Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ cấp xã của tỉnh bạc liêu trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.5 KB, 87 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua đã chứng minh rằng:
sau khi có đờng lối đúng, cán bộ là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc; công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, do làm tốt công tác cán bộ, Đảng
ta đã có đợc đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững
vàng, có năng lực tổ chức thực tiễn ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ các
cấp đã đa chủ trơng, đờng lối của Đảng thâm nhập vào quần chúng, tổ chức,
lãnh đạo quần chúng vợt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu anh dũng,
làm nên thắng lợi lịch sử của cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lợc, giành độc lập, tự do cho dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, đa cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai mơi năm qua, đất nớc ta tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta chủ trơng phát triển nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa (XHCN), với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; mở rộng dân chủ XHCN, đổi mới hệ thống chính trị;
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; củng cố
quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, v.v Do có đội ngũ cán bộ
đủ phẩm chất, trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn, nên công cuộc đổi mới đất
nớc đã đạt đợc những thành tựu đáng khích lệ.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nớc có những thuận lợi to lớn, nhng
đồng thời cũng có những nguy cơ và thách thức đan xen. Để nâng cao sự lãnh
đạo của Đảng lên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị, chủ động nắm thời cơ, vợt
qua thách thức và nguy cơ, thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lợc và đờng lối
của Đảng đề ra trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng Đảng đợc xác
định là nhiệm vụ then chốt, công tác cán bộ của Đảng trở thành "khâu then
chốt của vấn đề then chốt".
1


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định:
Cán bộ và công tác cán bộ thật sự là yêu cầu vừa cơ bản, vừa
bức xúc, đòi hỏi phải đổi mới từ quan điểm, đến phơng pháp, chính
sách và tổ chức, chẳng những để đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nớc
hiện nay mà còn phải chuẩn bị những thế hệ cách mạng kế tục sự
nghiệp của Đảng ta và dân tộc trong tơng lai [12, tr. 91].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh:
"Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế
cận. Sớm xây dựng cho đợc một chiến lợc cán bộ cho thời kỳ mới"[13, tr.51].
Nghị quyết Trung ơng ba khoá VIII còn chỉ rõ: phải chú trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trớc hết là cấp chiến lợc và cấp cơ sở.
Nhận thấy việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đóng vai trò
hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nớc hiện nay, Hội nghị Trung
ơng năm khoá IX đã ra Nghị quyết "Về đổi mới và nâng cao chất lợng hệ
thống chính trị ở cơ sở". Nghị quyết đã chỉ ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán
bộ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay là: "Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có
năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đờng lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nớc, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân" [20, tr.167-168].
Thực tế cho thấy rằng, muốn củng cố và phát huy đợc vai trò quan trọng
của cơ sở, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải có đội ngũ cán bộ đủ về số l-
ợng và đảm bảo về chất lợng, trong đó đội ngũ bí th đảng uỷ các xã phờng, thị
trấn là một bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt.
Bạc Liêu là tỉnh mới đợc tái lập (năm 1997), có nhiều tiềm năng, nhng
trớc mắt điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Tuy vậy, với sự quan
tâm của các cấp uỷ đảng, đội ngũ bí th đảng uỷ của các xã, phờng, thị trấn
trong tỉnh đã có bớc trởng thành đáng kể, là nhân tố quan trọng góp phần phát
2
triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng và an ninh ở địa

phơng trong những năm qua. Song, so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay và thời
gian tới, đội ngũ cán bộ này còn bất cập về nhiều mặt: trình độ, năng lực tổ
chức thực tiễn, phẩm chất đạo đức Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất những
giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ bí th đảng uỷ xã, phờng, thị trấn trên địa
bàn tỉnh Bạc Liêu hiện nay là vấn đề vừa cần thiết, cấp bách, vừa có ý nghĩa
cơ bản lâu dài.
Là một cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Trờng Chính trị tỉnh, tôi
muốn qua việc nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp: "Xây dựng đội ngũ bí
th đảng uỷ cấp xã của tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay" có thể
đóng góp một phần nhỏ công sức của mình cùng với các cấp uỷ đảng ở Bạc
Liêu làm tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ theo tinh thần các nghị
quyết của Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và xây
dựng đội ngũ bí th đảng uỷ cấp cơ sở nói riêng đã đợc các văn kiện của Đảng
đề cập và nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong các đề tài và bài viết liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đáng chú
ý là các công trình: "Mẫu hình và con đờng hình thành ngời cán bộ lãnh đạo
chính trị chủ chốt cấp cơ sở" của Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1992;
Đề tài nhánh KX.05-11-2005: "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở" năm 1993 do TS Phan Văn Tích làm chủ nhiệm; "
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc", Nxb CTQG, HN, 2001 do PGS,TS
Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Các công trình
này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu hình ngời cán
bộ lãnh đạo, những yêu cầu mới và những giải pháp mang tính tổng quát nhằm
3
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ CNH, HĐH đất nớc.
- Đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về chủ đề

này, nh: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay", luận án tiến sĩ khoa học lịch sử của Phạm Công
Khâm, năm 2000; "Xây dựng đội ngũ bí th đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong giai
đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Phích, năm 2000; "Xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh,
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ của Trần Trung
Trực, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005. Các luận án, luận văn
này đã nêu lên thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh.Các tác giả đã đa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở khu vực này đáp ứng
yêu cầu, nhiêm vụ của từng địa phơng.
Ngoài ra, một số bài viết trên các báo và tạp chí cũng đề cập đến vấn đề
này nh:
- "Vấn đề cán bộ ở cơ sở xã, phờng, thị trấn" của Lê Đức Bình, Báo
Nhân Dân, tháng 7-2002, tr.3. Trong bài báo, tác giả khẳng định cán bộ cơ sở
là hạt nhân, là lực lợng nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên, do
nhận thức cha đầy đủ vị trí, vai trò của cán bộ cơ sở, nên công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ ở cơ sở còn nhiều bất cập; các cấp đảng, chính quyền cha quan
tâm đúng mức đến công tác cán bộ ở cơ sở; chế độ, chính sách đối với cán bộ
cơ sở cha thoả đáng. Từ đó, có một thực tế đáng chú ý: ngời có trình độ, năng
lực không chịu ở lại và về công tác ở cơ sở. Nguồn cán bộ cơ sở mỏng, hụt
hẫng, trong khi đúng ra cơ sở phải là nơi tạo nguồn, nơi rèn luyện cán bộ cho
cấp trên. Tác giả nêu lên một số yêu cầu đổi mới về quy hoạch, kế hoạch công
tác cán bộ; cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở; sắp xếp lại, kiện
toàn hệ thống trờng lớp đào tạo, bồi dỡng cán bộ cơ sở. Ngoài ra, tác giả còn
4
phân tích một số nguyên nhân dẫn đến những yếu kém ở cơ sở nh vấn đề mất
đoàn kết nội bộ do chủ nghĩa cá nhân, do mâu thuẫn giữa các thế hệ cán bộ.
Từ đó tác giả cho rằng, cần giáo dục cán bộ về đạo đức cách mạng, về phong
cách lãnh đạo, kiến thức, năng lực thực tiễn; cán bộ phải biết gắn bó với nhân

