Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam chi nhánh Quang Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.18 KB, 96 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam không chỉ được biết đến như một quốc gia ổn định về chính trị mà
cịn tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế. Để đạt được những thành tựu kinh tế to lớn
đó khơng thể khơng kể đến sự nỗ lực và đóng góp đáng kể của cộng đồng các doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm khoảng 96% tổng số doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, đóng góp khoảng 26% GDP,
31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 26% lực lượng lao động trong cả
nước). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ngày càng đóng vai trị quan trọng trong
quá trình phát triển nền kinh tế. Với những ưu điểm như bộ máy tổ chức gọn nhẹ,
không địi hỏi nhiều vốn đầu tư, dễ thích ứng với những biến động của thi trường,
… các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ngày càng phát triển phù hợp với yêu cầu
đổi mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn là nền
tảng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Xác định được tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với
phát triển kinh tế đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm trở
lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức
cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình
doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được hưởng nhiều
chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn. Đặc biệt, ở yếu tố quan trọng có tính chất
sống cịn với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc tiếp
cận với những nguồn vốn đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những
năm trước đây. Nhiều ngân hàng đã xác định cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa
là một bước chuyển đổi tích cực trong cơ cấu tài sản.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh
chưa cao, vốn tự có của doanh nghiệp cịn rất hạn chế, vốn vay ngân hàng đã, đang
và còn là nguồn vốn quan trọng để tăng cường đầu tư phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên với nhiều lý do khác nhau, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế


2


toàn cầu đang diễn biến phức tạp, các doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp nhỏ
và vừa còn lúng túng và gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận để có thể vay và
sử dụng vốn vay ngân hàng một cách có hiệu quả.
Nhận thức được vai trị quan trọng của nguồn vốn vay ngân hàng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như thực tế tình hình cấp vốn của chi nhánh ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Quang Trung trong thời gian thực tập, em đã chọn đề tài:
“Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư & Phát
triển Việt Nam chi nhánh Quang Trung”
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chuyên đề thực tập là tìm hiểu về hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Quang
Trung, những kết quả đạt được và phân tích những mặt hạn chế cùng những nguyên
nhân của nó. Đồng thời em xin được phép đưa ra một số giải pháp giúp chi nhánh
mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Kết cấu của chuyên đề
Nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của NHTM
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ & vừa tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Quang Trung
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Ngân hang Đầu tư & Phát triển VIệt Nam chi nhánh Quang Trung


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1. Khái niệm và chức năng của NHTM

1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là
một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
Hàng triệu các nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội
gửi tiền tại ngân hàng. Vì vậy có thể nói ngân hàng đóng vai trị là người thủ quỹ
cho toàn xã hội. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận được những
khoản vay để thanh toán cho việc mua sắm những tiện nghi cho gia đình, đầu tư mở
rộng hoạt động kinh doanh hay để trang trải học phí. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng
là địa chỉ tin cậy cho sự tư vấn về đầu tư, kinh doanh chứng khoán,…sử dụng các
dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh và những dịch vụ ngân hàng hiện đại như homebank,
phonebank, …Ngân hàng, với hệ thống chân rết len lỏi đến tất cả mọi nơi trên thế
giới, tác động đến sự phát triển mọi lĩnh vực trong một nền kinh tế.
Ngày nay, hoạt động ngân hàng đã không ngừng phát triển trên tất cả các
phương diện từ sự mở rộng mạng lưới cho đến sự mở rộng các hình thức sản phẩm
dịch vụ mới. Cùng với sự phát triển ấy thì các ngân hàng đang phải đương đầu với
sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt không chỉ trong ngành ngân hàng. Rất nhiều các


4
tổ chức tài chính, phi ngân hàng như các cơng ty chứng khốn, cơng ty bảo hiểm,
cơng ty kinh doanh bất động sản, … đều đang cố gắng cung cấp đến tay khách hàng
những dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa ngân hàng với các tổ
chức tài chính khác dựa trên phương diện những loại hình dịch vụ mà NHTM cung
cấp.
Đã có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về NHTM. Tuy nhiên,
dựa trên những đặc trưng của hoạt động ngân hàng, dựa trên phương diện những
loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, NHTM có thể được hiểu như sau: “Ngân hàng
là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều chức năng tài

chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (PGS.TS
Phan Thị Thu Hà – Ngân hàng thương mại. NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007)
1.1.1.2. Chức năng của NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với quá trình phát
triển nền kinh tế hàng hố. NHTM là loại hình tổ chức tài chính lớn nhất trong nền
kinh tế, giữ vai trò quan trọng đã, đang và sẽ tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Điều đó được thể hiện rõ rệt qua các chức năng chính của hệ thống ngân hàng.
Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là trung gian tài chính hay trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối”
giữa những người có vốn và những người cần vốn trong nền kinh tế.
“NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiền tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong
nền kinh tế. (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho
tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;
và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ
lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm”.
( PGS.TS Phan Thị Thu Hà – Ngân hàng thương mại. NXB ĐH KTQD 2007)


