Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tìm hiểu về công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.42 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….

TÊN ĐỀ TÀI: Tìm hiểu về Cơng ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Luật Thương mại quốc tế

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) được soạn thảo bởi Ủy
ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong việc nỗ lực hướng tới
thống nhất nguồn luật áp dụng chung cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cơng ước này đã
trở thành công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua


bán hàng hoá quốc tế đối với các quốc gia thành viên. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn
chủ đề: "Tìm hiểu về Cơng ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế" làm đề tài kết
thúc học phần.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Phân tích làm rõ những nội dung của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hố quốc
tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Cơng ước Viên 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế được soạn thảo bởi Ủy ban Liên
hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) và những tài liệu khác có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác —Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bài tập lớn sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngồi ra trong q
trình nghiên cứu đề tài, những phương pháp khoa học như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê
cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Kết cấu của bài tập lớn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài tập lớn gồm 3


phần:
Phần 1: Công ước Viên 1980 và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Phần 2: Nội dung của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và những
khác biệt với Luật Thương mại của Việt Nam


Nội dung.
Phần 1. Công ước Viên 1980 và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế.
1. Cơng ước Viên 1980.
1.1. Định nghĩa.
Công ước viên Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế là một hiệp ước hay bản hợp đồng
có tính chất ràng buộc giữa các quốc gia. Công ước thiết lập những quy tắc điều chỉnh những
mặt cụ thể trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng thương mại giữa người bán và người mua
mà trụ sở thương mại của họ ở các nước khác nhau. Bằng việc thừa nhận công ước, một nước sẽ
cam kết với các nước khác cũng thừa nhận công ước này việc thừa nhận các quy tắc của Cơng
ước như một phần của pháp luật nước đó.
1.2. Mục đích
Mục đích của CISG là tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho việc mua bán nguyên liệu thô, các
mặt hàng tiêu dung, mặt hàng chế tạo trong thương mại quốc tế. Nếu khơng có Cơng ước sẽ có
nguy cơ dẫn đến các tranh chấp. Luật mua bán hàng hóa ở các nước khác nhau thì thường là khác
nhau. Trong giao dịch quốc tế, thường xảy ra vấn đề luật nước nào sẽ phải điều chỉnh. Khi vướng
mắc này xảy ra, các bên sẽ không chắc chắn về quyền và nghĩa vụ của mình. Sự khơng chắc chắn
này tạo nên sự khơng hiệu quả và ý chí khơng tốt. CISG chứa đựng các quy tắc điều chỉnh quá
trình tạo lập và giải thích hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và cung cấp các quy tắc điều chỉnh
nghĩa vụ và các biện pháp khắc phục của các bên trong giao dịch. CISG không hạn chế sự tự do
của người bán và người mua trong việc soạn thảo hợp đồng cho phù hợp với điều kiện của họ.
Nhìn chung, các chủ thể được tự do sửa đổi các quy tắc của Cơng ước hoặc chấp nhận có áp
dụng Công ước hay không.
1.3. Sơ lược về lịch sử Công ước Viên 1980.
Trong nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã được

khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ 20, Unidroit đã cho ra đời hai Công ước La Haye năm


1964: một Cơng ước có tên là “Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động
sản hữu hình”, Cơng ước thứ hai là về “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu
hình”. Cơng ước thứ nhất điều chỉnh việc hình thành hợp đồng (chào hàng, chấp nhận chào
hàng). Công ước thứ hai đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua và các biện
pháp được áp dụng khi một/các bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiêm, Công ước La Haye năm 1964
trên thực tế rất ít được áp dụng
Năm 1968, trên cơ sở yêu cầu của đa số các thành viên Liên Hợp Quốc về một khuôn khổ mới
với “sự mở rộng ra các nước có nền pháp lý, kinh tế chính trị khác nhau”, UNCITRAL đã khởi
xướng việc soạn thảo một Công ước thống nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế cho hai Cơng ước La Haye năm 1964. Được soạn thảo
dựa trên các điều khoản của hai Công ước La Haye, song Công ước Viên 1980 có những điểm
đổi mới và hồn thiện cơ bản. Công ước này được thông qua tại Viên (Áo) ngày 11 tháng 04 năm
1980 tại Hội nghị của Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế với sự có mặt của
đại diện của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế. CISG có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 (khi
có 10 quốc gia phê chuẩn, theo Điều 99 của Công ước).
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
2.1. Định nghĩa
Là các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện chủ yếu thông qua
các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hiên nay chưa có
một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa
có một cách xác định thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ
nêu lên một số khái niệm hay một số cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này. Định
nghĩa cô đọng nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là: “hợp đồng được kí kết giữa các
bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.”
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là việc xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn trong trường hợp khi các bên có nhiều trụ sở
thương mại. Trong trường hợp này, giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là hồn tồn phù