dân, đặc biệt là cán bộ cơ sở, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
mới.
- "Một số vấn đề quan trọng về công tác tổ chức và cán bộ của Đảng
hiện nay" của Phan Diễn, Tạp chí Cộng sản, số 31, 2002, tr.3-9. Tác giả tổng
kết những đánh giá của Trung ơng về việc thực hiện các nghị quyết Trung ơng
khoá VII, khóa VIII và Kết luận của Hội nghị Trung ơng 6 khoá IX về công
tác tổ chức - cán bộ. Từ đó, tác giả đề nghị các cấp, các ngành tiếp tục quán
triệt sâu sắc, cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết trong thời
gian tới. Trong đó, tác giả nêu phân tích khá chi tiết những mặt làm đợc và
những mặt yếu kém, hạn chế của các nội dung công tác tổ chức; công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; công tác luân chuyển cán bộ; vấn đề xây dựng
tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, tác giả đa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt
hơn công tác tổ chức cán bộ trong thời gian tới.
- "Nâng cao chất lợng cán bộ cơ sở: những vấn đề lý luận và thực tiễn"
của Hoài Nhân, Tạp chí Tổ chức Nhà nớc, số 12, 2002, tr.39, 52. Tác giả nêu
lên số liệu thống kê của tỉnh Bình Dơng về trình độ mọi mặt của đội ngũ cán
bộ cơ sở, chỉ ra những bất cập cần khắc phục và những trăn trở, băn khoăn của
đội ngũ cán bộ cơ sở trớc những thực trạng đáng báo động về tình hình hoạt
động và chất lợng đội ngũ cán bộ cơ sở. Từ đó, tác giả đa ra những giải pháp
nâng cao chất lợng cán bộ cơ sở nh: chính sách u đãi thu hút nhân tài, kế
hoạch đào tạo và bồi dỡng, các hình thức đào tạo, cải tạo tổ chức Đoàn thanh
niên để tạo nguồn cán bộ trẻ nhằm xây dựng hệ thống chính trị ngày càng
vững mạnh.
- "Xử lý đúng các mối quan hệ trong công tác cán bộ" của Hà Đăng,
Tạp chí Cộng sản, số 3, 2002, tr.21-24. Đây là tham luận tại Hội thảo khoa
5
học "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, huyện" do Tạp chí
Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy Hải Dơng tổ chức tháng 1-2002. Trong bài, tác
giả nêu lên một số mối quan hệ và sự cần thiết phải xử lý đúng các mối quan
hệ đó trong công tác cán bộ: giữa đức và tài, giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, giữa

năng lực thực tế và bằng cấp. Sau cùng, tác giả đa ra kết luận: xử lý đúng các
mối quan hệ ấy thì công tác cán bộ mới trôi chảy. Đó không chỉ là chuyện của
Trung ơng, mà cũng là chuyện của tỉnh, huyện (thiết nghĩ, đó cũng là chuyện
của công tác cán bộ nói chung).
- "Vài suy nghĩ về dân chủ hóa công tác cán bộ" của Lê Đức Bình, Báo
Nhân Dân, 2-9-2002, tr.3. Trong bài báo, tác giả trình bày vai trò của việc mở
rộng dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của tập thể trong công tác cán bộ, khắc
phục tình trạng bố trí cán bộ theo cơ cấu, áp đặt chủ quan.
- "Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng cờng hệ thống chính trị ở
cơ sở" của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Dân vận, số 1+2-2002, tr.16-18. Tác giả
trình bày hai phần lớn: quan điểm chỉ đạo nhằm củng cố, tăng cờng hệ thống
chính trị ở cơ sở; những giải pháp cấp bách tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
chính quyền cơ sở (xã, phờng, thị trấn). Tác giả coi đây là lĩnh vực có nhiều
tình huống phức tạp hơn cả và là khâu đột phá.
- "Đảng bộ Bạc Liêu với công tác tổ chức - cán bộ" của Phan Quốc H-
ng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9, 2002, tr.9-10, 26. Đây là bài viết của đồng
chí Bí th Tỉnh uỷ Bạc Liêu về công tác tổ chức - cán bộ của tỉnh, đánh giá
những thuận lợi, khó khăn cũng nh những mặt làm đợc và cha đợc của công
tác cán bộ ở tỉnh. Tác giả nhấn mạnh những trọng tâm công tác cán bộ mà
Tỉnh uỷ đã tiến hành trong thời gian trớc đó làm tiền đề cho việc thực hiện
thắng lợi nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh, các nghị quyết của Trung -
ơng về công tác tổ chức - cán bộ, góp phần xây dựng Đảng bộ Bạc Liêu ngày
càng vững mạnh.
6
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã có những luận giải có giá trị
về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở, trong đó có vấn đề xây dựng
đội ngũ bí th đảng uỷ cấp xã, theo các góc độ khác nhau. Nhng, đến nay ch-
a có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ bí th đảng
uỷ cấp xã, phờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn
hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu và luận chứng góp phần làm rõ thêm những luận cứ khoa
học về công tác cán bộ của Đảng ở cơ sở; nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân,
kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ bí th đảng uỷ xã,
phờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu đáp ứng đợc yêu cầu, nhiệm vụ trong giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ bí th đảng uỷ cơ sở nói chung và
đội ngũ bí th đảng uỷ cơ sở ở Bạc Liêu nói riêng trong quá trình CNH, HĐH
đất nớc.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, tìm nguyên nhân, rút ra kinh
nghiệm, xác định phơng hớng, và đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ bí th đảng uỷ xã, phờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu ngang tầm nhiệm
vụ mới trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tợng nghiên cứu:
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ bí th đảng uỷ các xã, ph-
ờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ đơng chức, kế cận bí th đảng uỷ
cấp xã và công tác xây dựng đội ngũ bí th đảng uỷ cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu từ
năm 1997 đến nay.
7
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t
tởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ của
Đảng trong điều kiện có chính quyền.
Luận văn đợc tiến hành trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng kết hợp các ph-