Hình 1.1: NHTM trong quan hệ tín dụng

5
- Đơn vị thặng dư vốn:

H
Đ
V

- Hộ gia đình


P
B
V

Đơn vị thiếu hụt vốn:
- Hộ gia đình

- Các nhà đầu tư, tổ

- Các nhà đầu tư, tổ

chức

chức
NHTM

- Các doanh nghiệp
- Chính phủ
- Nhà đầu tư nước
ngồi

Trả lãi
lãi

- Các doanh nghiệp
Trả

- Chính phủ
- Nhà đầu tư nước
ngoài


NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, mặt khác nó
dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay (phân bổ vốn) đối với nền kinh tế,
bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Nói cách khác, NHTM là trung
gian tài chính quan trọng điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Với
chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trị là người nhận tiền gửi vừa đóng vai trị
là người cho vay. Ngân hàng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của cả người đi vay và
người cho vay trong nền kinh tế. Chúng cạnh tranh với các ngân hàng khác, các
trung gian tài chính khác và giúp thi trường tài chính mở cửa thơng thống. Nhìn
chung, chúng cạnh tranh với bất kỳ định chế tài chính nào khác cùng theo đuổi mục
tiêu thoả mãn nhu cầu đa dạng của các đơn vị có nguồn vốn nhàn rỗi và các đơn vị
khát vốn. Ngân hàng chỉ có thể thành cơng trong cuộc cạnh tranh đó nếu thực hiện
được vai trị trung gian tốt và tốt hơn những trung gian khác.
Với chức năng trung gian tài chính, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả
các chủ thể kinh tế tham gia và lợi ích chung cho nền kinh tế:
- Đối với người gửi tiền: Việc huy động vốn qua ngân hàng là việc NHTM
tập hợp các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi và tạo thu nhập cho người gửi tiền dưới
hình thức trả lãi tiền gửi. Đồng thời hoạt động này cũng giúp đảm bảo an toàn cho
các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thanh toán tiện ích.


6
- Đối với người đi vay: NHTM đã giúp chủ thể này thoả mãn nhu cầu khát
vốn để kinh doanh, thanh tốn, chi tiêu mà khơng phải tốn nhiều chi phí về sức lực
và thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện ích và hợp pháp.
- Đối với bản thân ngân hàng: Chức năng này đã giúp ngân hàng tìm kiếm
được khoản lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hay hoa
hồng môi giới. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
- Đối với nền kinh tế: Việc cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp đã
khuyến khích sản xuất, tạo thêm cơng ăn việc làm, tăng sản lượng và giảm nhập

khẩu hàng hoá. Mặt khác, việc điều tiết vốn trong khu vực dân cư góp phần tăng
thu nhập và khuyến khích tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, điều này cũng giúp
cho việc tăng cường sản xuất.
Như vậy, với chức năng trung gian tài chính, NHTM đã biến vốn nhàn rỗi
khơng hoạt động thành vốn hoạt động, khuyến khích q trình ln chuyển vốn,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của NHTM
vì nó phản ánh bản chất của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay, nó quyết định sự
duy trì và phát triển của ngân hàng đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện 2 chức năng
sau:
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh tốn theo u cầu của
khách hàng như trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền bán hàng hoá, dịch vụ
và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây, ngân hàng đóng vai trị là “người thủ
quỹ” cho các doanh nghiệp và các cá nhân.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, chức năng này ngày càng được
phát huy, việc thanh toán của ngân hàng ngày càng được mở rộng. NHTM thực hiện
chức năng thanh toán trên cơ sở chức năng trung gian tài chính bởi vì thơng qua việc
nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các


