Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.59 KB, 46 trang )

Tỷ giá hối đoái
Mục Lục
Lời mở đầu
Chơng I: Tổng quan lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ
giá hối đoái
I/- Tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái là gì ?
2. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá
3. Tại sao tỷ giá hối đoái là quan trọng
II/-Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nớc vào tỷ giá hối đoái
1. Vai trò của Ngân hàng trung ơng và các công cụ điều chỉnh tỷ giá
1.1- Các loại hình can thiệp của Ngân hàng Trung ơng
1.2- Mục đích ,khả năng can thiệp của Ngân hàng TW
1.3- Các công cụ can thiệp
2. Luận cứ lựa chọn chính sách tỷ giá
2.1- Chế độ tỷ giá tối u
2.2- Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
2.3- Tỷ giá hối đoái với điều chỉnh hoạt động k/tế đối ngoại
III/-Lịch sử phát triển chế độ tỷ giá hối đoái trên thế giới
1. Chế độ bản vị vàng
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods 1944
3. Chế độ tỷ giá thả nổi
Chơng II: Thực trạng tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý
1
tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
I/- Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam
1. Giai đoạn từ năm 1955 đến 1989
2. Giai đoạn từ năm 1989 đến 1992
3. Giai đoạn từ năm 1992 đến 1995
4. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay
II/- Đánh giá về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam


1. Những mâu thuẫn và nan giải
1.1- Chú trọng duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái
1.2- Mắc kẹt trong vòng kim cô đợc hình thành bởi sự neo giữ chặt và cứng
nhắc tỷ giá đồng Việt Nam và Dollar Mỹ
2. Những biến chuyển gần đây ở Việt Nam
3. Sự đổi mới về chất trong việc điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị trờng
Chơng 3: Những giải pháp chủ yếu cho việc đổi mới chính sách
quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
I/- Sự cần thiết của việc đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý tỷ
giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
II/- Giải pháp nhằm góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách
quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
1. Dự báo tổng quát về thực trạng nền kinh tế trong thời gian trớc
mắt và xác định chế độ tỷ giá phù hợp
1.1- Mục tiêu kinh tế dài hạn và chế độ tỷ giá hối đoái
1.2- Điều kiện tài chính tiền tệ Việt Nam và chế độ tỷ giá hối
đoái
2
1.3- Bối cảnh kinh tế chính trị thế giới có tác động đến
Việt Nam và vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái.
2. Giải pháp về cách điều hành tỷ giá của Ngân hàng nhà nớc.
3. Nâng cao năng lực các công cụ cơ bản trong can thiệp vào tỷ
giá hối đoái.
3.1- Đối với công cụ nghiệp vụ thị trờng mở.
3.2- Đối với công cụ lãi suất.
3.3- Đối với công cục hành chính.
4. Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp
vào tỷ giá đạt hiệu quả cao.
4.1- Phân định rõ ràng mối quan hệ giữa chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ.

4.2- Đối với chính sách tiền tệ, không ngừng chú trọng
hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trờng mở nội tệ, công
cụ chủ chốt trong việc phối hợp chính sách.
4.3- Đối với chính sách tài chính, nguồn vốn trong nớc là
giải pháp khả dĩ cho việc bù đắp thâm hụt ngân sách.
5. Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối.
Lời kết.


3
Lời mở đầu
Gắn liền công cuộc đổi mới và mở cửa ở nớc ta, có nhiều yêu cầu phải
giải quyết cùng lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nớc, vừa mở
rộng giao lu thơng mại quốc tế, thu hút vốn đầu t nớc ngoài Nhu cầu mở
rộng lợng tiền cung ứng ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung cầu
mới về tiền tệ, bắt đầu có tác dụng mạnh hơn đến sự vận động của tỷ giá hối
đoái; Trong khi đó vẫn tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định
tiền tệ, tạo lập nền tảng cho phát triển duy. Tình hình tỷ giá biến chuyển không
kém phần phức tạp kể từ sau năm 1992, một thời kỳ mà lạm phát đã nằm trong
vòng kiềm toả của Ngân hàng nhà nớc (gọi là thời kỳ hậu lạm phát).
Bám sát tình hình để từng bớc hoàn thiện và đổi mới chính sách quản lý
tỷ giá hối đoái là yêu câù khá bức xúc hiện nay. Song đây là vấn đề có thể nói
vẫn còn mới mẻ đối với Việt Nam, nên cha thấy đợc nghiên cứu một cách quy
mô, đầy đủ. Và đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nhiều thuộc
tính và đặc trng mới đã xuất hiện nhng cha đợc định hình rõ ràng nên việc điều
hành tỷ giá trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trờng ở nớc ta vẫn cha đợc giải
quyết thoả đáng tơng xứng với vị trí của nó trong hệ thống lý luận thực tiễn.
Vấn đề tỷ giá hối đoái nói chung và chính sách quản lý tỷ giá hối đoái nói
riêng luôn đợc Chính phủ các nớc và các nhà kinh tế quan tâm xem xét, nghiên
cứu hàng ngày vì là yếu tố có ảnh hởng lớn đến cả nền kinh tế và là một mảng

