ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LUYỆN THỊ THU HƢNG
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội- 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LUYỆN THỊ THU HƢNG
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 0315
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Kim Đỉnh
Hà Nội- 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Trần Kim Đỉnh.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo chính xác, rõ ràng,
không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học
Quốc gia Hà Nội- nơi tôi học tập trong thời gian qua- đã tạo điều kiện cho tôi
học tập, làm việc và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS Trần Kim Đỉnh- Người
thầy đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cơ quan, đồng nghiệp và các bạn đã
ủng hộ tôi suốt thời gian qua.
Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày ..... tháng ....năm 2013
Luyện Thị Thu Hƣng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu .................................................. 9
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 10
7. Kết cấu luận văn.......................................................................................... 10
NỘI DUNG .................................................................................................... 11
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 ................... 11
1.1. Vài nét chung về tỉnh Phú Thọ ................................................................ 11
1.1.1.Địa giới hành chính và kinh tế- xã hội................................................... 11
1.1.2. Truyền thống lịch sử- văn hoá .............................................................. 14
1.1.3. Giáo dục phổ thông tỉnh Vĩnh Phú trước khi tái lập tỉnh Phú Thọ
1997 ................................................................................................................. 16
1.2. Giáo dục phổ thông Phú Thọ từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến năm
2005 ................................................................................................................. 18
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục phổ thông ....... 18
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chú trọng phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng
yêu cầu mới ..................................................................................................... 24
1.2.3. Quá trình tổ chức chỉ đạo và kết quả thực hiện.................................... 29
1
Chƣơng 2: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÚ THỌ TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2010 ...................................................................................................... 49
2.1. Chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục phổ thông trong những năm
2006- 2010 ...................................................................................................... 49
2.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục phổ thông trong tình
hình mới .......................................................................................................... 49
2.1.2. Chủ trương và biện pháp phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ .................................................................................................... 55
2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông từ
năm 2006 đến 2010 ......................................................................................... 61
2.2.1. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện .... 61
2.2.2. Nâng cao chất lượng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục ........................................................................................................... 69
2.2.3. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất trường học, phát triển cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục .............73
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM .......................... 81
3.1. Đánh giá tổng quát ................................................................................... 81
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân....................................................................... 81
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 88
3.2. Kinh nghiệm chủ yếu ............................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 105
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT
: Công nghệ thông tin
CSVC
: Cơ sở vật chất
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GDPT
: Giáo dục phổ thông
GDTX
: Giáo dục thường xuyên
HĐND
: Hội đồng nhân dân
THCN
:Trung học chuyên nghiệp
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHH
: Xã hội hoá
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Trình độ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn ở các bậc học phổ thông ..... 39
Bảng 1.2: Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học từ năm 1997
đến 2005 ......................................................................................................... 43
Bảng 1.3: Công tác xây dựng cơ sở vật chất................................................... 44
Bảng 2.1: Số liệu các trường phổ thông từ năm 2006 đến 2010. ................... 62
Bảng 2.2: Số liệu học sinh qua các năm ......................................................... 63
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục có vai trò trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Lịch sử phát triển xã hội ngày
càng khẳng định vai trò, tác dụng của giáo dục đối với kinh tế- xã hội. Giáo dục
là điều kiện cơ bản và là động lực quan trọng bậc nhất thúc đẩy sản xuất, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Ngày nay, chúng ta đang bước vào thời đại
của công nghệ thông tin, toàn cầu hoá, kinh tế thị trường, trong bối cảnh đó,
vấn đề giáo dục, văn hoá nổi lên hàng đầu. Ở nhiều nước vấn đề này đã trở
thành vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức rõ điều
đó, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm phát triển giáo dục. Từ khi tiến hành
đổi mới đất nước, cùng với quá trình đổi mới mọi mặt về kinh tế- xã hội, sự
nghiệp giáo dục luôn được Đảng coi là động lực để phát triển đất nước. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/ 1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
quan điểm chỉ đạo chung là: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, giáo dục phổ thông
được nhìn nhận như một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, là nền tảng
văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ
sở ban đầu rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của các lứa
tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhu
cầu của nhân dân và đòi hỏi của cuộc đấu tranh chống nguy cơ tụt hậu của đất
nước, Đảng không ngừng đổi mới nội dung giáo dục và đào tạo, trong đó có
giáo dục phổ thông.