7
khoản thu chi. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể
kinh tế có nhiều hạn chế, đó là rủi ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh tốn lớn,
đặc biệt là những khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực
hiện thanh toán qua ngân hàng.
Chức năng tạo tiền (tạo phương tiện thanh tốn)
Khi có sự phân hố trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và ngân hàng trung gian thì các ngân hàng trung gian khơng cịn thực hiện

chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tài
chính và trung gian thanh tốn, NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM, tức là chức năng sáng tạo
ra bút tệ, góp phần gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế.
Trong điều kiện thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ
có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh tốn thì họ có thể chi trả được hàng hố và
dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản của khách hàng
tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Mặt khác, khi khách hàng
tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để thực hiện chi trả thì sẽ tạo nên một
khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng
khác, từ đó tạo ra một khoản cho vay mới. Vì vậy bằng việc cho vay, ngân hàng đã
tạo ra phương tiện thanh tốn.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, trong đó chức năng trung gian tài chính là chức năng cơ bản nhất tạo cơ sở
cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt các
chức năng trung gian tài chính và các chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng
nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Trên đây là các chức năng cơ bản, quan trọng nhất của NHTM. Ngoài ra,
cùng với sự phát triển của thi trường tiền tệ, hoạt động của các NHTM ngày càng
phong phú. Ngày nay, sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính phi ngân hàng khiến
các ngân hàng hiện đại phải hướng tới ngân hàng đa năng với sự đa dạng về các dịch


8
vụ mà nó có thể cung cấp cho khách hàng. Sự đa dạng trong các dịch vụ và các chức
năng của ngân hàng dẫn đến việc ngân hàng còn được gọi với cái tên là “Bách hố
tài chính”.
Hình 1.2: Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay

chức năng

bảo hiểm

chức năng
uỷ thác

chức năng
môi giới

chức năng NH đầu
tư & bảo lãnh

chức năng
tín dụng

Ngân hàng
hiện đại

chức năng quản
lý tiền mặt

chức năng
tiết kiệm

Chức năng
thanh toán

chức năng lập kế
hoạch đầu tư

(Nguồn: Peter S.Rose (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính)

1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế thị
trường với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng khoản tiền gửi nhàn rỗi
này để cung cấp tín dụng và các dịch vụ khác cho khách hàng. Ngồi nguồn vốn
ngân sách nhà nước cấp thì NHTM phải có nhiều biện pháp để thu hút nguồn tiền
nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, mọi tầng lớp của xã hội để kinh doanh, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Với các chức năng chính của mình, NHTM thực
hiện các hoạt động cơ bản sau:
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
các dịch vụ khác. Hoạt động huy động vốn được xem là một trong những hoạt động


9
quan trọng hàng đầu của NHTM. Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn, ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng bao gồm: Nhận tiền gửi (ngân hàng
được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình
thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác – theo Điều
45, Khoản 1 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, bổ sung năm 2004); phát hành giấy
tờ có giá (phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước); vay vốn giữa các tổ chức tín
dụng (trong và ngồi nước); vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (dưới hình thức tái
cấp vốn – theo quy định tại Điều 30 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Trong đó
khoản tiền gửi của khách hàng (bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm) là
nguồn huy động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng, đồng thời cũng mang lại lợi nhuận lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các

trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu
nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. “Hoạt động tín
dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp
tín dụng” (theo Khoản 8 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam). Tín dụng
là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (cịn được gọi là tín dụng ngân
hàng). Vì vậy hoạt động tín dụng cần phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo tính an tồn và khả năng sinh lời
Tín dụng được phân loại theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của
khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng
• Phân theo thời gian


10
Phân theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến tính an tồn, khả năng sinh lời của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản ngắn hạn.
+ Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định
như phương tiện vận tải, trang thiết bị, một số cây trồng vật ni,…
+ Tín dụng dài hạn: Từ trên 5 năm, tài trợ cho cơng trình xây dựng như nhà,
cầu đường, sân bay, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu
dài.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn do tín
dụng trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt hơn và khan hiếm
hơn.
• Phân theo đối tượng vay vốn
NHTM cho vay dựa vào đối tượng vay phân loại theo:
+ Khách hàng cá nhân
+ Khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa
+ Khách hàng doanh nghiệp lớn

Phân loại theo hình thức này thường chịu ảnh hưởng của kỳ hạn, tính ổn định
của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng dự báo rủi ro và tình hình
tài chính của khách hàng.
• Phân theo hình thức tài trợ tín dụng
Theo hình thức tài trợ tín dụng, tín dụng đựơc chi thành cho vay, cho thuê,
bảo lãnh,… Trong đó cho vay là tài sản lớn nhất và thường được định hướng theo
hai chỉ tiêu là doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Bảo lãnh được ghi vào
tài sản ngoại bảng, đó là giá trị ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của
mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng.
• Phân theo tài sản đảm bảo