rất quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ nói riêng và chính sách
kinh tế nói chung.
Bài tiểu luận này tập trung vào Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách
quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
- Chơng I : Tổng quan lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách
tỷ giá hối đoái.
- Chơng II : Thực trạng tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam hiện nay.
4
- Chơng III : Những giải pháp chủ yếu cho việc đổi mới chính sách
quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay.
5
Chơng I
Tổng quan lý luận chung về tỷ giá hối đoái
và chính sách tỷ giá hối đoái
I/- Tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái là gì.
Về hình thức tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là giá đơn vị tiền tệ của một nớc
đợc biểu hiện bằng các đơn vị tiền tệ nớc ngoài ,là hệ số quy đổi của một đồng
tiền này sang một đồng tiền khác ,đợc xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên
thị trờng tiền tệ
Về nội dung TGHĐ là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao
đổi hàng hoá dịch vụ ,phát sinh trực tiếp từ tiền tệ,quan hệ tiền tệ, sự vận động
của vốn,tín dụng giữa các quốc gia
Thông thờng thuật ngữ TGHĐ đợc ngầm hiểu là sồ lợng đơn vị tiền nội
tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ
2. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá
Sự hình thành quan hệ tỷ giá (TG) là quá trình tác động của nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan Các nhà kinh tế, các lý thuyết hiện đại đã có sự
thống nhất tronh việc thừa nhận các yếu tố quan trọng ,trực tiếp cấu thành nội

dung và tác động lên quá trình hình thành TGHĐ .Đó là:
+ Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nớc hữu quan
+ Trạng thái cán cân thanh quốc tế toán trực tiếp ảnh hởng đến cung
cầu ngoại tệ thông qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động
của tỷ giá lệch khỏi sức mua của các đồng tiền
+ Chênh lệch mức lãi suất giữa các nớc ,giữa thị trờng tín dụng nội địa
và quốc tế
6
+ Thực trạng hoạt động của các thị trờng tài chính ,ngoại hối và các xu
hớng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hởng đến tỷ giá
+ Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trờng tài chính trong
nớc và quốc tế
+ Các phơng thức ,công cụ điều chỉnh can thiệp của nhà nớc
+ Các cú sốc kinh tế ,chính trị,xã hội và các quyết sách lớn của nhà nớc
trong lĩnh vực kinh tế ,tài chính, tiền tệ.
3. Tại sao tỷ giá là quan trọng
Tỷ giá là quan trọng vì nó tác động đến giá cả tơng đối của hàng hoá
trong nớc và hàng hoá nớc ngoài
Khi đồng tiền của một nớc tăng giá ( tăng giá trị so với đồng tiền khác )
thì hàng hoá của nớc đó tại nớc ngoài trỏ thành đắt hơn và hàng hoá nớc ngoài
trở thành rẻ hơn ( gía nội địa tại hai nớc giữ nguyên).Ngợc lại khi đồng tiền
của một nớc sụt giá,hàng hoá của nớc đó tại nớc ngoài trở thành rẻ hơn trong
khi hàng hoá nớc ngoài tại nớc đó trở thành đắt hơn.
Một việc tăng giá của một đồng tiền có thể làm cho những nhà sản xuất
nớc đó khó khăn trong việc bán hàng của họ ở nớc ngoài và có thể tăng sự
cạnh tranh của hàng nớc ngoài tại nớc mình bởi vì giá nó giảm đi .Nh vậy
TGHĐ tác động đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trờng quốc tế.
II/- Lý thuyết về sự can thiệp của nhà n ớc vào TGHĐ
1. Vai trò của NHTW và nội dung các công cụ điều chỉnh tỷ giá
a/- Các loại hình can thiệp của NHTW

+ Can thiệp theo trách nhiệm : khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ
thống tỷ giá cố định đạt tới cận điểm qui định can thiệp thì cần phải can thiệp
+ Can thiệp tự do ( ngợc lại với can thiệp trách nhiệm ) có thể xảy ra
không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ thống tỷ giá hối
đoái thả nổi
7
Xét về mặt kinh nghiệm thông thờng , NHTW phải can thiệp trớc khi
giao động của tỷ gia hối đoái đạt tới những điểm cần can thiệp, nhằm giảm bớt
sự căng thẳng của tình hình
Nếu xem xét sự can thiệp của NHTW sẽ có tác động nhu thế nào đến
khối lợng tiền tệ quốc tế và lãi suất , thì có thể phân thành 2 loại:
+ Sự can thiệp vô hình : Chỉ có đợc nếu những thay đổi khối lợng tiền
tệ do ảnh hởng của can thiệp đợc khắc phục bằng những biện pháp của các
nhân hàng phát hành khác
+ Can thiệp hữu hình : Khi sử dụng hình thức này cho phép thay đổi
khợng tiền tệ quốc gia một cách công khai
b/- Mục đích , khả năng can thiệp của NHTW
Mục đích can thiệp của các NHTW là không hoàn toàn giống nhau ,
điều này phụ thuộc vào tình hình , ý đồ chiến lợc của mỗi nớc , ngay ở một
quốc gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau
Khả năng thành công trong can thiệp của nhà nớc phụ thuộc nhiều yếu
tố, tuy nhiên quan trọng nhất là :
+ Phạm vi hoạt động mua hoặc bán ngoại tệ
+ Mức độ tác động vào những dự tính về sự biến động tỷ giá trong tơng lai.
+ Bên cạnh mức độ can thiệp thì vấn đề có tính quyết định là việc sẽ
quyết định sử dụng những công cụ nào của chính sách tiền tệ.
c/- Các công cụ can thiệp.
Phơng án can thiệp phụ thuộc nhiều yếu tố ( mục đích, thực trạng thị tr-
ờng) song trớc hết phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành đang áp
dụng , mỗi chế độ ngoại hối đều có phơng án điều chỉnh , can thiệp thích hợp