5
Hoà trong tình hình chung của đất nước, đặc biệt là sau khi tái lập tỉnh
(1997), Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua bao khó khăn,
thách thức và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực giáo dục. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục phổ
thông, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thường xuyên quan tâm, chăm lo tạo điều kiện để
giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng từng bước đổi mới và phát
triển vững chắc. Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ,
sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh đã đạt được những kết quả to lớn. Quy
mô giáo dục đào tạo được mở rộng và phát triển một cách hợp lý, chất lượng
giáo dục toàn diện có bước chuyển biến tích cực, chất lượng học sinh giỏi ổn
định và phát triển, việc triển khai thực hiện dạy và học theo chương trình sách
giáo khoa mới đạt kết quả tốt. Hệ thống trường chuẩn quốc gia ngày một tăng
và phát huy hiệu quả. Kết quả phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ
cập Trung học sơ sở được duy trì, nâng cao chất lượng. Công tác nghiên cứu
khoa học và chăm lo các điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất trường có nhiều tiến
bộ, công tác quản lý giáo dục tiếp tục được đổi mới.
Tuy nhiên, với điều kiện kinh tế xã hội của các tỉnh miền núi nói chung,
Phú Thọ nói riêng còn nghèo nàn nên cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học
chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân
lực phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hóa. Trong các trường, đội ngũ cán bộ
giáo viên còn thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu và trình độ đào tạo,
chậm đổi mới về phương pháp. Chế độ chính sách cho giáo viên mặc dù có cải
tiến nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đời sống của giáo viên còn khó khăn, công
tác quản lý cán bộ bộc lộ không ít những yếu kém.
Để giáo dục Phú Thọ từng bước tháo gỡ được những khó khăn và tiếp
tục vươn lên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là đòi hỏi lớn đặt ra cho các cấp lãnh
6
đạo, các ngành quản lý giáo dục và nhân dân tỉnh Phú Thọ. Do vậy cần phải đi
sâu nghiên cứu, tổng kết thực tiễn quá trình lãnh đạo chỉ đạo thực hiện công tác
giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng của tỉnh, đặc biệt từ
ngày tái lập. Từ đó rút ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần nghiên
cứu chất lượng giáo dục đào tạo của tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ đổi mới. Xuất
phát từ lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010” làm luận văn thạc
sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng
là nội dung quan trọng, nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các
cán bộ khoa học, nhà giáo và nhiều tác giả. Đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu, các bài viết của các tác giả, điển hình như:
“Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XXI: Chiến lược phát
triển” của tác giả Đặng Bá Lãm (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Quản
lí giáo dục” của Bùi Quang Tú (2006), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội; “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Phan Bá Đạt (2009), Nxb Lao động …Có
thể nói những tác phẩm, bài viết này là cơ sở tư tưởng và lý luận cho chủ
trương, đường lối, chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta.
Cuốn “Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” của Viện
Khoa học giáo dục (2001), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, trong đó có trình
bày tình hình, những đánh giá tổng hợp về giáo dục phổ thông giai đoạn 19751995. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự khái quát sơ lược về giáo dục và nhà trường
phổ thông Việt Nam giai đoạn này, giới hạn đến năm 1995.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” do Bùi Minh Hiền soạn thảo được
Nxb Đại học sư phạm phát hành năm 2004. Đây là giáo trình dùng cho sinh
viên các trường đại học và cao đẳng sư phạm, trong đó có dành hai chương viết
7
về giáo dục Việt Nam giai đoạn 1975- 1986 và 1986- 2004. Cuốn sách không
dành viết riêng về giáo dục phổ thông, nhưng qua việc trình bày những chính
sách, những tổng kết tình hình giáo dục Việt Nam nói chung, ta có thể chọn lọc
ra những phần liên quan đến giáo dục phổ thông.