11
Tín dụng được chia thành tín dụng có tài sản đảm bảo (bằng thế chấp, cầm cố
tài sản) và tín dụng khơng có tài sản đảm bảo. Về ngun tắc, mọi khoản tín dụng
của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, các khoản tài trợ có đảm bảo bằng tài sản
trên quan điểm của ngân hàng là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ. Các khoản
tài trợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được xếp vào tín dụng khơng đảm bảo bằng
tài sản. Việc chia này giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các
biện pháp xử lý đảm bảo khi cần thiết.
• Phân theo rủi ro
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an tồn cao, khá, trung bình và thấp. Cách
phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù
quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
Ngồi các tiêu chí phân loại trên, các NHTM có thể phân loại tín dụng theo
nhiều tiêu chí khác như theo ngành nghề kinh tế, theo mục đích sử dụng khoản vay,

1.1.2.3. Hoạt động thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh tốn khơng dùng tiền mặt,
tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi

trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng để nhận tiền. Thanh tốn khơng
dùng tiền mặt có tác dụng an tồn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí, đã góp
phần rút ngắn thời gian kinh doanh và tăng thu nhập cho ngân hàng. Cùng với sự
phát triển của công nghệ thơng tin, ngồi các hình thức thanh tốn như séc, nhờ thu,
uỷ nhiệm chi, L/C, …đã phát triển nhiều hình thức thanh tốn bằng thẻ.
1.1.2.4. Hoạt động khác
Hoạt động uỷ thác: Hoạt động này rất đa dạng và phong phú về hình thức
cũng như đối tượng. Mục đích của hoạt động này là thu hút một số lượng khách
hàng nhiều nhất đến với ngân hàng.
Hoạt động cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định, sau 1 thời gian nhất định khách hàng phải


12
hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Bên cho thuê cam kết máy móc thiết bị,
phương tiện vận chuyển, … theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu tài
sản thuê. Bên đi thuê được sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận, không được huỷ bỏ hợp đồng trước thời
hạn.
Hoạt động bảo lãnh: là hoạt động ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ
tài chính hộ khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng, đủ nghĩa
vụ với bên yêu cầu bảo lãnh. Hoạt động này mang lại thu nhập cho ngân hàng thơng
qua phí bảo lãnh.
1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của NHTM
1.2.1. Khái quát về DNNVV
1.2.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế có nhiều cách phân loại doanh nghiệp khác nhau nhưng
cách phân loại theo quy mô được xem là phổ biến nhất. Theo cách phân loại này thì
doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp lớn. Theo Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001,

DNNVV được định nghĩa như sau: “DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn kinh doanh khơng q 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 lao động.”
DNNVV bao gồm:
+ Các doanh nghiêp, hợp tác xã, các nhân đăng ký kinh doanh có vốn đăng ký
dưới 10 tỷ đồng
+ Các doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đăng ký kinh doanh có vốn đăng ký
từ 10 tỷ đồng trở lên nhưng có số lao động trung bình hàng năm khơng q 300 lao
động.
- Đối tượng áp dụng
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước


13
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài
+ Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã
+ Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghi định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
- Cơ sở xác định vốn và lao động
+ Vốn đăng ký: Đối với doanh nghiệp nhà nước là vốn điều lệ được Nhà nước
cấp, đối với doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu

+ Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh nghiệp
đã đăng ký với cơ quan quản lý lao động và có tham gia bảo hiểm xã hội (không bao
gồm số lao động doanh nghiệp đăng hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc).
So với trước đây, chỉ tiêu này được nâng lên cho phù hợp với tình hình thực
tế Việt Nam hiện nay. Quy mô của doanh nghiệp dân doanh đã lớn hơn trước: về
vốn từ 5 tỷ đồng được nâng lên 10 tỷ đồng để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
làm ăn lớn, còn số lao động từ 200 người được nâng lên 300 người là nhằm khuyến

khích việc thu hút thêm nhiều lao động đang thiếu việc làm.
Theo Báo cáo của Cục tài chính doanh nghiệp Bộ Tài chính, các DNNVV
chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc. Hàng năm đội ngũ các
doanh nghiệp này đóng góp từ 20% đến 26% GDP. Với sự gia tăng liên tục về số
lượng và tính năng động của mình, các DNNVV đã góp phần quan trọng đối với sự
tăng trưởng của nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và đóng góp đáng kể cho
ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương và cho xuất khẩu.
1.2.1.2. Đặc điểm của DNNVV
Có thể nói, DNNVV là một thực thể kinh tế mang những đặc điểm riêng
không giống bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế. Điều này cũng giải
thích một cách chính xác sự tồn tại và phát triển của các DNNVV trong nền kinh tế.
Chính những đặc điểm đó đã mang lại cho các doanh nghiệp này những ưu thế nhất
định.