ơng pháp phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, gắn lô-gích với lịch sử, đặc
biệt coi trọng phơng pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ bí th đảng uỷ xã, phờng, thị trấn và
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ này của tỉnh Bạc Liêu.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản, có tính khả thi nhằm góp phần xây dựng
đội ngũ bí th đảng uỷ xã, phờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu có đủ phẩm chất,
năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển ở địa phơng trong giai đoạn hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những
luận cứ khoa học cho các cấp uỷ đảng trong tỉnh thực hiện tốt công tác cán bộ
ở cơ sở hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn Xây dựng Đảng ở Trờng Chính trị tỉnh Bạc
Liêu và các trung tâm bồi dỡng chính trị cấp huyện, thị xã trong tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chơng, 7 tiết.
8
Chơng 1
Công tác xây dựng đội ngũ Bí th Đảng ủy
xã, phờng, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu - những vấn đề
lý luận và thực tiễn
1.1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của cấp xã, các đảng bộ xã
và đội ngũ bí th đảng ủy cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay
1.1.1. Quan niệm về xã và cấp xã
Làng, xã là đơn vị quần c chủ yếu của ngời Việt Nam - một dân tộc
vốn có nền văn minh nông nghiệp lúa nớc. Các tên gọi "làng", "xã", "thôn"
xuất hiện từ rất sớm. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, dới ách thống trị và
âm mu đồng hoá của phong kiến Trung Quốc, làng xã ở Việt Nam đã nhiều
lần biến đổi và sau đó đến các triều đại phong kiến bản địa cũng gần một
nghìn năm, nó đã nhiều lần đợc cải cách về thể chế và kết cấu xã hội.

Theo GS,TS Hoàng Chí Bảo, "Làng: là một từ Nôm, là tiếng nói dân
dã, là ngôn ngữ đời sống trong dân gian đã ăn sâu vào tâm lý ý thức của ngời
Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó không chỉ là một không gian sinh tồn,
một môi trờng kinh tế - sản xuất với nghề trồng lúa nớc cổ truyền mà còn là
một không gian xã hội và cảnh quan văn hoá [2, tr.54]. Nhà nghiên cứu dân
tộc học Trần Từ cho rằng: ""làng" là tế bào sống của xã hội Việt Nam thời cổ,
là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định c và cộng c của ngời Việt trồng
trọt" [65, tr.35].
Cũng theo GS,TS. Hoàng Chí Bảo, "xã" là một từ Hán, là khái niệm
hành chính, là đơn vị cơ sở của quản lý hành chính, đợc thừa nhận khi chính
quyền nhà nớc phong kiến lúc đó thi hành những cải cách hành chính, biến
công xã - làng Việt cổ - thành đơn vị hành chính cấp cơ sở gọi là "xã" [2, tr.54].
Trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta, cấp xã giữ vị trí, vai
trò hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
9
hội và chống ngoại xâm. Xã là nơi cộng đồng dân c sinh sống, liên kết chặt
chẽ với nhau trong quan hệ kinh tế, xóm làng, họ tộc, hội hè, tín ngỡng, giúp
đỡ và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Xã đợc hình thành bởi các làng; mỗi
làng, xã - ngoài những điểm chung về văn hoá, phong tục tập quán - còn có
những nét riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng cho nền văn hoá của xã hội
Việt Nam.
Trong thời kỳ Bắc thuộc và Pháp thuộc, các chính quyền nhà nớc đều
xác định cấp xã là cấp quản lý hành chính ở cơ sở, nằm trong hệ thống quản lý
hành chính lãnh thổ của đất nớc. Bộ máy chính quyền cấp xã là công cụ phục
vụ đắc lực cho chính quyền nhà nớc cấp trên trong việc cai quản nông thôn. Vì
thế, họ luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền cấp xã, để
nó nắm chắc đợc ruộng đất và dân đinh ở làng xã mình, khai thác đầy đủ, triệt
để các thứ thuế khoá và nghĩa vụ của dân đinh đối với nhà nớc; duy trì và tăng
cờng sự bóc lột của chúng đối với nhân dân ta.
Các triều đại phong kiến ở nớc ta cũng rất đề cao và coi trọng vai trò

của làng, xã. Vua Gia Long cho rằng: "Nớc là hợp của làng xã mà thành, từ
làng xã mà đến nớc; dạy dân nên tục ơng chính là làng xã làm trớc"
[25, tr.162]. Đến thời Minh Mạng, nhà nớc phong kiến đã có những quyết
định cụ thể hơn về xây dựng bộ máy chính quyền xã.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, xã trở thành địa bàn đặc biệt
quan trọng, ở đó các tổ chức của Đảng đợc che chở, bảo vệ và hoạt động tuyên
truyền giác ngộ quần chúng, lôi cuốn họ vào phong trào đấu tranh cách mạng.
Khi giành đợc chính quyền, cùng với việc xây dựng bộ máy chính
quyền Trung ơng, tỉnh, huyện, Đảng và Nhà nớc ta đã coi trọng việc xây dựng
tổ chức bộ máy của Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cấp xã. Vị
trí, vai trò của cấp xã đợc khẳng định trong Hiến pháp và nhiều sắc lệnh của n-
ớc Cộng hoà XHCN Việt Nam và trong các văn kiện Đảng. Hiến pháp 1946 và
Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945, Hiến pháp 1959 và nhiều sắc lệnh của Nhà
10
nớc xác định: cấp xã là một cấp nằm trong hệ thống hành chính lãnh thổ của
đất nớc.
Dới sự lãnh đạo của Đảng, vị trí, vai trò của cấp xã đã đợc nâng lên ở
tầm cao mới, thể hiện sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lợc. Trong thời kỳ này, xã là căn cứ địa của cách mạng; là
nơi xây dựng và hoạt động của lực lợng du kích, dân quân tự vệ; là nơi cung
cấp cho Đảng những quần chúng u tú để tăng cờng sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng.
Số lợng xã là đợc xác định rõ ràng, thị trấn cũng tơng đơng với xã, còn
phờng ở thành phố là đơn vị hành chính cơ sở, nhiều phờng vẫn gắn một phần
với sản xuất và c dân nông nghiệp, nên cấp cơ sở đợc gọi chung là cấp xã, bao
gồm cả xã, phờng, thị trấn.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi), xã là một cấp quản lý nhà nớc trong
hệ thống hành chính 4 cấp của nớc ta hiện nay ở khu vực nông thôn với một
địa bàn rộng lớn; xã là cấp cơ sở, chiếm 85% tổng số đơn vị cơ sở ở nớc ta.
Ngày 27-12-2005, Chính phủ ra Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về