Các nghiên cứu của GS. TS Phạm Minh Hạc: Cuốn “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI” (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn
sách này trình bày tính chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống
giáo dục nước ta qua các giai đoạn lịch sử, phân tích quan hệ giữa giáo dục với
phát triển nguồn lực, các nguồn lực phát triển giáo dục và phương hướng phát
triển giáo dục trong thời gian tới; Cuốn “Nhân tố mới về giáo dục đào tạo trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (2002), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, nêu bật được những chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và
học, có được những kết quả này là do sự cải tiến về phương pháp của cả thầy
lẫn trò, phong trào học tập trong nhân dân được đẩy mạnh. Từ đó xuất hiện
những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp phần thực hiện thắng lợi
đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng.
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương đối với giáo dục
phổ thông có một số luận văn Thạc sĩ của khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn- Đại học quốc gia Hà Nội trong những năm gần đây
như: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông
thời kỳ 1986- 2003, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử năm 2005; Đảng bộ Thái Bình
lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1986 đến năm 2005, Luận văn
Thạc sĩ năm 2007….
Tại Phú Thọ đã có công trình: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công
tác xã hội hoá giáo dục (1997- 2006), của Nguyễn Thị Lan, Luận văn Thạc
sĩ Lịch sử. Tuy nhiên, đề tài này mới chỉ đề cập đến vấn đề xã hội hoá giáo
dục của tỉnh.
8
Các công trình trên cho thấy tình hình giáo dục của cả nước và ở một số
địa phương. Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về quá
trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ khi tái lập
tỉnh đến năm 2010- thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy tôi chọn đề tài này nhằm góp phần bổ sung vào khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu chủ trương, kết quả và những bài học kinh nghiệm của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển giáo dục phổ thông từ 1997 đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến giáo dục phổ thông của
tỉnh Phú Thọ.
- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ vận dụng đường
lối của Đảng, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ 1997 đến 2010.
- Đánh giá thành tưụ, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo sự nghiệp giáo dục từ năm 1997 đến
2010.
4.2. Phạm vi
- Về không gian: Nghiên cứu về tình hình giáo dục phổ thông ở địa bàn
tỉnh Phú Thọ.
- Về thời gian: Từ năm 1997 đến năm 2010 (từ khi tái lập tỉnh đến khi
tỉnh Phú Thọ tổng kết nhiệm kỳ 2005- 2010).
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu là:
9
phương pháp lịch sử, phương pháp logic. Ngoài ra còn kết hợp các phương
pháp khác như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiến….
5.2. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện, Nghị quyết của Đại hội Đảng; các văn bản, chỉ thị của
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục.
- Các tài liệu văn kiện của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, các tài liệu, văn kiện
của HĐND, UBND và các Ban, Ngành của tỉnh Phú Thọ; Một số công trình
nghiên cứu của các cá nhân, tập thể về vấn đề giáo dục.
6. Đóng góp của luận văn
- Về mặt khoa học: Hệ thống được những chủ trương, chính sách của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về việc thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông từ 19972010. Từ những thành công và hạn chế tồn tại rút ra kinh nghiệm và chỉ ra
phương hướng để vận dụng cho giai đoạn sau.
- Về mặt tư liệu: Bổ sung thêm nguồn tư liệu về lịch sử địa phương.
- Về phương pháp nghiên cứu: Góp phần vào việc tổng kết quá trình vận
dụng đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục phổ thông.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Vài nét chung về tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Địa giới hành chính và kinh tế- xã hội
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong
khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc.