hợp, Điều 10 của Cơng ước quy định: nếu một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh thì sẽ


chọn điểm kinh doanh nào có liên hệ gần nhất với hợp đồng và với việc thực hiện hợp đồng, có
quan tâm đến những tình huống mà hai bên đã biết hoặc đã nghĩ đến tại thời điểm trước hay ngay
khi kí hợp đồng. Nếu một đương sự khơng có địa điểm kinh doanh thì chọn nơi thường trú của
người này làm chuẩn.
Hiện nay, đã có nhiều quốc gia tham gia Cơng ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế trong
đó có Việt Nam chúng ta đã tham gia cơng ước Viên từ năm 2017, vì vậy có thể nói rằng pháp
luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên kí kết hợp đồng.
2.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có ý chí giữa các bên giao kết. Đây là đặc trưng rất cơ
bản của một hợp đồng nói chung.
- Chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua là các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại
các quốc gia khác nhau. Nếu các bên khơng có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn cứ vào nơi cư trú của
họ.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá phải qua biên giới quốc gia (biên giới hải quan) hay giai
đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác nhau; hoặc hàng
hố khơng phải qua biên giới nhưng hàng được các tổ chức quốc tế dùng ở lãnh thổ Việt Nam.
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở
hữu của hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau.
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh tốn khơng cịn là đồng nội tệ của một quốc gia mà là ngoại tệ
đối với ít nhất một bên ký kết. Phương thức thanh tốn thơng qua hệ thơng ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp. Khơng chỉ cịn luật quốc gia mà còn bao
gồm các điều ước quốc tế về thương mại, luật nước ngoài và các tập quán thương mại quốc tế.


- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án, hay trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là cơ quan nước ngoài đối

với ít nhất một trong các chủ thể.


Phần 2. Nội dung của Công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và
những khác biệt với Luật Thương mại của Việt Nam
1. Nội dung của công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế.
1.1. Cấu trúc của Cơng ước .
Cơng ước Viên 1980 được trình bày gồm 101 điều, chia làm 4 phần với các nội dung chính sau
đây:
Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (Điều 1- 13): quy định các trường hợp Công ước
Viên được áp dụng, các nguyên tắc trong việc áp dụng Công ước Viên, nhấn mạnh đến giá trị của
các tập quán trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế.
Phần 2: Xác lập hợp đồng (Điều 14 - 24): quy định các vấn đề pháp lý đặt ra trong q trình giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Phần 3: Mua bán hàng hóa (Điều 25 - 88): quy định các vấn đề pháp lý trong quá trình thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101): quy định về các thủ tục để các quốc gia ký kết,
phê chuẩn, gia nhập Công ước Viên, các bảo lưu có thể áp dụng, thời điểm Cơng ước Viên có
hiệu lực và một số vấn đề khác mang tính chất thủ tục khi tham gia hay từ bỏ Công ước Viên.
1.2. Phạm vi áp dụng của Công ước
Công ước Viên được áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hố giữa các bên có trụ sở thương
mại tại các quốc gia khác nhau. Căn cứ Điều 1, Công ước Viên chỉ coi trọng nơi đặt trụ sở
thương mại chứ không chú ý tới quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng. Công ước được áp
dụng khi các bên tham gia hợp đồng có trụ sở ở các quốc gia là thành viên của Công ước. Công
ước cũng được áp dụng nếu chỉ có một bền có trụ sở tại nước phê chuẩn Công ước, nhưng quy
định xung đột về luật điều chỉnh đã dẫn tới việc áp dụng luật của nước này ví dụ như khi các bên
thoả thuận áp dụng luật của nước bên bán, mà nước bên bán là thành viên của Công ước; hoặc


trường hợp các bên thoả thuận áp dụng luật của nước thứ ba, mà nước này là thành viên của