* Phơng pháp lãi suất chiết khấu
Đây là phơng pháp thờng sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị
trờng. Với phơng pháp này , khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức báo động cần phải
can thiệp thì NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu . Do lãi suất chiết khấu tăng ,
8
lã suất cho vay trên thị trờng cũng tăng lên Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên
thị trờng thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất cao hơn . Nhờ thế mà sự căng thẳng
về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi , làm cho tỷ giá không có cơ hội để tăng nữa
Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất
định , vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một
cách gián tiếp , chứ không phải là trực tiếp nhân quả.
Lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay quyết định. Nó có thể biến
động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân , và chỉ trong trờng hợp thật
đặc biệt nó có thể vợt qua tỷ suất lợi nhuận bình quân . Còn tỷ giá thì do quan
hệ cung cầu về ngoại tệ quyết định . Quan hệ này bị chi phối chủ yếu bởi tình
hình của cán cân thanh toán . Điều này có nghĩa là các yếu tố để hình thành
lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do vậy mà biến động của lãi suất không
nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá
* Các nghiệp vụ thị trờng hối đoái.
Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái
là một trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nớc để giữ vững sự ổn
định sức mua của đồng tiền quốc gia . Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào
tỷ giá hối đoái
Việc mua bán ngoại tệ đợc thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá cả
ngoại tệ trên thị trờng và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan của nhà nớc.
Việc can thiệp này không nên áp đặt máy móc và vi phạm các quy luật kinh
tế mà phải là hành động có cân nhắc cân nhắc, tính toán kỹ lỡng những nhân
tố thực tại cũng nh chiều hớng phát triển trong tơng lai của kinh tế , thị trờng
tiền tệ và giá cả.
Điều chỉnh tỷ giá theo phơng pháp này, chính phủ thờng gặp phải

những phản ứng trái ngợc nhau của các doanh nghiệp , cũng nh của các tầng
lớp dân c khác nhau trong xã hội bắt nguồn từ lợi kinh tế . Những mâu thuẫn
này thờng nảy sinh giữa các nhà xuất khẩu và các nhà nhập khẩu , giữa
9
những ngời đang nắm giữ trong tay số lợng ngoại tệ vợi những ngời trong túi
họ chỉ có nội tệ.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này , một trong những diều kiện
không thể thiếu đợc cho bất kỳ quốc gia nào là cần phải thờng xuyên có một l-
ợng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trờng khi cần thiết.
* Quỹ dự trữ bình ổn định hối đoái.
Trong điều kiện tình hình giá cả luôn không ổn định , thậm chí hay
xảy ra những biến động lớn , các nớc thờng sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối
đoái nh là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thờng là :
+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia. Khi ngoại tệ vào
nhiều, thì sử dụng quỹ này để mua nhằm hạn chế mức độ mất giá của ngoại
tệ. Ngợc lại, trong trờng hợp vốn vay chạy ra nớc ngoài quỹ bình ổn hối đoái
tung ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn chặn
giá ngoại tệ tăng lên.
Sử dụng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái . Theo phơng pháp này , khi
cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ dự trữ bình ổn đoái sẽ đa vàng ra
bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán . Khi ngoại tệ vào nhiều,
quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để thu ngoại tệ nhằm duy trì
sự ổn định tỷ giá hối đoái.
Hạn chế của công cụ này là nó chỉ có tác dụng lớn khi khủng hoảng về
ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa ,việc tạo lập đợc quỹ bình ổn hối đoái đòi
hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế
* Vấn đề phá giá đồng tiền.
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng
tiền với các ngoại tệ . Kếtquả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hởng trực tiếp đến

sự tăng giảm của tỷ giá hối đoái
10
Giải pháp phá giá đồng tiền là một biện pháp mạnh ,cực đoan ,chỉ đợc
sử dụng trong trờng hợp hết sức cần thiết .Phá giá không chỉ bao gồm cả nội
dung về chính trị và xã hội . Vì vậy nó là một bài toán không phải lúc nào
cũng vận dụng đợc và không phải ai cũng có thể dùng nó để giải quyết những
vấn đề kinh tế gay cấn của đất nớc.
Bên cạnh việc giảm giá sức mua đồng bản tệ là việc nâng giá sức mua
đông bản tệ.
Việc nâng giá sức mua của đồng bản tệ đối với ngoại tệ thờng xảy ra
trong trờng hợp sau đây :
+ Giá hàng hoá và dịch vụ trong xuất khẩu đợc xác định thấp so với
giá trên thị trờng thế giới.
+ Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nớc bạn hàng nhằm tạo thế cân
bằng trong thơng mại quốc tế
+ Tăng khả năng nhập khẩu cũng nh kiềm chế lạm phát
Việc nâng giá đồng bản tệ cũng có thể xuất phát từ tình trạng phải tiếp
nhận các ngoại tệ đang bị mất giá và trở thành một công cụ hữu hiệu để ngăn
ngừa cá ngoại tệ đang bị mất giá chạy vào nớc mình.
2. Luận cứ lựa chọn chính sách tỷ giá và quan hệ của nó với chính sách
tài chính, tiền tệ.
a/- Chế độ tỷ giá tối u
Khi có câu trả lời đúng ,dứt khoát về một nớc nhỏ sẽ có lợi khi áp dụng
chế độ TGHĐ cố định hay linh hoạt .Nói chung sự quản lý tối u TGHĐ phụ
thuộc v ào các mục tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách ,vào nguồn
gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trng cơ cấu của nền kinh tế
đang xét.Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay
đổi về mức độ tối u của chế độ TGHĐ
Vấn đề tiêu chuẩn tối u về nguyên tắc cần phải đợc cụ thể hoá .Trong
thực tế các phân tích hiện đại đã tập trung vào tiêu chuẩn tơng đối hẹp của ổn