Phía Đông giáp Hà Tây, phía Đông Bắc giáp Vĩnh Phúc, phía Tây giáp Sơn
La, phía Tây Bắc giáp Yên Bái, phía Nam giáp Hoà Bình, phía Bắc giáp
Tuyên Quang. Với vị trí “ngã ba sông” cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội,
Phú Thọ cách Hà Nội 80 km, cách sân bay Nội Bài 60 km, cách cửa khẩu Lào
Cai, cửa khẩu Thanh Thuỷ hơn 200 km, cách Hải Phòng 170 km và cảng Cái
Lân 200 km.
Phú Thọ nằm ở trung tâm các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt
và đường sông từ các tỉnh thuộc Tây - Đông - Bắc đi Hà Nội, Hải Phòng và
các nơi khác. Là cầu nối giao lưu kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật giữa
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi Tây Bắc.
Phú Thọ được thành lập năm 1891, dưới thời Pháp thuộc. Sau gần tám
thập kỷ ra đời, năm 1968, Phú Thọ hợp nhất với Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh
Phú. Sau 29 năm hợp nhất, tỉnh Phú Thọ được tái lập từ 01/ 01/ 1997 theo
tinh thần Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (06/ 11/ 1996) “Về
việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, khi đất nước bước
vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Việc hợp nhất tỉnh Phú Thọ với Vĩnh
Phúc, cũng như việc tái lập tỉnh cũ là do yêu cầu khách quan của lịch sử và
chủ trương chung của Đảng và Chính phủ trong phạm vi toàn quốc.
11
Đến năm 2010, Phú Thọ có 13 đơn vị hành chính gồm thành phố Việt
Trì, thị xã Phú Thọ, huyện Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Ba, Cẩm Khê, Phù
Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, Tân Sơn và Yên Lập.
Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của tỉnh; 274 đơn
vị hành chính cấp xã gồm 14 phường, 10 thị trấn và 250 xã, trong đó có 214
xã miền núi, 7 xã vùng cao và 50 xã đặc biệt khó khăn.
Địa hình của tỉnh bị chia cắt, có thể chia thành hai tiểu vùng chủ yếu:
Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam: chủ yếu thuộc các huyện
Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây Cẩm Khê. Đây là vùng khó khăn trong việc đi
lại, giao lưu với các nơi khác. Song, ở đây còn có nhiều tiềm năng phát triển,
nhất là ngành lâm nghiệp, khai thác khoáng sản.
Tiểu vùng gò, đồi chia cắt nhiều xen kẽ đồng bằng ven các triền sông
Hồng, Hữu Lô, Tả Đáy và các vùng đồng bằng tương đối tập trung phía nam
huyện Lâm Thao và Phù Ninh. Đây là vùng được khai thác lâu đời, đồi bị sói
mòn, rửa trôi nhiều, đồng ruộng lầy lụt, chua úng. Vùng này thuận lợi cho
việc trồng các loại nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như: chè, cây
ăn quả, cây lương thực, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản.
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông
lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình trong năm
khoảng 1.600- 1.800 mm. Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng
85 – 87%. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây
trồng, vật nuôi đa dạng.
Tổng diện tích tự nhiên của Phú Thọ là 3.519,56 km2, trong đó vùng núi
chiếm 79%, vùng trung du chiếm 14,35%, vùng đồng bằng chiếm 6,65%. Đất
đai ở đây có thể trồng cây nguyên liệu phục vụ cho một số ngành công nghiệp
chế biến.
12
Dân số khoảng 1,3 triệu người, có 20 dân tộc anh em cùng sinh sống,
gồm dân tộc Kinh, Tày, Thái, Mường, Dao, Mông, Sán Chay, Hoa, Thổ,
Ngái… Người Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng. Các dân tộc ít
người sống chủ yếu ở các huyện vùng núi cao. Mặc dù đa dạng về dân tộc
nhưng Phú Thọ rất ổn định về chính trị- xã hội.