phân loại đơn vị hành chính xã, phờng, thị trấn làm căn cứ để Nhà nớc có
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo sự ổn định của đơn vị
hành chính cấp xã và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nớc của chính
quyền cơ sở, đồng thời làm cơ sở để xác định số lợng cán bộ, công chức
chuyên trách và không chuyên trách; số lợng thành viên Uỷ ban nhân dân
(UBND); bổ sung chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ, công chức xã, ph-
ờng, thị trấn. Cũng theo Nghị định này, các xã, phờng, thị trấn đợc chia thành
ba loại sau:
- Xã, phờng, thị trấn loại I: thuộc địa bàn biên giới hải đảo, có từ 221
điểm trở lên.
- Xã, phờng, thị trấn loại II: có từ 141 đến 220 điểm.
- Xã, phờng, thị trấn loại III: có từ 140 điểm trở xuống (cách tính điểm
đợc quy định cụ thể trong Nghị định).
11
Tiêu chí phân loại trên dựa trên các điều kiện: dân số, diện tích và các
yếu tố đặc thù nh dân tộc, tôn giáo, khu vực
Xã, phờng, thị trấn là cấp hành chính thấp nhất. Các tổ chức trong hệ
thống chính trị xã, phờng, thị trấn có hai đặc trng nổi bật: gần dân nhất và là
nơi thực hiện tất cả các nghị quyết, chỉ thị của các tổ chức đảng cấp trên; các
chính sách, pháp luật của Nhà nớc; các chơng trình, kế hoạch của chính quyền
cấp trên; các chủ trơng của các đoàn thể cấp trên, đồng thời xây dựng và tổ
chức thực hiện các nghị quyết, chơng trình công tác của cấp mình.
1.1.2. Những đặc điểm chung của cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu
Ngoài những đặc điểm chung của cấp xã trong cả nớc, cấp xã ở Bạc
Liêu có những nét riêng đáng chú ý.
Về mặt lịch sử, Bạc Liêu là vùng đất mới hình thành (khoảng trên 200
năm). Do điều kiện đất đai, cơ cấu dân c ban đầu không giống các tỉnh miền
Trung, miền Bắc. Dân c Bạc Liêu đa số là dân "xiêu tán", nghèo khổ, "tha ph-
ơng cầu thực". Họ định c rải rác trên các gò đất cao, dọc các bờ sông, các
kênh sáng, từ đó hình thành xóm, ấp, làng, xã. Phong cách ứng xử của ngời

dân địa phơng ở Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phát, bộc
trực, đồng thời vẫn còn in đậm tính cách lu dân ngời Việt đủ tinh thần thực
tiễn nhng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân mà ít thuộc kinh truyện, nên trong
dân c hình thành tâm lý lấy táu (đấu) đong lúa chứ không ai lấy táu (đấu)
đong chữ, tức xem nhẹ việc học
Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám thành công và qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vùng đất Bạc Liêu trở thành căn cứ
kháng chiến của Nam bộ; nhiều tên đất, tên ngời đi vào lịch sử trong cuộc tr-
ờng chinh của đất nớc.
Đến năm 1975, sau khi đất nớc hoàn toàn thống nhất, nhân dân Bạc
Liêu cùng cả nớc bắt tay vào xây dựng quê hơng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới từ năm 1986, quê hơng Bạc Liêu có những bớc phát triển đáng kể. Các xã,
12
phờng trong tỉnh khang trang hơn; các công trình điện, đờng, trờng, trạm đợc
các cấp chính quyền quan tâm đúng mức hơn. Hầu hết 61 xã, phờng, thị trấn
hiện nay đều có đờng ô-tô đi đến trụ sở xã, đảm bảo giao thông xã liền xã, ấp
liền ấp, có 61/61 xã, phờng có trạm y tế, có trờng tiểu học, trờng trung học cơ
sở đợc phủ sóng phát thanh, truyền hình. Năm 2005, tổng số xã, phờng thuộc
diện nghèo đói ở Bạc Liêu là 18 xã, phờng, trong đó thị xã Bạc Liêu 3; huyện
Phớc Long 3; huyện Hồng Dân 7; huyện Hoà Bình 2; Vĩnh Lợi 0; huyện Giá
Rai 2; huyện Đông Hải 1.
Đáng chú ý hơn cả là sự phát triển trong nhận thức của các tầng lớp
nhân dân Bạc Liêu. Đồng bào đã biết coi trọng việc học tập của con cái, tích
cực góp công, góp của xây dựng làng quê ngày càng giàu đẹp, có ý thức trong
việc bảo vệ tài nguyên môi trờng ở địa phơng, không còn tình trạng dựng cầu
tiêu trên sông hay khai thác bừa bãi các nguồn thủy hải sản ; tóm lại, trình
độ dân trí ngày càng đợc nâng lên.
ở Bạc Liêu có 3 dân tộc sinh sống đan xen, sẵn sàng tơng trợ nhau lúc
khó khăn, trong đó ngời Kinh chiếm 89,3% dân số, ngời Khơ-me chiếm 0,8%
dân số, ngời Hoa chiếm 2,54% dân số, còn một số không đáng kể các dân tộc