định kinh tế vĩ mô,đợc định nghĩa là cực tiểu sai phơng của tổng sản phẩm
11
thực, mặt bằng giá hoặc tiêu dùng thực trớc cơn sốc ngẫu nhiên có tính chất
tạm thời.
Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung TGHĐ
cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh hoạt đều không phải là tối u đối với
ổn định kinh tế vĩ mô.Thật vậy một mức độ tơng đối của sự linh hoạt lại có
nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế khi cần phản
ứng lại các cơn sốc ngẫu nhiên .Các TGHĐ có quản lý hoặc cố định linh
hoạttrở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở các nớc đang phát triển . Loại cơn
sốc mà nền kinh tế phải thờng phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem
xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh .Các nghiên cứu trớc
đây đã nhận dạng một số tiêu chuẩn cho quản lý để phản ứng lại các cơn sốc
trong nớc .Các cơn sốc nội địa đòi hỏi áp dụng TGHĐ cố định hay linh hoạt
phụ thuộc vào việc cơn sốc là tiền tệ hay là thực tế .Khi cơn sốc là tiền tệ thì
quan điểm xa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ có hiệu lực hơn trong việc ổn
định tổng sản phẩm .Vì cung tiền tệ là biến nội sinh dới chế độ TGHĐ, các đột
biến trong thị trờng tiền tệ nội địa đơn giản sẽ đợc hấp thụ bởi thay đổi của dự
trữ ngoại tệ mà không ảnh hởng đến các điều kiện cung cầu của thị trờng hàng
hoá ,là nơi quy định mức độ biến động kinh tế .Đổi lại khi cơn sốc là thực tế
thì TGHĐ cần phải đợc điều chỉnh ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên
(hoặc giảm ) cầu bên ngoài.Ví dụ một khi tăng tỷ giá thực sẽ làm giảm nhẹ tác
động của cơn sốc thuận bên cầu nội địa đối với tổng sản phẩm bằng cách
chuyển hớng một số cầu tăng lên ra nớc ngoài .
Nói chung theo mục tiêu của chính sách nhằm vào ổn định tổng sản
phẩm trớc các cơn sốc tạm thơì thì TGHĐ cần phải đợc điều chỉnh khi cơn sốc
xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trờng
b/- Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ TGHĐ.
Một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc
lên nền kinh tế cũng nh đặc trng cơ cấu của nền kinh tế .Tuy vậy trong thực tế

khó mà áp dụng các tiêu chuẩn đó cho các trờng hợp cụ thể .Các khó khăn đó
không những liên quan đến các vấn đề thực tiễn ,sự nhận biết nguồn gốc các
12
cơn sốc và các đặc trng cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng
giữa các mục tiêu chính sách khác nhau .
Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ TGHĐ thích hợp còn phụ thuộc vào
các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra .Các nghiên cứu về các lợi thế của
TGHĐ cố định và linh hoạt hầu nh là dành cho trờng hợp một nền kinh tế nhỏ
không trải qua lạm phát cao và nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại ,và chịu
tác động của các cơn sốc tạm thời .Trong lợc đồ đó,nên tập trung vào ổn định
tổng sản phẩm ,thay cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế là mục tiêu
chính sách chủ yếu .Thực vậy tổng sản phẩm sẽ ổn định bởi chính cán cân
thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thụ các cơn sốc,để triệt tiêu tác động
của các thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩm . Tuy vậy mâu thuẫn của
chính sách có thể xảy ra khi một cán cân thanh toán quốc tế cũng đợc coi là
mục tiêu chính sách .Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các nớc đang phát
triển ,là những nớc thờng thiếu dự trữ ngoại tệ .Nếu vị trí cán cân thanh toán
quốc tế tạo nên sự hạn chế thì TGHĐ cần phải đợc dùng nh là cộng cụ để tạo
mục tiêu cán cân thanh toán quốc tế thay đổi cho ổn định tổng sản phẩm .Mặt
khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì TGHĐ có thể là chức năng hỗ
trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả .
c/- Tỷ giá hối đoái với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
* Xác định TGHĐ cân bằng.
Nói chung có hai tiếp cận để xác định TGHĐ thực cân bằng .Tiếp cận
đơn giản và phổ biến là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh
.Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ giá thực cân bằng tỷ lệ
với các mức giá tơng đối giữa một nớc với đối tác ngoại thơng của mình.tức là
đối với các sức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia .Nh vậy tỷ giá sức
mua so sánh đợc coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giữa các đồng
tiền ,với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời

gian.
13
Tiếp cận khác có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực nh
là giá so sánh tơng đối giữa hang hoá mậu dịch hoá và hàng hoá không mậu
dịch hoá đợc ,nó đa ra thớc đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực
giữa hai khu vực trọng yếu này của nền kinh tế .
* TGHĐ thực ,sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát.
Trong khi tỷ giá thực có thể chệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số các
cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của việc xấu đi súc cạnh tranh đối
với bên ngoài ở hầu hết các nớc đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao
kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá danh nghĩa cố định . Các tiếp cận để ngăn
ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực .
Nh vậy, quy tắc tỷ giá thực có thể ngăn ngừa đợc sự xuất hiện mất cân
đối và lâu dài của các giá cả tơng đối và do đó tránh đợc mất cân bằng
ngoại ,bằng cách cho phép tỷ giá danh nghiã đợc điều chỉnh thơng xuyên và
theo liều lợng tơng đối nhỏ .Ngời ta lập luận rằng TGHĐ tế có thể giữ ở mức
đúng đắn ,không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế ,và do đó
che lấp đợc vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trờng chính trị .Hơn thế
nữa ngời ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một mốc cho dự đoán
bởi vì nó cung cấp cho những ngời tham gia thị trờng thông tin bổ ích về chiều
hớng có thể xảy ra các giá tơng đối và do đó tránh đợc các quyết định sản
xuất dựa trên các dự đoán mong đợi sai lệch .
III/- Lịch sử phát triển chế độ TGHĐ trên thế giới
1. Chế độ bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng tức lấy vàng làm bản vị .Ngày 22/12/1917 ISACC
NEWTON đã ấn định giá vàng ở mức 3 pound17siling 10,5xu cho 1ounce
.Cho tới thế chiến thứ nhất nớc Anh sau đó dựa theo định mức vàng và tiên
phong trong việc đổi vàng thành tiền hoặc ngợc lại .Với chế độ này các nớc ấn
định một số tiền nhất định cho mỗi ounce vàng .Tỷ giá trao đổi đối với bất kỳ
14