Kinh tế Phú Thọ thời gian qua phát triển phù hợp với đường lối phát
triển kinh tế nhiều thành phần. GDP tăng bình quân hơn 8%/năm. Tiểu thủ
công nghiệp, nông lâm nghiệp được chú trọng đẩy mạnh sản xuất, nhiều
ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Kinh tế nông nghiệp
đã có những bước chuyển biến quan trọng, phát triển khá toàn diện, nhất là
lương thực. Ngành chăn nuôi phát triển. Các thành phần kinh tế được khuyến
khích phát triển. Kinh tế quốc doanh, nhất là trong công nghiệp xây dựng
được sắp xếp lại và đầu tư tái sản xuất mở rộng để giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế ngoài quốc doanh cũng được khuyến khích khơi
dậy mọi tiềm năng, tạo nhiều cơ hội nên phát triển ở hầu hết các ngành, lĩnh
vực. Trong nhiều năm trở lại đây, tỉnh có những chính sách thu hút vốn đầu tư
của nước ngoài và giải quyết việc làm cho 17.168 lao động, góp phần đáng kể
vào nguồn ngân sách của tỉnh.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng gắn liền với lịch sử dựng nước của dân
tộc; đầm Ao Châu, vườn quốc gia Xuân Sơn, vùng nước khoáng nóng Thanh
Thuỷ, … là những tiềm năng lớn để Phú Thọ phát triển du lịch.
Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng trung bình đạt 9,8%/ năm. Hoạt
động tín dụng, ngân hàng, tài chính có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng
lên. Mạng lưới bưu chính- viễn thông được đầu tư xây dựng rộng khắp, xã
nào cũng có những điểm bưu điện văn hoá, đảm bảo sự thông suốt của thông
tin giữa các vùng miền trong tỉnh với các miền trong cả nước và quốc tế, phục
vụ công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế của tỉnh.
13
Do đặc điểm địa hình, mật độ dân cư giữa các khu vực trong tỉnh, nhất
là các đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí giữa các địa phương còn
chênh lệch khá lớn, CSVC hạ tầng của các địa phương nhất là các trường học
còn nghèo.
Những đặc điểm trên đây khiến cho Phú Thọ gặp phải những khó khăn
trong việc quy hoạch mạng lưới trường lớp, thực hiện mục tiêu phát triển giáo
dục nói chung và phổ cập giáo dục, chống mù chữ nói riêng.
Tuy nhiên, Phú Thọ lại có những thuận lợi cơ bản như: các cấp uỷ Đảng
và chính quyền từ tỉnh đến xã, phường luôn luôn quan tâm, chỉ đạo ngày càng
cụ thể sâu sắc và hiệu quả hơn đối với ngành GD&ĐT, nhất là với GDPT;
truyền thống hiếu học của các địa phương đã trở thành động lực thúc đẩy phát
triển giáo dục; kinh tế phát triển không ngừng, môi trường xã hội ổn định, đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tạo ra các nguồn lực cơ bản đảm bảo giáo
dục phát triển lành mạnh.
1.1.2. Truyền thống lịch sử- văn hoá
Phú Thọ có vinh dự và trách nhiệm lớn là vùng Đất Tổ, trung tâm của
quốc gia Văn Lang cổ, cội nguồn của dân tộc Việt Nam, nơi có đền thờ Hùng
Vương, một động lực tinh thần sâu xa của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.
Đồng bào các dân tộc ở Phú Thọ có truyền thống yêu nước và cách mạng, lao
động cần cù, sáng tạo, có tinh thần đoàn kết, vượt mọi khó khăn, một lòng tin
tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt và đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Phú Thọ có bản sắc văn hoá dân tộc gắn liền với lịch sử dựng nước và
giữ nước từ thời Hùng Vương với trên 200 di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh, di tích cách mạng kháng chiến đều có khả năng khai thác phục vụ cho
tham quan, du lịch.