14
Ưu điểm của DNNVV
Đầu tiên là quy mô vốn, DNNVV cần số vốn đầu tư ban đầu nhỏ hơn các
doanh nghiệp lớn, do đó các nhà đầu tư dễ lựa chọn loại hình doanh nghiệp này khi
quyết định thành lập công ty. Vốn đầu tư ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn sẽ lớn
hơn vì phần nhiều DNNVV hoạt động trong lĩnh vực thương mại, sản xuất nhỏ nên
sản phẩm dễ tiêu thụ, chu kỳ kinh doanh ngắn, thu hồi vốn nhanh hơn những ngành
khác và nhanh hơn những doanh nghiệp lớn. Do thu hồi được vốn ban đầu bỏ ra
trong thời gian tương đối ngắn nên khả năng quay vòng vốn, tái đầu tư lớn, mở rộng
sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn.
Hoạt động kinh doanh của các DNNVV rất linh hoạt và năng động: Các chủ
doanh nghiệp ln vận động, tìm kiếm các lĩnh vực mà ở đó có sự cạnh tranh chưa
cao song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. DNNVV có khả năng chuyển hướng
kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng kinh doanh nhanh, tăng giảm lao động dễ
dàng và thậm chí việc chuyển địa điểm cũng dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp

lớn. Do đó, họ ln tìm kiếm, phát hiện được những ngành, lĩnh vực, mặt hàng xã
hội đang thiếu, đang cần đầu tư sản xuất; đồng thời không ngừng cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để có ưu thế trong cạnh tranh
và thu được lợi nhuận cao.
Hơn nữa, chính quy mơ nhỏ và vừa cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hoặc bộ máy quản lý khi có sự bất
lợi từ mơi trường kinh doanh, tăng khả năng thích nghi của doanh nghiệp với những
biến động bất lợi từ thị trường.
DNNVV có số nhân cơng ít hơn doanh nghiệp lớn, dây truyền sản xuất khơng
q cồng kềnh nên có thể tận dụng diện tích xây dựng nhà xưởng, cơ sở sản xuất,
làm giảm giá thành sản phẩm, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có tính cạnh tranh cao
hơn.


15
Tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh gọn nhẹ, các quyết định quản lý
được thực hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp dễ dàng. Do đó góp
phần tiết kiệm chi phí quản lý.
Hạn chế của DNNVV
Một đặc điểm nổi bật của các DNNVV là quy mô về vốn bị hạn chế khiến
cho các DNNVV gặp khơng ít khó khăn về nhiều mặt. Ngồi nguồn vốn huy động
từ phía gia đình, bạn bè, việc tiếp cận các nguồn vốn chính thức từ ngân hàng, thị
trường tài chính để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng gặp nhiều trở
ngại do DNNVV thiếu tài sản có giá trị lớn để thế chấp. Do vậy, các DNNVV
thường rơi vào tình trạng thiếu vốn, nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ, các DNNVV
gặp khó khăn trong việc mua sắm trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, vốn ít khiến cho các DNNVV khơng có khả năng trả lương và thưởng cao để
cạnh tranh với các doanh nghiệp vốn lớn nên việc thu hút và giữ chân người lao
động giỏi là vấn đề khó khăn của DNNVV. Quy mơ nhỏ lại ln khó khăn về vốn
nên hầu hết các DNNVV không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chun

mơn cho người lao động.
Các DNNVV thiếu máy móc, trang thiết bị hiện đại với công nghệ cao phục
vụ sản xuất. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ việc thiếu vốn của DNNVV. Trang thiết
bị lạc hậu cộng thêm tay nghề thấp của công nhân là một thách thức rất lớn với các
DNNVV trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Bảng 1.1: Trình độ cơng nghệ của các DNNVV ở Thành phố Hồ Chí
Minh
Đơn vị: %
Loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
CT TNHH, CTCP
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
Tổ chức cá thể