hai loại tiền theo bản vị vàng là so sánh số đơn vị cho mỗi ounce từ nớc này
sang nớc khác . Trong chế độ bản vị vàng thì biên độ giao động của tỷ giá , gọi
là điểm vàng ( bằng ngang giá vàng cộng hoặc trừ chi phí vận chuyển ) .
Những gánh nặng về tài chính của thế chiến thứ nhất buộc Anh phải bán phần
lớn vàng dự trữ của họ và Bản vị vàng chấm dứt từ đó .
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods năm 1944
Hội nghị các đại diện Ngân hàng trung ơng của phe đồng minh và Anh,
Mỹ cuối năm 1994 . Họ đã thiết lập IMF , WB và bản vị vàng hối đoái . Theo
chế độ này tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nớc thành viên đợc hình
thành trên cơ sở so sánh hàm lợng vàng của USD (1USD =0.888671 gram vàng
nguyên chất ). Các tỷ giá này chỉ đợc phép giao động trong biên độ 1% của tỷ
giá chính thức đã đợc đăng ký tại IMF. Tại thời điểm đó , một ounce vàng đợc
thoả thuận bằng 35 USD , giá trị trung bình của đồng bảng Anh là 2.4USD;
FRF là 0.18 USD và DM là 0.2732 USD. Trong trờng hợp tỷ giá vợt quá biên
độ 15 thì Ngân hàng trung ơng phải can thiệp bằng cách mua vào và bán ra
một lợng USD nhất định .
Tuy nhiên sau một loạt các biến động về kinh tế và chính trị thé giới ,
vào năm 1971 , chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods đã bị sụp đổ.
3. Chế độ tỷ giá thả nổi .
Chế độ này ra đời ngay sau khi chế độ tỷ giá cố định BrettonWoods sụp
đổ .Với chế độ tỷ giá thả nổi này ,tỷ giá đợc hình thành trên cơ sở diễn biến
cung cầu ngoại hối trong nền kinh tế ,không do chính phủ quy định mắc dù
chính phủ có can thiệp .
Chế độ tỷ giá thả nổi bao gồm :
+ Chế độ tỷ giá thả nổi tự do : Tỷ giá thị trờng tự do đợc xác định trên
cơ sở cung cầu tiền tệ .Bị tác động bởi thay đổi mức giá các mức lãi suất khác
nhau và tăng trởng kinh tế
15
+ Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý : Phần lớn các quốc gia có nền kinh
tế theo cơ chế thị trờng đã thông qua sự can thiệp của Ngân hàng trung ơng để

can thiệp sự thay đổi của tỷ giá hối đoái.
16
Chơng II
Thực trạng tỷ giá hối đoái và chính sách
tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I/- Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá tại Việt Nam
Để có căn cứ cho việc xác định tỷ giá hối đoái và xây dựng các quan
điểm điều hành chính sách tỷ giá hối đoái trong tơng lại, cần điểm qua các giai
đoạn hình thành và phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam.
1. Giai đoạn từ năm 1955-1989.
Trong giai đoạn từ năm 1955-1989, mặc dù nhiều nớc trên thế giới đang
áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi và thả nổi có quản lý, nhng các nớc trong hệ
thống XHCN, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nớc luôn can thiệp mạnh
vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể
tồn tại và phát huy tác dụng, thay vào đó là chế độ tỷ giá cố định. Việt Nam
cũng không nằm ngoài khuôn khổ ấy. Tỷ giá chính thức của Việt Nam lần đầu
tiên đợc công bố vào ngày 25/11/1955, là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng
nhân dân tệ Trung Quốc: 1 VNĐ = 1.470 NDT. Tỷ giá này đợc xác định bằng
cách so sánh giá bán lẻ 34 mặt hàng tiêu dùng tại Thủ đô và một số tỉnh biên
giới giữa hai nớc, nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nớc trong
những năm kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam và
đồng tiền khác đợc thiết lập. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), Nhà
nớc còn đa ra hai loại tỷ giá khác là: Tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội
bộ. Nh vậy chế độ tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá.
Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của
Nhà nớc trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu
17
quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới tỷ giá nói
riêng, đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung trở thành vấn đề cấp bách.
2. Giai đoạn từ năm 1989 - 1992.

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sau, Nhà nớc bắt đầu thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bớc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
chuyển dần sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Đây là thời kỳ có
sự chuyển biến mạnh mẽ trong t duy quản lý và điều hành kinh tế của Nhà n-
ớc, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai
trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách đợc đặc biệt quan tâm. Tháng
3/1989 Nhà nớc chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi
chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thơng, thống nhất thành mội loại tỷ giá
duy nhất áp dụng cho mọi loại hình trao đổi. Phơng pháp xây dựng tỷ giá cũng
đợc đổi mới, trớc đây tỷ giá chính thức đợc xây dựng trên cơ sở "đồng sức
mua" (PPP) bằng việc lập ra một rổ hàng hoá tiêu dùng qua đó so sánh giá cả
trong và ngoài nớc để từ đó xác định tỷ giá. Việc xây dựng tỷ giá bằng phơng
pháp này thiếu chính xác và không phản ánh đúng mức đợc tình hình thị trờng.
Năm 1989, tỷ giá chính thức đợc Ngân hàng nhà nớc công bố căn cứ vào chỉ
số lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị tr-
ờng tự do và giá vàng trên thị trờng quốc tế và trong nớc. Trên cơ sở tỷ giá này,
các Ngân hàng thơng mại xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch
hàng ngày với biên độ dao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã
góp phần cải tạo phần nào tình hình trên thị trờng ngoại hối, xoá bỏ tình trạng
bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trờng vẫn biến động mạnh, chúng ta có thể thấy
rõ điều này qua bảng số liệu sau:
18
Tỷ giá hối đoái VND/USD từ năm 1989 đến 1992
Đơn vị VND/USD
Tháng 1 Tháng 3 Tháng 6 Tháng 9 Tháng 12
1989
- Ngân hàng 3500 4200 4350 4100 4200
- T nhân 5200 5350 4400 4225 4575
1990