14
Phú Thọ có nhiều di tích nổi tiếng như: khu di tích Đền Hùng (Việt
Trì), đầm Ao Châu, Ao Giời, Suối Tiên, khu rừng nguyên sinh Xuân Sơn
(33.687 ha, trong đó 15.000 ha rừng nguyên sinh), vùng nước khoáng nóng
Thanh Thuỷ, đền Mẫu Âu Cơ, đình Lâu Thượng, Hùng Lô, Đào Xá, chùa
Xuân Lãng, chùa Phúc Khánh; các khu di chỉ; Phùng Nguyên, Sơn Vi, Gò
Mun…Các di tích kháng chiến: chiến khu Hiền Lương (Hạ Hoà), Vạn Thắng
(Cẩm Khê), tượng đài kháng chiến sông Lô (Đoan Hùng), khu lưu niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Cổ Tiết (Tam Nông), Chu Hoá (Lâm Thao)…
Phú Thọ còn là miền đất lưu giữ nhiều giá trị văn hoá dân tộc đặc sắc
của tổ tiên, mang tính giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn; lễ hội
Đền Hùng, hội Phết (Hiền Quang), hội làng Đào Xá, Sơn Vi…; nhiều làn điệu
dân ca, xoan ghẹo, nhiều trò diễn dân gian, nhiều truyền thuyết- huyền thoại
về dựng nước, nhiều truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười giàu tính nhân văn,
mang nét đặc sắc của vùng đất Tổ, đặc trưng văn hoá Lạc Hồng.
Đặc biệt liên tiếp trong hai năm Phú Thọ được UNESCO công nhận hát
Xoan là di sản văn hoá phi vật thể thế giới (2011), tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại (2012). Việc UNESCO
công nhận hát Xoan và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hoá
phi vật thể đã chứng tỏ bề dày lịch sử văn hoá của nhân dân Phú Thọ nói
riêng, nhân dân Việt Nam nói chung.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhân dân Phú Thọ luôn luôn kiên cường,
dũng cảm tham gia vào các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc và bền bỉ trong
xây dựng quê hương, duy trì các truyền thống văn hoá tốt đẹp đã hun đúc nên
những truyền thống quý báu cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập và
phát huy.
15
1.1.3. Giáo dục phổ thông tỉnh Vĩnh Phú trước khi tái lập tỉnh Phú Thọ 1997
Năm 1968, Phú Thọ hợp nhất với Vĩnh Phúc thành tỉnhVĩnh Phú. Từ
năm 1986, Vĩnh Phú cùng cả nước bước vào thời kỳ đổi mới. Bên cạnh những
chuyển biến kinh tế- xã hội, GD&ĐT của Vĩnh Phú đã có những bước chuyển
đáng kể trong thực hiện đường lối đổi mới giáo dục của Đảng.
Trong những năm 1987- 1990, ngành giáo dục tập trung vào nhiệm vụ
củng cố và từng bước phát triển sự nghiệp GDPT của tỉnh. Sở GD&ĐT từng
bước tiến hành đổi mới công tác giáo dục, quy hoạch mạng lưới trường lớp,
mở rộng GDPT, đa dạng hoá các loại hình đào tạo. “Năm 1990, toàn tỉnh có
492 trường phổ thông cơ sở, bao gồm 10.237 lớp, 357.925 học sinh; 136
trường PTTH với 461 lớp và 16.684 học sinh” [4, tr.523].
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII, 1993) xác
định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết
số 12- NQ/TW “Về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh đến năm 2000”.
Sau quá trình triển khai thực hiện, ngành GD&ĐT của tỉnh có bước phát triển
mới. Quy mô các ngành học, cấp học từ giáo dục mầm non cho đến giáo dục
chuyên nghiệp đều tăng so với trước. Về GDPT, “so với kế hoạch của tỉnh
giao, số học sinh đã vượt trên 100%. Ngành học phổ thông được tỉnh cho mở
4 trường bán công THPT, 2 trường THCS và 2 trường phổ thông dân lập nội
trú, duy trì và mở thêm các lớp hệ B, bán công”. [4, tr.543]. Cùng với việc sắp
xếp lại mạng lưới, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, hình thức học tập ở
các cấp học, ngành học đã đáp ứng một phần nhu cầu học tập của nhân dân.