khác chiếm 0,042% dân số [6, tr.22].
Theo thống kê của Cục Thống kê Bạc Liêu năm 2005, dân số Bạc Liêu
là 813.079 ngời, chiếm gần 1% dân số cả nớc. Hằng năm, trên địa bàn các xã,
phờng, thị trấn ở Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội: Ngời Kinh có lễ hội cúng đình,
thờ thần Hoàng Bổn Cảnh có công với nớc đợc triều đình nhà Nguyễn sắc
phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên (còn gọi là lễ thợng điền) giữa tháng 5
âm lịch; lễ thắp miếu (còn gọi là lễ hạ điền) vào giữa tháng 12 âm lịch. Đồng
bào Khmer có lễ hội vào năm mới (Chol - Chnam -Thmây) vào giữa tháng 4
dơng lịch, lễ hội chào mặt trăng (Ooc-om-booc) vào ngày 10 âm lịch, lễ hội
Dôn-ta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật. Đồng bào
ngời Hoa có lễ cúng thanh minh vào tháng 3 âm lịch, lễ thí giàng vào tháng 7
âm lịch.
13
Tóm lại, cấp xã ở Bạc Liêu là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hoá, xã
hội, chính trị phong phú, cần có sự quan tâm, giúp đỡ, điều chỉnh của các cấp
chính quyền và các đảng bộ cơ sở, để các hoạt động đó diễn ra theo hớng tích
cực.
1.1.3. Các đảng bộ xã, phờng, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu: vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với các đảng bộ xã trong
giai đoạn hiện nay
1.1.3.1. Vị trí, vai trò của các cấp đảng bộ xã, phờng, thị trấn
Bạc Liêu hiện có 61 đảng bộ xã, phờng, thị trấn, chiếm 60% trong
tổng số các đảng bộ cơ sở (102 Đảng bộ cơ sở của toàn tỉnh). Do chiếm tỷ lệ
lớn về số lợng tổ chức cơ sở đảng và số lợng đảng viên, nên các đảng bộ cấp
xã có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Các đảng bộ này là nền tảng của Đảng ở tất cả các xã, phờng,
thị trấn; là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng; nơi thể
hiện sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân.
Các đảng bộ xã, phờng, thị trấn là những đơn vị chiến đấu, đại diện
cho lập trờng giai cấp công nhân ở cơ sở, lãnh đạo và định hớng giải quyết

mọi vấn đề ở cơ sở theo quan điểm, đờng lối của Đảng, đặc biệt là các vấn đề
nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Đó là nơi đúc kết những kinh nghiệm,
nắm bắt tâm t, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ánh với Đảng, để
Đảng sửa đổi, bổ sung đờng lối, chủ trơng, chính sách ngày càng đúng đắn,
hoàn thiện hơn.
Vai trò của các đảng bộ xã, phờng, thị trấn còn thể hiện ở chỗ quán
triệt và vận dụng sáng tạo đờng lối, chủ trơng, nghị quyết của Đảng, chính
sách của Nhà nớc và của cơ quan cấp trên cho phù hợp với đặc điểm của địa
phơng; đề ra chủ trơng, phơng hớng công tác của Đảng bộ. Trong quá trình tổ
chức thực hiện, các đảng bộ phải chăm lo đào tạo, bồi dỡng, lựa chọn cán bộ
đa ra ứng cử hoặc giới thiệu họ với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị ở
14
cơ sở để bố trí, sử dụng; tiến hành kiểm tra giám sát các hoạt động ở cơ sở
nhằm kịp thời phát huy những điển hình tiên tiến và ngăn chặn những tiêu cực.
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, giữa các đảng bộ xã và các đảng
bộ, phờng, thị trấn cũng có những đặc trng cơ bản khác nhau:
- Đảng bộ xã là tổ chức cơ sở đảng đợc thành lập ở nông thôn, thờng
địa bàn rộng, mật độ dân c tha, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, kết
cấu hạ tầng ở nông thôn cha phát triển, dân trí còn thấp.
- Đảng bộ phờng là tổ chức cơ sở đảng đợc thành lập nơi tập trung dân
c, thờng là những trung tâm chính trị, kinh tế, hành chính của tỉnh là đầu mối
giao thông, lu thông quan trọng; nhân dân chủ yếu sống bằng kinh doanh th-
ơng mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; kết cấu hạ tầng ở phờng tơng đối đợc
đầu t phát triển hơn; trình độ dân trí tơng đối cao hơn.
Do đó, trong khi thực hiện nhiệm vụ, các đảng bộ xã, phờng, thị trấn
cần chú ý đặc điểm của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng và từng địa phơng.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ xã, phờng, thị trấn
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đợc Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX thông qua đã quy định nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng:
- Chấp hành đờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc, đề ra

chủ trơng, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo có hiệu quả.
- Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, t tởng
và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lợng
sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cờng
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thờng xuyên giáo dục, rèn luyện và quản
lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu,
trình độ kiến thức năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
15
- Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng thực hiện đờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc.
- Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nớc đợc chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ
chức đảng, đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.
Tùy lúc, tùy nơi, các đảng bộ cơ sở có những yêu cầu nhiệm vụ
riêng, song về cơ bản, các tổ chức cơ sở đảng nói chung và các đảng bộ xã,
phờng, thị trấn nói riêng, phải lấy những nhiệm vụ trên làm nền tảng.
Những nhiệm vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Do đó,
trong hoạt động thực tiễn, không đợc xem nhẹ nhiệm vụ nào. Căn cứ những
đặc điểm riêng của từng đơn vị cơ sở, các đảng bộ cần quán triệt và vận
dụng sáng tạo quy định của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng
cơ sở, xác định các vấn đề trọng tâm, tập trung chỉ đạo có kết quả để thúc
đẩy phát triển toàn diện.
Ngày 3-3-2004, Ban Bí th Trung ơng Đảng khóa IX đã ban hành các
Quy định số 94-QĐ-TW và 95-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ của đảng
bộ, chi bộ cơ sở xã, phờng, thị trấn, trong đó nêu rõ: Tổ chức cơ sở đảng ở