- Ngân hàng 4300 4300 4800 5750 6650
- T nhân 4650 4450 5600 6300 7050
1991
- Ngân hàng 7000 7400 8300 10700 12900
- T nhân 7400 7900 8830 11050 12550
1992
- Ngân hàng 11880 11550 11285 10950 10720
- T nhân 11220 11550 11290 10980 10650
Những số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá
USD/VND từ giữa năm 1990 mà đỉnh cao là cuối năm 1991, lúc này 1 USD
gần bằng 13.000 VND. Nguyên nhân chính làm cho USD tăng giá là do ảnh h-
ởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của Chính
phủ và mức độ lạm phát nặng nề của Việt Nam. Cuối năm 1992, nguồn ngoại
tệ kiều hối đổ về khá lớn làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác Ngân hàng nhà
nớc kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trờng ngoại
tệ, nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp về cơ bản đợc đáp ứng, nạn lạm phát
gần nh đợc chặn lại, tạo lòng tin cho dân chúng vào sự ổn định của đồng Việt
Nam, giải toả đợc tâm lý đầu cơ. Đó chính là những nguyên nhân cơ bản nhất
khiến cho xu hớng lên giá của đồng đô la bị chặn lại, tỷ giá USD/VND không
những không tăng mà còn giảm xuống.
3. Giai đoạn từ năm 1992-1995.
19
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng
nhà nớc vào thị trờng ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần ổn định khiến cho lợng
ngoại tệ của các doanh nghiệp đợc giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hớng mạnh voà
kinh doanh nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều (ớc tính từ
ngày 1 đến 18/1/1993 nhân dịp Tết nguyên đán, có khoảng 60 ngàn ngời Việt
Nam ở nớc ngoài về ăn tết, mang về một lợng ngoại tệ khoảng 300 đến 400
triệu USD) nên tình hình cung - cầu ngoại tệ đảo ngợc so cùng ký mọi năm,
cung lớn hơn cầu, giá đô la giảm nhanh. Mức giá phổ biến trên thị trờng t nhân

tại Hà Nội trong tháng năm 1993 là 10.300 đến 10.400 VND/USD.
Tình trạng USD giảm nhanh đã ảnh hởng xấu đến xuất khẩu và kích
thích nhập khẩu quá mức, nên Ngân hàng nhà nớc phải can thiệp nhằm tăng
giá đồng đô la. Từ tháng 3/1993, USD đã lên giá dần và duy trì xu hớng lên giá
một cách ổn định.
Tháng 9/1994, thị trờng ngoại tệ liên Ngân hàng đợc thành lập, Ngân
hàng nhà nớc thực hiện vai trò ngời mua bán cuối cùng trong ngày, tỷ giá
chính thức vẫn đợc Ngân hàng nhà nớc công bố, chỉ có biến động là có sự thay
đổi. Từ cuối năm 1994, USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt
khác, đặc biệt là so với Yên Nhật, nhng trên thị trờng Việt Nam giá đô la vẫn
tơng đối ổn định và tăng ở mức độ nhỏ tạo điều kiện cân đối lợi ích giữa xuất
khẩu và nhập khẩu, phù hợp với chiến lợc kinh tế hớng ngoại.
4. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay.
Năm 1996 mức thâm hụt cán cân thơng mại ở nớc ta lên đến 4 tỷ đô la,
tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến 16%, nhu cầu về USD tăng tạo sức ép giảm
giá lên VND. Do vậy Ngân hàng nhà nớc đã mở rộng biên độ giao động của tỷ
giá từ 0,5% lên 1% và tháng 2/1997 là 5%, bên cạnh đó tỷ giá chính thức cũng
nâng lên dần. Ngày 2/7/1997 ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á bắt
đầu phát ra từ Thái Lan, Việt Nam cũng bị ảnh hởng về mặt buôn bán, thanh
toán và cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, Ngân hàng nhà nớc công bố quyết
20
định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính
thức. Cầu ngoại tệ trên thị trờng rất cao nên hầu nh việc mua bán ngoại tệ của
các Ngân hàng thơng mại thờng xuyên bám sát mức trần cho phép. Đầu năm
1998, Ngân hàng nhà nớc đã đa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị tr-
ờng nh: Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới,
quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng đối với các tổ chức tín
dụng đợc phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ
giá. Lần thứ nhất ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nớc quyết định nâng tỷ giá từ
11.175 VND/USD lên 11800 VND/USD làm tỷ giá giao dịch của Ngân hàng