Chất lượng giáo dục có những chuyển biến. Từ 1992, Vĩnh Phú “là một trong
6 tỉnh được cả nước công nhận là đã hoàn thành việc xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục Tiểu học” [29, tr.119]. CSVC, trang thiết bị trường học được củng
cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Quy mô giáo dục không ngừng
16
phát triển. Riêng học sinh phổ thông bình quân trong 5 năm (1991- 1995) tăng
6,9%. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm từ 11,2% còn 4,1%. Đến 1995, hệ công lập
của tỉnh có 13.987 lớp học các cấp, trong đó: Tiểu học có 9.688 lớp với
342.000 học sinh, THCS có 3.796 lớp với 158.500 học sinh, THPT có 503 lớp
với 24.800 học sinh. Tỷ lệ thi tốt nghiệp Tiểu học là 95,8%, THCS 92,2%,
THPT đạt 98,6%.
Đội ngũ giáo viên giỏi các cấp ngày càng tăng, tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo cao hơn bình quân chung cả nước.
Tính đến tháng 12/ 1996, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn như sau: Tiểu học đạt
chuẩn 95,8% (cả nước 77%); THCS đạt chuẩn 95,4% (cả nước 83%); THPT
đạt chuẩn 98,2% (cả nước 90%)
Phong trào thi đua “Hai tốt” được triển khai và thu được kết quả to lớn.
Số giáo viên giỏi, học sinh giỏi hàng năm tăng cả về mặt chất lượng và số
lượng. Năm học 1992- 1993 có 23 giải học sinh giỏi cấp quốc gia, năm học
1993- 1994 có 41 giải, năm học 1994- 1995 có 63 giải, năm học 1995- 1996
có 55 giải.
Qua ba đợt Nhà nước xét tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân
dân, ngành GD&ĐT Vĩnh Phú có 13 cán bộ giáo viên được phong tặng danh
hiệu nhà giáo ưu tú. Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương có Quyết định số 62, ngày 13/ 3/ 1993
về việc thành lập ban cán sự Đảng và Đảng đoàn các cấp; Tỉnh uỷ ra quyết
định thành lập Ban cán sự Đảng ngành GD&ĐT tỉnh Vĩnh Phú. Căn cứ Quyết
định 1123/QĐ- UB, ngày 22/ 9/ 1993 của UBND tỉnh, từ ngày 01/01/1994
các Trung tâm GDTX và các trường phổ thông dân tộc nội trú thuộc các
huỵên, thị, thành chuyển về Sở GD&ĐT tỉnh Vĩnh Phú.
GDPT Vĩnh Phú từng bước thay đổi, nhất là sau 10 năm đổi mới (19861996). Vào thời điểm tái lập tỉnh (1997), GDPT Phú Thọ có những thuận lợi
17
là được kế thừa các thành quả đạt được trong thời kỳ hai tỉnh hợp nhất. Tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém trong GDPT như: chất lượng giáo dục
chính trị, đạo đức, các môn khoa học xã hội nhân văn còn thấp; giáo dục
hướng nghiệp, dạy nghề còn hạn chế; đội ngũ giáo viên, nhất là giáo viên
THPT còn thiếu, chưa đồng bộ; trang thiết bị trường học còn thiếu, lạc hậu….
Từ những hạn chế trong GDPT đặt ra yêu cầu khách quan là cần có
nhận thức đúng để tìm ra giải pháp, bước đi phù hợp trong phát triển GDPT
của tỉnh. Đây là cơ sở cho Phú Thọ cùng với cả nước đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
1.2. Giáo dục phổ thông Phú Thọ từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến năm 2005
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục phổ thông
Luật Giáo dục năm 2005 quy định về GDPT: “Điều 26. Giáo dục phổ
thông bao gồm:
a) Giáo dục Tiểu học thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp 5.