Công ước. Ngồi ra, Cơng ước cũng có thể được áp dụng khi hai bên khơng có trụ sở thương mại
tại nước thành viên Công ước nhưng lại thoả thuận áp dụng Công ước. Trường hợp này, Công
ước cũng cho phép các bên có thể thoả thuận khơng áp dụng hoặc khơng áp dụng hồn tồn một
điều khoản nào đó của Công ước trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng.
1.3. Về xác lập hợp đồng trong Công ước.
Xác lập hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng) (Điều 14 - 24). Trong phần này, với 11 điều
khoản, Công ước Viên đã quy định khá chi tiết, đầy đủ các vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Tại điều 14 của Công ước định nghĩa chào hàng, nêu rõ đặc điểm của chào hàng và phân biệt
chào hàng với các "lời mời chào hàng”.
+ Một đề nghị giao kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều bên xác định được xem là một chào
hàng nếu nó đầy đủ và thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của người đề nghị trong trường hợp
chào hàng được chấp nhận. Một đề nghị được coi là đầy đủ nếu có nêu rõ hàng hóa và - ngằm
định hoặc rõ ràng - xác định hoặc quy định cách thức xác định giá cả và số lượng hàng hóa của
hợp đồng.
+ Một đề nghị không gửi tới một hoặc nhiều bên xác định thì chỉ được xem là lời mời chào
hàng. trừ trường hợp bên đưa ra đẻ nghị đó tuyên bồ rõ ràng sẽ chịu rang buộc trách nhiệm.
Chào hàng thể hiện các yếu tố cơ bản cần thiết để các bên dựa vào đó thực hiện các nghĩa vụ của
mình và qua đó đáp ứng quyền của bên kia. Tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể mà yêu cầu
về điều kiện cơ bản của hợp đồng có thể khác nhau. Với hợp đồng mua bán, khoản 1 Điều 14
quy định nội dung chào hàng phải thể hiện tối thiểu ba điều kiện. Đó là: hàng hóa mua bán, số
lượng và giá cả. Về giá cả, có thể là giá cả cụ thể hoặc phương thức xác định giá cả, được nêu ra
rõ ràng hoặc ngầm định trong chào hàng.
- Các vấn đề hiệu lực của chào hàng, thu hồi và hủy bỏ chào hàng được quy định tại các điều 15,
16 và 17: Hiệu lực chào hàng chỉ phát sinh khi chào hàng tới nơi người được chào hàng (khoản 1


Điều 15). Chào hàng cũng có thể bị huỷ nếu thông báo của người chào hàng về việc huỷ chào
hàng gửi đến tới nơi người được chào trước hoặc cùng lúc với chào hàng (khoản 2 Điều 15 ).
Một chào hàng có thể bị thu hồi nếu như thơng báo về việc thu hồi đó tới nơi người được chào