thơng mại xấp xỉ với giá trên thị trờng tự do. Lần thứ hai diễn ra vào ngày
7/8/1998, tỷ giá chính thức đợc nâng từ 11800 VND/USD lên 12998
VND/USD, tăng 16,3%. Bên cạnh đó, biên độ giao dịch ngoại tệ cũng đợc thu
hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% nh trớc đây. Việc chủ động điều chỉnh
tỷ giá của Ngân hàng nhà nớc đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá cuả
Ngân hàng thơng mại và tỷ giá trên thị trờng tự do.
II/- Đánh giá về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam
1. Những mâu thuẫn và nan giải.
1.1- Chú trọng duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái.
Việc duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái đợc hình thành bởi nỗi
ám ảnh về sự bùng phát lạm phát trở lại. Bởi lẽ hầu hết các tác nhân cho một
cuộc tái lạm phát vẫn còn đó. Ngân sách càng căng thẳng do nhu cầu chi rất
lớn, đặc biệt chi cho đầu t phát triển, vợt quá khả năng thu để bù đắp từ một
nền kinh tế chủ yếu dựa nền tảng chính là nông nghiệp còn lạc hậu. Thâm hụt
Ngân sách khó bề trang trải luôn là áp lực đối với việc phát hành tiền để bù
đắp thông qua tín dụng Ngân hàng là nguyên nhân trực diện gây lạm phát. Mặt
khác, tăng trởng tín dụng nhanh gắn liền yêu cầu mở rộng đầu t trong nớc bình
quân năm (thời kỳ 1990-1996) khoảng 35%, vợt quá khả năng tích luỹ còn rất
21
hạn hẹp của nền kinh tế (khoảng 15-16% GDP hàng năm) cũng là một nguyên
nhân buộc mở rộng cơ số tiền tệ quá mức, có thể dẫn đến lạm phát. Cuối cùng,
hệ thống tài chính Ngân hàng mới sắp xếp lại, phát triển ở trình độ hết sức sơ
khai, công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn thiếu và yếu kém, chất lợng và
hiệu quả sử dụng vốn đầu t trong nền kinh tế cha cao là những nguy cơ tiềm
ẩn không thể xem thờng đối với lạm phát. Mọi yêu cầu điều hành tiền tệ lúc
này chủ yếu hớng vào ổn định sức mua đồng tiền là chính, bảo toàn tích luỹ,
khuyến khích đầu t cho phát triển. Chính sách tỷ giá đợc hình thành trên cơ sở
thiên về cố định hơn là thả nổi, mặc dù có sự điều tiết không thờng xuyên của
Ngân hàng nhà nớc nhằm vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa kiểm soát nhập
khẩu hợp lý. Nói chung, chính sách tỷ giá hối đoái này đã đóng góp đáng kể

vào thực hiện các mục tiêu đã nêu, nhng chủ yếu mới thiên về "hớng nội", nổi
bật là khuyến khích tích luỹ giá trị dới dạng nội tệ hơn là ngoại tệ (chủ yếu là
đồng đô la), thu hút vốn đầu t nớc ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ nớc ngoài đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh trong nớc. Bên cạnh đó, xu hớng cố định hoá tỷ giá hối đoái năm
1992 đến gần nửa cuối năm 1997 (trớc khủng hoảng tiền tệ châu á) cũng góp
phần thúc đẩy làn sóng đô la hoá khuyến khích đầu cơ ngoại tệ qua Ngân
hàng, tăng rủi ro tỷ giá hối đoái và khả năng thanh toán.
1.2- Mắc kẹt trong vòng "kim cô" đợc hình thành bởi sự neo giữ chặt
và cứng nhắc tỷ giá VND vào đô la Mỹ.
Một mặt, do luồng vốn đấu t bên ngoài đợc đón nhận ngày càng nhiều
(bao gồm FDI, ODA, vay thơng mại, ) luôn hình thành xu hớng cung USD
tăng vợt cầu, thờng xuyên gây áp lực trực diện gia tăng lợng tiền cung ứng,
nhằm trung hoà ngoại tệ. Dẫn đến tiềm ẩn khả năng kích thích lạm phát một
khi Ngân hàng nhà nớc còn thiếu công cụ điều hoà nhanh nhạy lợng tiền cung
ứng (cha có nghiệp vụ thị trờng mở).
Mặt khác, cung vợt cầu về USD trong lúc tỷ giá hối đoái danh nghĩa th-
ờng xuyên bị neo giữ (khoảng 10800 đến 11175 VND/USD) từ 1992 đến 1997,
22
dần dần khiến VND luôn bị đánh giá quá cao một cách giả tạo so với USD,
trong khi USD trong cùng thời gian đã lên giá khoảng 20% trên thị trờng tiền
tệ thế giới. Kết quả ngoài nh đã phân tích ở động thái thứ nhất, còn đa đến
giảm ý nghĩa mọi sự khuyến khích đối với xuất khẩu, tăng tỷ lệ nội tiêu sản
phẩm của cả khu vực có vốn đầu t nớc ngoài, gây thâm hụt lớn cán cân vãng
lai (khoảng 13-14% GDP năm 1995, 1996), nợ nớc ngoài gia tăng, dự trữ
ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trởng xuất khẩu, nguy cơ đổ vỡ cán cân
thanh toán quốc tế luôn rình rập, báo hiệu khủng hoảng nợ nớc ngoài.
Trớc xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thị trờng tài chính, tiền tệ thế giới
dấy lên hết sức mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 đến nay, ngày càng cho thấy
những mặt trái không thể xem thờng của nó, mà bằng chứng là từ tháng