các xã, phờng, thị trấn là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện các mặt công
tác ở cơ sở. Đảng bộ cơ sở xã, phờng, thị trấn cần nắm vững nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo
xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể nhân
dân; lãnh đạo nhân dân địa phơng thực hiện đờng lối, chủ trơng, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nớc, đa đờng lối, chủ trơng, chính sách của
Đảng đi vào cuộc sống, phục vụ nhân dân; khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của
dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, văn hoá và dân chủ ở
cơ sở. Đây là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và cụ thể nhất mối quan hệ
gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân; là nơi nhân dân thực hiện và phát huy
16
quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ
sở.
1.1.3.3. Yêu cầu đặt ra đối với các đảng bộ xã, phờng, thị trấn
hiện nay
- Các tổ chức cơ sở đảng ở xã, phờng, thị trấn phải thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo các quy định của Ban Bí th Trung ơng Đảng, thật
sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo chính quyền, các đoàn thể và nhân dân
thực hiện tốt chủ trơng, đờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nớc ở cơ sở. Các tổ chức cơ sở đảng ở xã, phờng, thị trấn phải lãnh đạo toàn
diện các mặt công tác ở cơ sở; chăm lo xây dựng chính quyền, MTTQ và
các đoàn thể nhân dân vững mạnh, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị hớng vào xây dựng địa phơng vững mạnh
toàn diện, phục vụ nhân dân, đa đờng lối, chính sách của Đảng đến mọi ng-
ời dân, kịp thời nắm bắt tâm t, nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy nguồn
lực và trí tuệ của dân. Phải xác định rõ chức năng lãnh đạo của tổ chức
đảng, chức năng quản lý của chính quyền và vai trò trách nhiệm của các
đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở; tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng đối với
chính quyền, các đoàn thể, nhng không bao biện, làm thay công việc của
chính quyền, đoàn thể. Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa bí th

cấp uỷ với chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND), chủ tịch UBND, chủ tịch
MTTQ và những ngời đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết
kịp thời những công việc quan trọng, bức xúc trên địa bàn, những vấn đề
lớn, có quan hệ tới cuộc sống, quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phơng.
- Tăng cờng và nâng cao chất lợng, hiệu quả công tác giáo dục
chính trị, lãnh đạo t tởng, kiên quyết đấu tranh khắc phục sự suy thoái về t
tởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Triển khai sâu
rộng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên mà
nội dung cơ bản là học tập và làm theo t tởng, đạo đức, tác phong của Chủ
17
tịch Hồ Chí Minh. Tạo d luận xã hội rộng lớn trong toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân phê phán chủ nghĩa cá nhân; đề cao cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô t; nêu gơng ngời tốt, việc tốt. Kiên quyết đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, t tởng cá nhân, cơ hội, thực dụng, cục
bộ địa phơng trong cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng
viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nớc. Tiếp tục thực hiện
có kết quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xác định rõ tiêu
chuẩn, đạo đức, lối sống, tác phong công tác, cần xây dựng và những biểu
hiện tiêu cực, việc làm sai trái thờng gặp trong từng ngành, địa phơng cần
đấu tranh, ngăn chặn, khắc phục, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên
tham nhũng, tiêu cực và những ngời bao che hành vi tham nhũng, bất cứ ng-
ời đó là ai, ở cơng vị nào. Để xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về chức
năng, nhiệm vụ, phơng thức hoạt động của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng; thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng từ cơ sở. Có cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào
việc xây dựng các nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ, các quyết định
của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ của nhân dân; vào việc bố trí cán bộ chủ chốt của

hệ thống chính trị cơ sở; để nhân dân tham gia giám sát tổ chức
đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên; thực hiện đồng bộ cá
biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng những địa bàn
xung yếu, vùng sâu, vùng xa, ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém,
nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt đảng; kiện toàn đội ngũ cấp uỷ, bí th chi bộ;
bồi dỡng tạo nguồn, thực hiện việc tiêu chuẩn hoá cán bộ, công
chức cơ sở [15, tr.298-299].
18
Đối với Bạc Liêu, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với các đảng bộ cấp
xã cũng chính là phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nội bộ đảng trong
sạch, vững mạnh, đảm bảo đợc vai trò lãnh đạo ở từng xã, phờng, thị trấn.
Nông thôn và nông dân Bạc Liêu ngày nay chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, nuôi trồng và chế biến thủy sản Do vậy, yêu cầu bao trùm trong
hoạt động của các đảng bộ xã là phải quan tâm tìm hiểu, đi sâu sát với các
lĩnh vực hoạt động kinh tế của nông dân, từ đó có cơ chế, chính sách
khuyến nông, khuyến ng kịp thời, đầu t vốn, hỗ trợ khoa học - kỹ thuật,
cây, con giống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trong nông thôn, không ngừng củng cố và đổi mới hình
thức tổ chức, phơng thức hoạt động của kinh tế tập thể, phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế hộ gia đình, khuyến khích,
động viên, hỗ trợ hộ sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng, đi dần
đến xoá hoàn toàn số hộ nghèo.
Đảng bộ cấp xã là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trớc hết phải xây dựng, củng
cố các tổ chức nền tảng này thật vững chắc, đảng bộ phải thật sự trong sạch,
vững mạnh, tập thể cấp ủy phải thật sự là nòng cốt, là trung tâm đoàn kết, là
tập thể trí tuệ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trớc Đảng, trớc
nhân dân, đáp ứng đợc đòi hỏi phát triển kinh tế ở nông thôn, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội

ở xã, phờng, thị trấn.
Các đảng bộ cần đổi mới nội dung và phơng thức lãnh đạo của cấp
uỷ, hớng vào mục tiêu phục vụ cuộc sống và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tạo điều kiện phát triển các hình thức tự quản của cộng đồng dân
c đi đôi với việc xây dựng nếp sống văn hoá mới (xây dựng làng xã, ấp, gia
đình văn hoá), sống và làm việc theo pháp luật, bảo đảm trật tự an ninh, đẩy
lùi các tệ nạn xã hội: cờ bạc, đá gà, số đề, mại dâm trên địa bàn xã, phờng,
thị trấn.
19
Bên cạnh đó, các đảng bộ cần làm cho các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở xã, phờng, thị trấn thấy đợc vai trò của mình trong việc tiếp xúc
với dân, chịu sự giám sát trực tiếp của dân, đồng thời tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc,
phát huy mọi khả năng nội, ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức
cuộc sống dân c.
Các đảng bộ xã thực chất là lực lợng lãnh đạo, gắn kết và phát huy
sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, ở cơ sở, khơi dậy trí tuệ
và nguồn lực của dân xây dựng thôn, xóm, xã, phờng, qua đó xây dựng
Đảng, bồi dỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng
bộ, tình trạng cán bộ sách nhiễu dân, lạm dụng của công, nhất là trong thực
hiện chính sách đất đai, trợ cấp xã hội, sử dụng vốn đầu t từ nguồn ngân
sách và đóng góp của nhân dân. Kịp thời phát hiện, động viên những tấm g-
ơng, những điển hình tiên tiến trong Đảng bộ và trong nhân dân.
1.1.4. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của bí th đảng ủy xã, phờng,
thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu
1.1.4.1. Vai trò của bí th đảng ủy xã, phờng, thị trấn
Cũng nh cấp xã của cả nớc, cấp xã ở Bạc Liêu có vai trò đặc biệt
quan trọng. Đây là nơi cụ thể hóa đờng lối, chủ trơng của Đảng thành hiện
thực; là nơi kiểm nghiệm, đánh giá và góp phần hoàn thiện những đờng lối,