hàng trước khi người này gửi thông báo chấp nhận chào hàng, tuy nhiên chào hàng cũng không
thể bị thu hồi khi nếu nó chỉ rõ bằng cách ấn định một thời hạn xác định để chấp nhận hay bằng
cách khác rằng nó khơng thể bị thu hồi hoặc nếu một cách hợp lý người nhận coi chào hàng là
không thể bị thu hồi và đã hành động theo chiều hướng đó (Điều 16); Một chào hàng sẽ mất hiệu
lực khi người chào hàng nhận được thông báo về việc từ chối chào hàng (Điều 17).
- Về vấn đề xác lập hợp đồng mua bán, Công ước Viên 1980 thừa nhận quy tắc Chào hàng Chấp nhận chào hàng: Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng biểu lộ
sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng. Sự im lặng hoặc bất hợp tác thì khơng
mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận (Điều 18). Khoản 1 Điều 19 Công ước Viên quy định rằng
"Một sự trả lời có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng những điểm bổ sung,
bớt đi hay các sửa đổi khác thì được coi là từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá".
Tuy nhiên, khoản 2 điều 19 của CISG lại là ngoại lệ của quy tắc “hình ảnh trong gương ” và làm
dịu bớt “sự khe khắt” của quy tắc này, theo đó, u cầu một sự chấp nhận tồn bộ của khoản 1
điều 19. Theo quy định tại khoản 2 điều 19 Cơng ước Viên thì khơng phải mọi sự trả lời có
khuynh hướng chấp nhận chào hàng đều được coi là sửa đổi hoặc bổ sung chào hàng. Tuy nhiên,
những sửa đổi hoặc bổ sung “không làm biến đổi một cách cơ bản nội dụng chào hàng ” và
người chào hàng khơng có bất kỳ hành động nào (bằng lời nói hoặc thơng báo) biểu hiện sự phản
đối “ngay lập tức ” với những sửa đổi hoặc bổ sung đó thì hợp đồng xem như được giao kết.
1.4. Về mua bán hàng hoá.
- Những quy định chung (Điều 25 - 29).
Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 Công ước Viên, theo đó: Một sự
vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị
thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi
trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí
minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.


Công ước Viên không đưa ra định nghĩa về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng có thể hiểu là việc một bên giao kết hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ mà
các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thực hiện không hết nghĩa vụ hợp đồng hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng.

Ngoài ra, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đáng kể cho bên bị
vi phạm. Công ước Viên cho rằng thiệt hại đáng kể là những thiệt hại làm cho bên bị vi phạm
mất đi cái mà họ chờ đợi (mong muốn có được) từ hợp đồng. Cơng ước Viên khơng giải thích rõ
cái mà người này chờ đợi là gì. Vì vậy, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay khơng đáng
kể sẽ do tịa án (hoặc cơ quan có thầm quyền giải quyết tranh chấp) quyết định căn cứ vào từng
trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể
Tuy nhiên, mặc dù hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi phạm nhưng hành
vi vi phạm hợp đồng đó sẽ khơng bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng nếu bên vi phạm “khơng thể
nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm đó và người ở vào hồn cảnh tương tự cũng không
thể tiên liệu được
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của người bán.
+ Công ước nêu rõ, bên bán có quyền được thanh tốn theo những quy định trong hợp đồng.
Trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền thực hiện những biện
pháp bảo hộ pháp lý cũng theo quy định của Công ước như sau: Yêu cầu bên mua trả tiền, nhận
hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ
pháp lý khác khơng thích hợp với các yêu cầu đó (Điều 62); Có thể chấp nhận cho người mua
một thời gian bỏ sung hợp lý đề thực hiện nghĩa vụ của họ (khoản 1 Điều 63); Tuyên bố hủy hợp
đồng trong các trường hợp quy định tại Điều 64; Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
Điều 74. Ngồi ra, bên bán có thể u cầu trả tiền lãi khi bên mua chậm thanh toán theo quy định
Điều 78 của Công ước.
+ Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hố. Cơng ước Viên quy định
về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hoá từ Điều 31 đến Điều 34 của Cơng
ước. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên
mua đúng thời gian. Thời gian này là thời điểm mà các bên đã thoả thuận, nếu không thoả thuận


cụ thể trong hợp đồng thì có thể căn cứ vào hợp đồng để xác định được. Bên bán có nghĩa vụ
giao hàng đúng số lượng, chất lượng, quy cách phẩm chất như mô tả trong hợp đồng. Về địa
điểm giao hàng, nếu các bên khơng thoả thuận thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều
31 Công ước.