Trình độ cơng nghệ
Hiện đại Trung bình Lạc hậu
11,4
19,4
30
16,7
3,6

53,1
54,8
30,3
33,3
22,8

35,5

25,8
39,7
50
73,6


16

Năng lực quản lý, điều hành của những người đứng đầu trong doanh nghiệp
cũng là 1 vấn đề đáng quan tâm. Do trong các DNNVV, người sở hữu vốn đồng thời
là người quản lý, chủ doanh nghiệp nên hiểu biết về giá trị doanh nghiệp còn hạn
chế, hiểu biết pháp luật trong kinh doanh cũng không được cặn kẽ.
Luôn tiềm ẩn rủi ro trong kinh doanh do các DNNVV còn hạn chế về năng
lực quản lý, về vốn, hơn nữa thị trường của các DNNVV chủ yếu là khu vực các
doanh nghiệp lớn như làm đại lý bán hàng, nhà cung cấp nguyên vật liệu, kênh phân
phối,… Những thi trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến cho
hoạt động của các DNNVV trở nên bấp bênh. Sự cạnh tranh cũng diễn ra rất gay
gắt, thực tế thì đối thủ cạnh tranh lớn nhất của các DNNVV khơng phải là những
doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có cùng quy mơ. Bởi vì, các doanh
nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường được xác định
trước, họ ln tìm kiếm những thị trường có quy mơ lớn, có chiều sâu cịn những thị
trường nhỏ thường bị bỏ qua. Trong khi đó, các DNNVV có số lượng đơng đảo và
đều có mục đích giống nhau là tìm kiếm những thị trường cịn bỏ trống, các thị
trường này quá nhỏ bé để chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho dù đó là những
doanh nghiệp nhỏ nên họ gặp nhiều áp lực về sự thâu tóm, xố sổ từ các doanh
nghiệp lớn.
Một khó khăn nữa là việc thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với nước
ngồi. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta còn ở giai đoạn thấp, trước ngưỡng cửa hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, do trình độ còn hạn chế nên các DNNVV còn bộc lộ
rất nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động. Trốn lậu thuế, một số doanh nghiệp

trốn đăng ký kinh doanh, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, … khi xảy ra tranh
chấp thì bên bị thiệt thường là các DNNVV do năng lực pháp lý và hiểu biết về pháp
luật của các DNNVV cịn hạn chế, khơng nắm bắt kịp thời những thay đổi của thị
trường trong nước và thế giới.
1.2.1.3. Nhu cầu vốn của DNNVV


17
DNNVV có tầm quan trọng khơng nhỏ đối với sự phát triển kinh tế nước nhà.
Vì vậy Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm phát huy đến mức cao
nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế
này. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNVV vẫn gặp nhiều khó khăn và
thử thách làm cản trở q trình phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề vốn đang được
xem là bức xúc nhất . Hiện nay, số lượng DNNVV ở Việt Nam chiếm tới hơn 90%
tổng số doanh nghiệp nhưng vốn vay của các DNNVV chỉ chiếm khoảng 30% tổng
số vốn của các doanh nghiệp. Hầu hết các DNNVV đều có nhu cầu vay vốn để đầu
tư phát triển, cải tiến trang thiết bị khoa học kỹ thuật nhưng đều vướng phải những
hàng rào khó vượt qua về tài sản thế chấp nên khó tiếp cận các nguồn vốn vay.
Vốn của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và vốn nợ, mỗi bộ
phận được cấu thành từ nhiều khoản mục khác nhau tuỳ thuộc vào thành phần kinh
tế. Nguồn vốn của DNNVV dựa phần nhiều vào vốn chủ sở hữu (Vốn chủ sở hữu
bao gồm: vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu).
Vốn góp ban đầu của DNNVV thường chỉ dưới 10 tỷ đồng. Nguồn vốn từ lợi nhuận
không chia rất hạn chế do lợi nhuận không nhiều. Để phát triển nguồn vốn từ phát
hành cổ phiếu, DNNVV cũng gặp khơng ít khó khăn, khó khăn xuất phát từ hạn chế
của cán bộ quản lý trong các DNNVV, phần đông chưa qua đào tạo, việc thiết lập
dự án để chứng minh tính khả thi của cơ hội kinh doanh là một điều khơng dễ. Đối
với các nước có nền kinh tế phát triển thì việc huy động vốn trên thị trường tài chính
rất dễ dàng. Tuy nhiên ở Việt Nam, thị trường tài chính chưa phát triển ổn định và
hồn thiện nên việc khai thác vốn bằng phương thức này cịn gặp nhiều khó khăn.