Tuổi của học sinh vào lớp 1 là 6 tuổi;
b) Giáo dục Trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm, từ lớp 6 đến
lớp 9. Học sinh vào học lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi
là 11 tuổi;
c) Giáo dục Trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp
10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp Trung học cơ
sở, có tuổi là 15 tuổi” [75, tr.74].
“Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho
18
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” [75, tr.75].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đề ra chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu
chiến lược trên, Đại hội xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả” [30, tr.107]. Phương hướng chung của lĩnh vực
GDPT trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc làm; khắc
phục những tiêu cực, yếu kém trong GD&ĐT.
Đại hội xác định phát triển GD&ĐT trong 5 năm 1996- 2000 là: “Nâng
cao mặt bằng dân trí, bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia
nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất
nước. Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [34, tr.573].
Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi, phải phát triển mạnh GD&ĐT,
phát huy nguồn lực con người. Tháng 12/ 1996, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần 2 (khoá XIII) thông qua Nghị quyết về: “Chiến lược phát
triển giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
nhiệm vụ đến năm 2000”. Trên cơ sở đánh giá về thực trạng GD&ĐT, Nghị
quyết nêu bật những thành tựu và những mặt còn hạn chế, yếu kém của nền
giáo dục Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến hiện tại. Từ đó, Hội nghị
đã đưa ra chiến lược phát triển GD&ĐT với những nội dung:
Những tư tưởng chỉ đạo phát triển Giáo dục- Đào tạo trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
19
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; CNH,
HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Phải giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội
dung, phương pháp giáo dục và đào tạo.
Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc
GD&ĐT cùng với KH&CN là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Có giải pháp mạnh
mẽ để phát triển giáo dục.
Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Kết hợp giáo dục nhà
trường- gia đình- xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh.
Phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội,
những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Coi trọng
cả ba mặt: quy mô, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với những tiến bộ
KH&CN, học đi đôi với hành, gắn liền nhà trường- gia đình- xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Tạo điều kiện để ai cũng
được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học
tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng.
Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các
loại hình giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách
học phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh của mình. Phát triển những trường bán
công, dân lập ở những nơi có điều kiện [31, tr.29- 30].
Mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông đến năm 2000.
20
Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức- trí- thể- mỹ ở tất cả các bậc
cấp học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng
tư duy sáng tạo và năng lực thực hành. Cụ thể là:
Phổ cập giáo dục Tiểu học trong cả nước. Phổ cập THCS ở các thành
phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện.
Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15- 35. Đặc biệt
chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, để tất cả các tỉnh đạt
chuẩn quốc gia về xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học trước khi
bước sang thế kỷ XXI [31, tr.33].
Những giải pháp chủ yếu: tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và
đào tạo; xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học;
tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp GD&ĐT và tăng cường CSVC các
trường học; đổi mới công tác quản lý giáo dục [31, tr.35- 36].
Văn kiện Đại hội VIII và Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) của
Đảng tiếp tục khẳng định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, chỉ ra mục tiêu,
nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp của toàn ngành giáo dục và hệ thống
GDPT. Đây chính là kim chỉ nam cho hoạt động giáo dục các địa phương
trong cả nước vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh mình, trong đó có Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ nhằm đưa GDPT phát triển lên một bước cao hơn.
Triển khai chủ trương phát triển GD&ĐT trên, ngày 29/ 8/ 1997, Chính
phủ thông qua Nghị quyết 90/CP “Phương hướng và chủ trương xã hội hoá
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá”. Đối với GDPT, Nghị quyết nhấn
mạnh: XHH giáo dục gắn liền với cộng đồng trách nhiệm của tất cả các lực
lượng xã hội, thông qua tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế- xã hội lành
mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục. Ở mỗi địa phương phải quy
trách nhiệm về Đảng bộ, HĐND, UBND, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp tại địa phương và mỗi cá
21