- Quy định về quyền và nghĩa vụ của người mua.
+ Bên mua có quyền thực hiện một số biện pháp đề bảo vệ lợi ích của mình khi bên bán vi phạm
nghĩa vụ của họ. Một số biện pháp được quy định trong Công ước là: Yêu cầu bên bán phải thực
hiện nghĩa vụ của họ theo thoả thuận trong hợp đồng. Bên mua có thể cho phép bên bán thêm
một thời hạn nhất định để thực hiện hợp đồng nếu bên bán không đảm bảo được đúng thời hạn
giao hàng (Điều 47); Bên mua cũng có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp bên
bán không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hay khi
bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán tuyên bố sẽ không
giao hàng trong thời bạn bổ sung đó (Điều 49).
+ Điều 53 Cơng ước Viên quy định: người mua có nghĩa vụ thanh tốn tiền hàng và nhận hàng
theo quy định của hợp đồng. Về thanh toán tiền hàng: bên mua phải trả tiền vào ngày thanh tốn
đã quy định hoặc có thể được xác định theo hợp đồng và theo Công ước, mà khơng cần phải có
một lời u cầu hay việc thực hiện một tục nào khác về phía người bán (Điều 59). Nghĩa vụ
thanh toán tiên hàng bao gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà hợp đồng
hoặc luật lệ địi hỏi đề có thể thực hiện được thanh toán; Về việc nhận hàng: Bên mua có các
nghĩa vụ theo quy định của Cơng ước Viên tại Điều 60. Theo đó, bên mua phải thực hiện mọi
hành vi tạo điều kiện cho bên bán giao hàng và tiếp nhận hàng hoá.
- Quy định về chuyển rủi ro.
+ Điều 68 Công ước Viên năm 1980 quy định về chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm
giao hàng xác định: Địa điểm giao hàng xác định ở đây là phải xác định theo thỏa thuận từ trước.
Nếu có địa điểm giao hàng nhất định thì rủi ro về mất mát, hư hỏng hàng hóa được chuyển cho
bên mua khi bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng tại địa điểm giao hàng,
kể cả bên bán được ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa.


+ Điều 68 Công ước Viên năm 1980 quy định về chuyển rủi ro trong trường hợp khơng có địa
điểm giao hàng xác định: Đây là trường hợp trong hợp đồng mua bán không quy định về việc
vận chuyển hàng hóa cũng như nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định. Khi khơng có địa
điểm giao hàng, việc chuyển rủi ro trong trường hợp này thuộc về bên mua sau khi hàng hóa đã
được giao cho người vận chuyển đầu tiên.

+ Điều 68 Công ước Viên năm 1980 quy định về chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho
người nhận hàng: Ở đây cần lưu ý người nhận hàng ở đây không phải là người vận chuyển mà là
người nhận hàng để giao nắm giữ hàng hóa. Trong trường hợp này rủi ro về hàng hóa được
chuyển cho bên mua trong các trường hợp sau: Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng
hóa, đây là trường hợp chuyển rủi ro đồng nhất với thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa
hoặc khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua.
+ Điều 68 Công ước Viên năm 1980 quy định về chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng
hóa đang trên đường vận chuyển: Đây là trường hợp mà đối tượng của hợp đồng là hàng hóa
đang trên đường vận chuyển, khi đó rủi ro sẽ được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết
hợp đồng.
+ Điều 68 Công ước Viên năm 1980 quy định về chuyển rủi ro hàng hóa trong những trường hợp
khác. Với những trường hợp không nằm trong 4 trường hợp ở trên thì rủi ro được chuyển cho
bên mua kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp
đồng do không nhận hàng. Với những hàng hóa khơng được xác định rõ ràng bằng ký mã hiệu,
chứng từ vận tải, không được thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất kỳ
cách thức nào thì rủi ro khơng được chuyển cho bên mua.
- Quy định về các điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua.
+ Tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi bên bị vi phạm vẫn yêu cầu phải
thực hiện đúng theo nghĩa vụ đó trong các trường hợp:


Khi bên bán chậm giao hàng: Nếu bên mua yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện hợp đồng thì bên
mua sẽ định ra một thời hạn để bên bán hồn thành nghĩa vụ. Trường hợp bên mua khơng chấp
nhận giao hàng chậm hơn thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng thì bên mua có thể u cầu huỷ
hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
Khi bên bán giao hàng thiếu số lượng: bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao hàng bổ sung cho
đủ số lượng.
Khi bên mua chậm thanh toán: Bên bán vẫn yêu cầu bên mua trả tiền theo hợp đồng, và có thể
yêu cầu phải trả thêm lãi suất cho số tiền chậm thanh toán.