Vốn vay của các DNNVV nếu có thì đều là vay từ những nguồn khơng chính thức
(như tự thương, gia đình, bạn bè hoặc dựa vào vốn của nhau) với lãi suất cao hơn từ
3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. DNNVV vẫn chưa thực sự chủ động tìm đến
với các NHTM. Tuy nhiên, nguồn vốn vay được từ bạn bè, người thân cũng gây ra
nhiều phiền phức với DNNVV vì khơng tách biệt rõ ràng giữa góp vốn và vay vốn,
do đó dẫn tới nhiều hiểu lầm, xung đột. Còn vốn chủ sở hữu thì bị hạn chế về số


18
lượng và đã chủ yếu được dùng trong đầu tư tài sản cố định ban đầu khi doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động. Tình trạng thiếu vốn sẽ kéo theo nhiều khó khăn hơn
nữa cho doanh nghiệp đó là thiếu máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất
dẫn tới năng suất lao động không cao, chất lượng thành phẩm kém, không đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng. Và khi hàng hố sản xuất ra khơng thể tiêu thụ
thì tình hình tài chính của doanh nghiệp khơng thể khả quan, dễ dẫn tới phá sản
nhanh chóng. Hơn nữa, thiếu vốn sẽ khiến chủ doanh nghiệp không có được những
người quản lý và nhân cơng tài giỏi để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, doanh nghiệp có thể cải thiện được tình hình trên, phát triển sản xuất nếu
được hỗ trợ về vốn. Và tổ chức có thể đáp ứng yêu cầu này của các doanh nghiệp
chính là các NHTM.
1.2.2. Cho vay đối với DNNVV của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay có thể được hiểu là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam
kết là khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Trong quan
hệ vay mượn này, ngân hàng và khách hàng (DNNVV) có hợp đồng vay vốn quy
đinh quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia về: lượng vốn vay, thời hạn vay,
mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo, phương thức trả nợ,…
Cho vay là một nguồn đem lại thu nhập vô cùng quan trọng cho ngân hàng,
đồng thời cũng là một hoạt động tín dụng chủ yếu và khá phổ biến của các ngân
hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động có nhiều rủi ro cần phải đề phịng. Thơng

thường các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đủ vốn cho sản xuất kinh doanh,
nó phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các
doanh nghiệp luôn “khát vốn” và thông thường các ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp
vay vốn nếu doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu về khoản vay đó.
Hoạt động cho vay của ngân hàng có thể xác minh được năng lực tài chính
của một tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Hoạt động cho vay cũng góp phần tác động


19
tới nền kinh tế như làm tăng chi tiêu, thúc đẩy các dự án, phát triển các phương án,
kế hoạch, hướng kinh doanh có hiệu quả đem lại thu nhập cao.
Quan hệ cho vay là quan hệ giữa hai chủ thể, đó là ngân hàng và khách hàng
vay. Mối quan hệ qua lại giữa hai bên trên cơ sở cùng có lợi, khách hàng cần vốn để
thực hiện sản xuất kinh doanh, cịn ngân hàng thì cho vay để thu lợi nhuận.
Đối tượng cho vay của ngân hàng là tổ chức kinh doanh, cá nhân có thể là
cho vay để phục vụ sản xuất hoặc cho vay phục vụ nhu cầu chi tiêu. Các ngân hàng
phải thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, nếu từ chối phải có lý do chính
đáng và trả lời cụ thể bằng văn bản đối với khách hàng. Ở Việt Nam cũng đã có quy
định về đối tượng cho vay của NHTM trong đó có quy định những nhu cầu vốn
khơng được cho vay bao gồm: Mua sắm các tài sản và chi phí hình thành nên tài sản
mà pháp luật cấm mua bán; chuyển nhượng, chuyển đổi thanh tốn các chi phí cho
việc thực hiện giao dịch mà pháp luật cấm, đáp ứng nhu cầu tài chính của các giao
dịch mà pháp luật cấm (theo Quyết định 1627/2001/ QĐ NHNN và Quyết định
127/2005/QĐ NHNN sửa đổi bổ sung của Quyết định 1627)
1.2.2.2. Các hình thức cho vay đối với DNNVV
Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh tốn của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi

và thời hạn thấu chi (có thể phải trả chi phí cam kết cho ngân hàng). Trong q trình
hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ séc… vượt quá số
dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về
tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi

Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này.


