vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng quê ở Đồng
bằng Sông Cửu Long là một minh chứng thực tiễn hết s ức rõ ràng. Nh ững gia
đình nơng dân nghèo được Nhà nước cấp đất cho, nh ưng vì tham l ợi tr ước m ắt
mà bán quyền sử dụng đi để tiêu sài dẫn đến nghèo tiếp tục hoàn nghèo, bu ộc

Nhà nước lại phải cứu trợ bằng các biện pháp khác trong đó có c ả giao l ại đ ất
mới cho họ. Đấy là trong điều kiện mới chỉ có quy ền s ử dụng đ ất mà thơi, cịn
trong trường hợp tư hữu đất đai thì rõ ràng Nhà nước có muốn cũng ch ưa ch ắc
có thể mua lại đất và tiếp tục giao lại cho họ.
Những thực tiễn của đời sống xã hội ở trên, cũng phần nào cho th ấy tính
thực tiễn của những lợi chỉ dạy của Mác khi ông cho rằng, quy ền t ư h ữu có tính
độc quyền về đất đai là vật cản của tiến bộ kinh t ế, kỹ thu ật trong nơng
nghiệp. Thực tế, sự phân hóa giàu nghèo trong các n ước t ư bản phát tri ển hiện
nay cũng cho thấy tính thực tiễn của kết luận đó. Tất nhiên, khơng ph ải nói
như thế mà xem mọi sự quốc hữu hóa đất đai như ở các nước xã hội ch ủ nghĩa
(trước đây) đều mang lại lợi ích to lớn như vậy, mà th ực tế, bản thân hệ th ống
kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được vận hành trên một cơ sở hết s ức quan
trọng: sự hiểu biết về các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã h ội. S ự ch ủ quan
duy ý chí, sự quan liêu độc đốn, sự giáo điều chủ nghĩa trong vi ệc nh ận th ức
các quy luật kinh tế trước đây, xem việc thiết lập quan hệ sản xuất là c ơ s ở cho
việc phát triển lực lượng sản xuất, ngay lập tức cũng đã tr ở thành rào c ản, s ự
cản trở cho việc phát triển và sự tiến bộ về kinh tế và khoa học kỹ thuật trong
nơng nghiệp.
Tóm lại, nhóm chúng em chống lại nhóm ý kiến số 2, đó là về công nh ận
một phần việc tư hữu ruộng đất hay đa dạng hóa chế độ s ở h ữu về ruộng đất.


Và cho rằng, mặc dù hiện nay còn nhiều khiếm khuyết, nh ưng chế độ s ở h ữu
toàn dân hiện nay, căn cứ trên những điều kiện khách quan của lịch s ử, kinh t ế
-xã hội, chính trị, … vẫn là chế độ sở hữu về ruộng đất phù h ợp nh ất. Và trong
tương lai, việc cải tiến các hình thức sở hữu tồn dân hiện nay cần thiết ph ải
được cải thiện ngày một tốt hơn nữa, cụ thể hơn nữa. Tức là làm rõ quyền hạn,
trách nhiệm, nghĩa vụ quyền lợi của Nhà nước (với tư cách là đại diện chủ sở
hữu) đối với từng loại đất; quy định rõ vai trò, quyền hạn quản lý của Nhà nước
đối với mọi quá trình vận động của quan hệ đất đai đối với mọi loại đất; quy định

rõ quyền hạn, quyền, trách nhiệm, lợi ích của mọi chủ thể sử dụng đất đối với các
quyền sử dụng đất vận động trong thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế, sao cho có hiệu quả cao nhất cả về kinh tế - xã hội và tình hình đất nước ta
trong thời gian tới.



×