Khi hàng được giao không phù hợp hoặc không đúng theo quy định của hợp đồng: Bên bán phải
giao hàng thay thế hoặc sửa chữa khuyết tật nếu có trừ khi việc sửa chữa là khơng hợp lý căn cứ
vào tình tiết của sự việc (Điều 46).
Khi bên mua không nhận hàng theo hợp đồng: Bên bán yêu cầu bên mua phải nhận hàng. Nếu
trong thời hạn do bên bán ấn định mà bên mua vẫn không nhận hàng, bên bán buộc phải huỷ hợp
đồng và đòi bồi thường thiệt hại phát sinh (Điều 62).
+ Về bồi thường thiệt hại.
Các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm gồm:Những tổn thất
mà bên bị vi phạm phải gánh chịu; những thu nhập bị bỏ lỡ do hành vi vi phạm hợp đồng của
bên kia.
Về tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng, Công ước Viên quy định: "là một
khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi
phạm hợp đồng". Mức tiền này cũng không được cao hơn thiệt hại thực tế và những khoản đáng
lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ.
+ Về hủy hợp đồng.


Trách nhiệm pháp lý này chỉ áp dụng khi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm tạo thành
một hành vi nghiêm trọng. Tức là hành vi đó làm cho bên bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng
kể bị mất đi cái mà họ chờ đợi trên cơ sở hợp đồng (Điều 25).
2. Những khác biệt của Luật Thương mại Việt Nam và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế.
Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ban hành ngày 14/6/2005 (gọi tắt là Luật Thương mại) là
luật chuyên ngành điều chỉnh chung cho các hoạt động thương mại của Việt Nam, bao gồm
thương mại nội địa và thương mại quốc tế. Trong trường hợp quan hệ thương mại không được đề
cập trong Luật Thương mại thì sẽ được điều chỉnh bằng Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ban
hành ngày 24/11/2015 (gọi tắt là Bộ luật Dân sự).
Luật Thương mại 2005 có nhiều nội dung tương thích với Cơng ước Viên, tuy nhiên cịn có
những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
- Về hình thức của hợp đồng: Theo khoản 2, Điều 27 Luật Thương mại quy định, đối với hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương. Ngược lại, Công ước Viên công nhận nguyên tắc tự do về hình thức
hợp đồng. Điều 11 quy định “Hợp đồng mua bán không cần phải được giao kết hoặc xác nhận
bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức. Hợp đồng có thể được chứng
minh bằng mọi cách, kể cả bằng nhân chứng”. Việc quy định hình thức của hợp đồng bằng văn
bản theo Luật Thương mại là hạn chế so với hình thức hợp đồng phong phú hiện nay, tuy nhiên
điều này là cần thiết nhằm tạo sự chính xác, rõ ràng, tránh những rủi ro trong quá trình thỏa
thuận, ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam. Để
giải quyết mâu thuẫn này, trong văn bản quyết định gia nhập Công ước Viên, thì Việt Nam đã
thực hiện bảo lưu quy định về hình thức hợp đồng nêu tại Điều 11, Điều 29 và Phần II Công ước,
phù hợp với quy định tại Điều 12 và Điều 96 của Công ước. Như vậy các Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, mà doanh nghiệp Việt Nam là một bên tham gia ký kết mà Cơng ước Viên là
nguồn luật điều chỉnh thì hợp đồng phải được lập ở dạng văn bản hoặc các hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương.


- Về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng: Mặc dù căn cứ Điều 294 Luật
Thương mại và Điều 79 Cơng ước Viên thì trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm cả các trường
hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của bên bị vi phạm, Điều 79 Cơng ước Viên cịn quy định
cụ thể về việc miễn trách nhiệm của bên thứ ba trong khi Luật Thương mại Việt Nam khơng có
quy định cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, tại khoản 1(d) Điều 294 Luật Thương mại, bên vi
phạm được miễn trách nhiệm “do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng”. Quy định này cũng có
thể được coi là một trường hợp “bất khả kháng” nằm trong khoản 1 Điều 79 Công ước Viên.
- Về trách nhiệm buộc thực hiện hợp đồng: Điều 297, Luật Thương mại quy định trách nhiệm
buộc thực hiện hợp đồng như sau: “việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp
đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi
phí phát sinh”. Trong khi đó, Ðiều 46 của Cơng ước Viên quy định buộc thực hiện hợp đồng của
người mua: “1. Người mua có thể yêu cầu người bán phải thực hiện nghĩa vụ, trừ phi người mua
sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khơng thích hợp với u cầu đó. 2. Nếu hàng hóa khơng