7/1997 cơn bão tài chính, tiền tệ Đông Nam á đã lan rộng và ảnh hởng gây hậu
quả hết sức tai hại đến nhiều nền kinh tế trong vào ngoài khu vực. Thực trạng
nền kinh tế Việt Nam cũng bắt đầu bộc lộ những yếu kém từ cuối năm 1996
(nợ quá hạn chung Ngân hàng gia tăng, nguy cơ đổ vỡ hệ thống các Ngân hàng
thơng mại cổ phần, đầu t nớc ngoài bắt đầu sụt giảm ). Tốc độ tăng trởng
kinh tế tụt dần cùng thời gian (năm 1997 : 8,7%; năm 1998 : 5,8%). Dự trữ
ngoại tệ giảm thấp dới mức kế hoạch và lạm phát bắt đầu tăng lên (năm 1998 :
9,2%). Tất cả cho thấy, xét về cả hai động thái đã nêu của chính sách tỷ giá
hối đoái đều cho thấy hết sức bất lợi cho nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn
phát triển mới cần khai thác tốt hơn nội lực, kết hợp thu hút và sử dụng hiệu
quả hơn mọi nguồn ngoại lực, để vừa ổn định trật tự vĩ mô nền kinh tế trong n-
ớc, vừa đáp ứng yêu cầu mở cửa hội nhập vững vàng với bên ngoài. Do đó bản
thân chính sách tỷ giá hối đoái phải có sự thay đổi căn bản, hoàn thiện không
ngừng để thích ứng tình hình và yêu cầu mới của nền kinh tế.
2. Những biến chuyển trong việc điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng nhà n-
ớc từ 1990 đến trớc tháng 3/1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều
23
tiết nhẹ của Nhà nớc, chủ yếu dựa vào neo giữ và qui đổi VND theo USD qua
một tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu USD, DM, FRF, GBP, JPY) trong đó USD chiếm
tỷ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng tỏ chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn
tiền tệ cha ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ
quốc gia mỏng. Cùng thời gian này xuất hiện xu hớng tỷ giá tăng quá chậm so
tốc độ lạm phát (tính theo chỉ số liên hoàn qua nhiều năm) cho thấy VND bị
đánh giá qua cao (so sánh 1996/1992 : Tỷ giá tăng khoảng 5,2% trong lúc lạm
phát tăng hơn 40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, hớng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định buộc chính
sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại. Những bất hợp lý đã nêu sớm đợc nhìn
nhận và bằng vào 2 quyết định (tháng 3/1997 và 10/1997) Ngân hàng nhà nớc
đã nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thơng mại so tỷ giá

chính thức của Ngân hàng nhà nớc công bố, lần lợt lên 5% rồi 10% từ mức
0,5% - 1% từng áp dụng suốt 2 năm 1995, 1996.
Trớc ảnh hởng dội vào của cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á, VND
vẫn bị đánh giá cao tơng đối khoảng 10-40% so với những đồng tiền trong khu
vực. Lúc này bản thân việc điều chỉnh không thôi các mức biên độ cha đủ tạo
chuyển biến lớn về điều hành tỷ giá thích ứng tình hình mới. Thực chất điều
hành tỷ giá bằng cơ chế công bố tỷ giá chỉ đạo của Ngân hàng nhà nớc
(NHNN) gắn với biên độ qui định là nhằm tránh công khai phá giá tiền tệ về
danh nghĩa. Việc áp dụng biên độ giao dịch cho phép các Ngân hàng thơng
mại (NHTM) áp dụng linh hoạt tỷ giá hối đoái thực tế tuỳ thuộc tình hình tiền
tệ và mục tiêu chính sách kinh tế chung. Còn tỷ giá hối đoái danh nghĩa vẫn
thờng xuyên đợc cố định (tính đến cuối năm 1997 trong khoảng 10890 - 11175
VND/USD).
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm nhiều nớc nếu quá ỷ lại vào biên độ tỷ giá,
thay vì điều chỉnh hợp lý tỷ giá chính thức sẽ khiến việc điều hành của NHNN
cứng nhắc về kỹ thuật và ít có tác dụng khi tình hình tiền tệ bất ổn định buộc
24
NHNN thờng xuyên phải điều chỉnh biên độ này. Điều này vô hình chung tạo
kẽ hở lợi dụng cho các lực lợng thị trờng. Các NHTM đua nhau giao dịch theo
tỷ giá sát trần mà NHNN khó kiểm soát trạng thái ngoại hối của họ. Hơn nữa,
các nguồn ngoại tệ trong và ngoài luồng chính thức thờng xuyên hoà trộn
nhau, đầu cơ chênh lệch tỷ giá kiếm lời nảy sinh (qua giao dịch trên tài khoản,
qua diễn biến lãi suất nội, ngoại tệ). Chẳng hạn, vào quý IV/1997 tỷ giá công
bố của NHNN suốt hơn 1 năm là 11170-11175 VND/USD, với biên độ đợc
phép là 10% thì tỷ giá giao dịch thờng xuyên của thị trờng ngoại tệ liên Ngân
hàng là 11175 VND x 1,10 = 12292 - 12293 VND. Chênh lệch thấp tới khoảng
7-8% so tỷ giá thực tế thị trờng (đã vọt lên trên mức 13000 VND ăn 1 USD từ
tháng 11/1997).
Các hiện tợng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo cung cầu
ngoại tệ, làm phức tạp hoá quản lý ngoại hối của Nhà nớc, phần nào có nguyên

nhân từ sự bất cập của cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái cha thích ứng với hiện
trạng VND ở xu hớng bị đánh giá cao quá mức. Một tính toán vào đầu năm
1998 cho thấy rõ tình hình này. Nếu tính theo phơng pháp PPP với mức lạm
phát năm 1997 của VND là 3,7% của USD là 2,5% trong lúc USD lên giá
khoảng 20% so với hầu hết các đồng tiền thì tỷ giá giao dịch ở thị trờng ngoại
tệ liên Ngân hàng đáng phải 13567 VND/USD. Tính toán cho thấy NHNN
thông qua tỷ giá chính thức thấp và biên độ khống chế 10% đã buộc các
NHTM phải giao dịch với tỷ giá ở mức tối đa mà vẫn thấp hơn 10% so với mức
thực tế. Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết đợc bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối
đoái danh nghĩa. Chứ nới rộng thêm nữa biên độ giao dịch tỷ giá là hết sức
nguy hiểm.
NHNN đã ý thức đợc hiểm hoạ đó và quay trở lại điều chỉnh tỷ giá hối
đoái chính thức tăng khoảng 5,6% từ 11175 lên 11800 VND/USD. Bớc cải tiến
này vừa có lợi về mặt thanh toán đối ngoại là giảm bớt mức độ VND bị đánh
25

×