chủ trơng đó; là nơi để nhân dân phát huy quyền làm chủ cũng nh khả năng
sáng tạo của mình trong lao động sản xuất góp phần đa quê hơng càng giàu
đẹp hơn, tơng xứng với tiềm năng và con ngời của địa phơng.
Để tạo đợc sự chuyển biến mạnh mẽ đó, vai trò của các đảng bộ xã
là hết sức quan trọng. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng khẳng định: "Những
thành tựu đã đạt đợc, những tiềm năng đợc khai thác, những kinh nghiệm
có giá trị bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt
nhân là tổ chức đảng" [10, tr.141]. Một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa
20
quyết định để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng ở cấp xã là phải xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt thật sự vững
mạnh, trong đó đặc biệt coi trọng vai trò của đồng chí bí th đảng ủy xã.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền và xây dựng CNXH hiện nay, hầu
hết tổ chức đảng ở xã là đảng bộ cơ sở, bí th đảng ủy xã là cán bộ chủ chốt
ở cơ sở, là một cốt cán đối với toàn bộ hoạt động của tổ chức đảng, chính
quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế - xã hội trên địa bàn xã. Đặc
biệt, bí th đảng ủy xã là nhân tố có ảnh hởng rất lớn đến năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của cấp uỷ và của đảng bộ xã. Đồng thời, bí th đảng uỷ xã
là ngời trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện đờng lối, chủ trơng, nghị quyết
của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và chính sách, pháp luật của Nhà nớc, chịu
trách nhiệm trớc Đảng, trớc dân về kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ cơ sở. Bí th đảng ủy xã còn là ngời để nhân dân trực tiếp bày tỏ,
phản ánh tâm t, tình cảm, nguyện vọng của mình đối với Đảng hoặc là để
tìm sự động viên, giúp đỡ lúc khó khăn; cũng có thể nói rằng, bí th đảng ủy
xã là nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân ở nông thôn.
1.1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ của bí th đảng ủy xã, phờng, thị trấn
Ngời bí th đảng ủy xã, phờng, thị trấn, trớc hết phải nắm vững, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đờng
lối, chủ trơng, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nớc,
cùng với tập thể cấp ủy và đảng bộ xác định đợc nhiệm vụ chính trị của đơn

vị cơ sở mình một cách sát thực và đúng hớng, trọng tâm là khai thác đợc
tiềm năng, thế mạnh của xã, phờng, thị trấn nơi mình phụ trách, lãnh đạo
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế; tìm "đầu ra" cho các sản phẩm của nông
dân; ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; tích cực xoá đói, giảm
nghèo Đi đôi với việc phát triển kinh tế, phải quan tâm lãnh đạo tốt việc
phát triển y tế, giáo dục, các vấn đề văn hoá - xã hội, xây dựng xóm, ấp văn
21
hoá, kiên quyết xoá bỏ các tệ nạn, điều chỉnh các tập tục lỗi thời, xóa bỏ mê
tín dị đoan, giữ vững ổn định về an ninh, quốc phòng ở nông thôn.
Bí th đảng ủy xã, phờng, thị trấn có trách nhiệm trực tiếp chăm lo
xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở ngay tại đảng bộ của mình: xây dựng đảng
bộ trong sạch, vững mạnh về t tởng, chính trị và tổ chức; đổi mới và nâng
cao chất lợng nội dung sinh hoạt và hoạt động của cấp uỷ, của đảng bộ, của
các chi bộ; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện
tốt chế độ tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong cấp
ủy và trong đảng bộ; nâng cao chất lợng đảng viên; củng cố, kiện toàn tổ
chức bộ máy, chăm lo, xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dỡng đội ngũ cán
bộ, trớc hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở; lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
kiểm tra và phối hợp hoạt động chặt chẽ với các tổ chức, các cơ quan trên
địa bàn xã; xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; gần
gũi, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng; chỉ đạo việc tổ chức cho
các đoàn thể tham gia phê bình cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và tham gia
vào công tác xây dựng Đảng.
Có thể nói rằng, ngời bí th đảng ủy cấp xã là ngời chủ trì, điều khiển
tất cả mọi mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của đảng bộ, đảng ủy xã,
phờng, thị trấn; trực tiếp nắm và chỉ đạo thực hiện các vấn đề trọng yếu, các
khâu trung tâm của nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng, chăm lo xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị
ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Ngoài ra, trong công tác và sinh hoạt hàng
ngày, họ phải giải quyết nhiều mối quan hệ rất phức tạp. Đó là quan hệ

công việc, quan hệ làng xã, quan hệ họ hàng - tất cả các mối quan hệ đó
đều đòi hỏi phải đợc giải quyết thấu tình, đạt lý. Do vậy, yêu cầu đối với
ngời bí th đảng ủy ngày càng nặng nề hơn, họ phải vừa "đủ tâm", vừa "đủ
tầm" để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Bạc Liêu hiện vẫn là tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất-
kỹ thuật yếu kém, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế. Những yếu kém đó thể
22
hiện rõ nhất ở các xã. Do đó, để đa Bạc Liêu phát triển nhanh, vợt qua tình
trạng tỉnh nghèo, cần tạo ra bớc phát triển mạnh mẽ từ các xã, phờng, thị trấn;
phải đi lên từ nông nghiệp và nông thôn; tất cả các xã trong tỉnh đều phải dựa
vào tiềm năng, thế mạnh của mình để phát triển. Muốn vậy, các tổ chức đảng
cơ sở xã, phờng, thị trấn, trớc hết là đội ngũ các bí th đảng uỷ cấp xã, phải có ý
chí đa địa phơng mình vơn lên thoát nghèo, từng bớc vơn lên giàu mạnh; phải
có phẩm chất và năng lực đề ra định hớng phát triển táo bạo, mang tính đột phá
và cùng cấp uỷ, chính quyền tổ chức thực hiện thành công các chủ trơng đó.
Các cấp uỷ tỉnh, huyện và các ban, ngành trong tỉnh có đề ra chủ trơng, kế
hoạch đúng đắn đến mấy, nhng nếu không có đội ngũ bí th đảng uỷ xã, phờng,
thị trấn mạnh, thì Bạc Liêu không thể có bớc phát triển nhanh và bền vững.
1.2. Quan niệm về xây dựng đội ngũ bí th đảng ủy cấp xã
ở tỉnh Bạc Liêu
1.2.1. Yêu cầu chung
Trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc - ở nông
thôn, các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân đặt ra những yêu cầu
hết sức mới đối với đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ bí th đảng ủy xã, ph-
ờng, thị trấn nói riêng. Bí th đảng ủy cấp xã phải là ngời có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ mọi mặt, năng lực tổ chức
thực tiễn, quan hệ tốt với quần chúng. Bí th đảng ủy cấp xã phải có khả
năng tập hợp, phát huy trí tuệ của cấp uỷ, đội ngũ cán bộ cơ sở và nhân dân,
giải quyết những vấn đề nảy sinh ở cơ sở.
Trong điều kiện chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng giao lu với