phù hợp với hợp đồng thì người mua có thể địi người bán phải giao hàng thay thế nếu sự khơng
phù hợp đó tạo thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng và yêu cầu về việc thay thế hàng phải
được đặt ra cùng một lúc với việc thông báo những dữ kiện chiếu theo Điều 39 hoặc trong một
thời hạn hợp lý sau đó”. Điều 62, Cơng ước Viên quy định người bán “có thể yêu cầu người mua
trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện
pháp bảo hộ pháp lý khác khơng thích hợp với các u cầu đó”.
- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất mang tính chất tiền tệ: Khoản 1,
Điều 302, Luật Thương mại quy định “1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường
những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. 2. Giá trị bồi thường
thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm, phải chịu do bên vi phạm
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi
phạm”. Trong khi đó, theo Ðiều 74 Cơng ước Viên quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do
một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia
đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao
hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc


ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà
họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”.
- Về bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất phi tiền tệ: Mặc dù cả Luật Thương mại và Công
ước Viên không quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất phi tiền tệ, ví
dụ: tổn thất về thương hiệu, uy tín nhưng theo học giả Peter Schlechtriem (2007), Cơng ước Viên
có hệ thống giải thích luật và các án lệ làm cơ sở giải quyết những thiệt hại phi tiền tệ như vậy.
Theo TS. Đỗ Văn Đại (2010), khơng có giải thích của luật Việt Nam nào khẳng định những thiệt
hại “trực tiếp” và “thực tế” mà Luật Thương mại nhắc đến chỉ là những tổn thất vật chất. Trong
Điều 307 Bộ luật Dân sự có quy định về giải quyết các bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tuy
nhiên, những tổn thất phi tiền tệ trong thương mại quốc tế không chỉ giới hạn ở những tổn thất về
tinh thần. Hơn nữa, tại tịa án Việt Nam, nơi khơng sử dụng các giải thích luật và án lệ trong giải
quyết tranh chấp thì chỉ Điều 302, Luật Thương mại vẫn chưa đủ để làm cơ sở giải quyết những
yêu cầu đòi bồi thường các tổn thất phi tiền tệ. Trong khi đó ở trường hợp này, Cơng ước Viên

thể hiện tính ưu việt trong giải quyết tranh chấp.
- Về thời hạn khiếu nại: Điều 318 Luật Thương mại Việt Nam quy định thời hạn khiếu nại là ba
tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá và sáu tháng, kể từ ngày giao
hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hoá trong khi Công ước Viên quy định thời hạn này
không quá 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái
ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng (Điều 39 khoản 2). Thời hạn khiếu nại dài
hơn thể hiện sự bảo vệ người mua và tính cơng bằng, đặc biệt trong trường hợp hàng hóa là máy
móc, có thể có những lỗi ẩn tỳ mà sau thời gian sử dụng lâu hơn 6 tháng mới phát hiện ra.


Kết luận
Công ước Viên năm 1980 (CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một trong những
cơng ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất hiện nay, ước tính
CISG điều chỉnh khoảng 3/4 giao dịch thương mại quốc tế. Công ước này đã thống nhất hóa và
khắc phục được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thể giới, đóng vai
trị quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy
thương mại quốc tế phát triển, đem lại sự công bằng cho các thương vụ mua bán quốc tế.


Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Công ước Viên 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế được soạn thảo bởi Ủy ban
Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL).
2. Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ban hành ngày 24/11/2015.
3. Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 2010, tr.99.
4. Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ban hành ngày 14/6/2005.
5. Quyết định số 2588/2015/QĐ-CTN về việc gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
6. Trung tâm WTO, Những điểm bất cập của Công Ước Viên 1980 mà Việt Nam cần lưu ý.
7. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC, Công ước viên năm 1980 (2016), Cơ hội cần

Doanh nghiệp Việt Nam hiện thực hóa, truy cập tại
8. Cơng ước Viên 1980.



×