bên ngoài, thông tin đa dạng, nhanh, phức tạp và nhiều chiều nh hiện nay,
cán bộ các cấp nói chung và bí th đảng ủy xã nói riêng phải có khả năng
nắm bắt, phân tích, xử lý, chọn lựa thông tin để hình thành quyết định.
Công cuộc đổi mới của đất nớc ta diễn ra trong hoàn cảnh chế độ XHCN ở
23
các nớc Đông Âu và Liên Xô bị sụp đổ, các thế lực thù địch đang tìm mọi
cách tấn công, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và đ-
ờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nớc ta; xuyên tạc lịch sử và sự nghiệp
đổi mới ở nớc ta. Không có đợc trình độ và năng lực nêu trên, ngời bí th đảng
uỷ xã không thể tự làm tốt công tác t tởng của mình, cho tổ chức đảng và cho
quần chúng, không thể xây dựng đợc niềm tin cho quần chúng vào con đờng
cách mạng XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nông thôn Bạc Liêu chiếm trên 90% diện tích đất đai, nông dân
chiếm trên 80% dân số toàn tỉnh. Song, phần lớn dân c nông thôn hiện nay,
nhất là các vùng sâu, vùng xa trung tâm tỉnh lỵ, vẫn trong tình trạng nghèo
nàn, đời sống khó khăn; hầu hết diện tích đất nông nghiệp còn độc canh cây
lúa, t liệu sản xuất còn lạc hậu; bình quân ruộng đất trên đầu ngời ngày
càng giảm, lại phân tán, manh mún Mặc dù ở một số nơi trong tỉnh nông
dân đã rất cố gắng sản xuất từ 2 đến 3 vụ lúa - màu trong năm, vòng quay
của đất tăng nhanh, kết hợp trồng trọt và chăn nuôi với các mô hình mới
nh VAR (vờn, ao, ruộng),VAC (vờn,ao,chuồng), các trang trại quy mô nhỏ,
đa cây màu xuống ruộng , nh ng đời sống nông dân vẫn còn nhiều khó
khăn, tụt hậu ngày càng xa so với các tỉnh, thành phố trong vùng. Ngời lao
động thiếu việc làm, dân trí thấp, đội ngũ trí thức trực tiếp thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn rất ít; kết cấu hạ tầng kém, hiệu quả sử dụng
đất đai, năng suất lao động thấp; một bộ phận nông dân không có đất sản
xuất phải đi làm thuê, làm mớn, tiếp tục cực nhọc và nghèo khổ. Mặt khác,
ở nhiều nơi trong tỉnh hiện nay còn tồn tại các tệ nạn nh: số đề, đá gà, mại
dâm và các tập tục lạc hậu nh: mê tín dị đoan, bói toán, cầu hồn, lên đồng;
những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh nh: lấy chồng ngoại, xuất khẩu lao

động trái phép đã gây nên những khó khăn, phức tạp không nhỏ cho hoạt
động của tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ cấp xã.
Đảng ta đã đề ra những chủ trơng, giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trớc mắt tập trung
24
giải quyết những vấn đề nh: đổi mới các hợp tác xã; thực hiện chơng trình xoá
đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ dân trí ở nông thôn; áp dụng những tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp; xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn,
đổi mới, nâng cao chất lợng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính
trị cấp xã, v.v Những vấn đề đó đòi hỏi rất cao ngời bí th đảng ủy xã về bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn và năng lực công tác.
Hơn bao giờ hết, ngời bí th đảng ủy xã, phờng, thị trấn phải có một
năng lực hoạt động mới - năng lực vận dụng sáng tạo đờng lối, quan điểm
của Đảng; có khả năng chủ động xây dựng, chỉ đạo, phối hợp và điều khiển
chơng trình công tác của cấp uỷ; có năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
và tham gia xây dựng chính sách, đờng lối của Đảng; năng lực làm công tác
quần chúng. Bên cạnh đó, ngời bí th đảng ủy xã còn phải là tấm gơng tận
tụy phục vụ nhân dân, sống trong sạch, lành mạnh, trung thực, giản dị, kiên
quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong nội bộ tổ chức đảng và
trong xã hội; có phong cách dân chủ tập thể, dám nói, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; sâu sát thực tế, gắn bó với nhân dân. Một yêu cầu nổi bật đối
với các bí th đảng uỷ xã ở Bạc Liêu hiện nay là phải có ý chí và quyết tâm
cao cùng tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể và đội ngũ cán bộ, đảng viên
xây dựng nông thôn Bạc Liêu ngày càng giàu đẹp, văn minh, rút ngắn khoảng
cách giữa Bạc Liêu và các tỉnh trong vùng và cả nớc.
Ngoài những tiêu chuẩn chất lợng nêu trên, đội ngũ bí th đảng ủy
xã, phờng, thị trấn cần đợc đảm bảo về số lợng, tức là phải có quy hoạch,
đảm bảo tính kế thừa, tránh tình trạng "tre già nhng măng cha mọc", dẫn
đến bố trí, đề bạt gò ép, không đủ tiêu chuẩn chất lợng.
Những phân tích trên cho thấy, việc xây dựng đội ngũ bí th đảng ủy

cấp xã đủ về số lợng, đảm bảo về chất lợng, đáp ứng yêu cầu thực hiện
CNH, HĐH trên địa bàn xã, phờng, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu là vấn đề hết
sức cần thiết và cấp bách.
25

×