20
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đốn dựa vào dự đốn ngân
quỹ song khơng chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi
cho khách hàng trong q trình thanh tốn: Chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục dơn giản, phần lớn
là không có đảm bảo, có thể cấp cho các doanh nghiệp vài ngày trong tháng, vài
tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Hình thức
này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều
đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách
hàng khơng có nhu cầu vay thường xun, khơng có điều kiện để được cấp hạn mức
thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu
thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng
chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy
mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần
thiết. Lãi suất có thể cố định hay thả nổi theo thời điểm tính lãi. Mỗi món vay được

tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả.
Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển
nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối dơn giản, ngân hàng có thể kiểm sốt
từng món vay tách biệt.
Cho vay theo hạn mức


21
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư
tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ hạn khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần, song dư nợ
khơng được vượt q hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch
vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ,
ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay thường xuyên tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ
cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ
thể nên ngân hàng khó kiểm sốt hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có
phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm
sút.
Cho vay luân chuyển

Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi
mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi
doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn
mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng
có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn
trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết
định có cho vay nữa hay khơng tuỳ thuộc mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.


22
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản
thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài
khoản tiền gửi thanh tốn của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập
hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình
thức này, giá trị hàng hố mua vào (có hố đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng)
đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả
cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và
chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong
kho trở thành vật đảm bảo cho các khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. thủ tục cho vay chỉ cần
thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời,
vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng .
Cho vay trả góp

Cho vay trả góp là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền được trả mỗi lần được tính tốn sao cho phù hợp
với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ
thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với khách hàng thơng qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng
đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân


23
hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân
hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm
khuyến khích tiêu thụ hàng hố.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hố
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng
cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao
nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
1.2.2.3. Quy trình cho vay đối với DNNVV
Các bước cơ bản mà các cán bộ tín dụng, các phịng ban có liên quan trong
ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho DNNVV bao gồm:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của tín dụng. Nội dung
chủ yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực
sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở
hữu các tài sản và điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Nội dung phân
tích chủ yếu bao gồm: đánh giá tài sản của DNNVV, đánh giá các khoản nợ, phân
tích luồng tiền, sử dụng các tỷ lệ tài chính, các điều kiện kinh tế.

Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa ngân hàng và khách
hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng 1 khoản tín
dụng trong 1 thời gian và lãi suất xác định. Hợp đồng tín dụng mang tính pháp luật,
xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân
thủ các điều khoản của các luật, quy định. Vì vậy cả ngân hàng và khách hàng đều
cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng gồm
những nội dung chính sau:
- Khách hàng: Họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có)
- Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ vay làm gì


24
- Số lượng tín dụng: là hạn mức tín dụng mà ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác
nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau.
- Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng phải trả,
đồng thời xác định tính chất của lãi suất (cố định hay biến đổi). Nếu lãi suất có thay
đổi phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
- Thời hạn tín dụng: Có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân
hạn, thời gian trả nợ, thời gian trả nợ có thể chia thành nhiều kỳ hạn trả nợ nhỏ.
- Phí: Được tính bằng tỷ lệ % trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều
kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng.
- Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ loại đảm bảo cho các
khoản vay (nếu có) kèm theo các hợp đồng phụ như hợp đồng bảo lãnh, tài sản cố
định, vật tư hàng hố trong kho, các chứng khốn có giá, … Các nội dung quan
trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán,
định giá, bảo hiểm, quyền sử dụng đối với các đảm bảo, người bảo quản,… phải
được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
- Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kỳ hạn giải

ngân. Thường các khoản vay nhỏ và trong thời gian ngắn, NHTM cấp tiền vay 1 lần
vào đầu kỳ. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, NHTM cấp tiền theo
nhiều kỳ hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn.
- Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi, cách thức thanh
toán, ngày trả, cách trả gốc và lãi.
- Các điều kiện khác: bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng
về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay,
nộp báo cáo định kỳ, phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản,
phạt vi phạm hợp đồng.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng


25
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp
tiền hoặc thanh tốn tiền hàng cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp
tín dụng, ngân hàng kiểm sốt khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng
tiến độ khơng? Có dấu hiệu làm ăn thua lỗ không?... Nếu các thông tin ngân hàng
thu thập được trong thời gian này phản ánh theo chiều hướng bất lợi cho khả năng
thu hồi vốn của ngân hàng thì ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải
ngân hoặc yêu cầu bên đi vay bổ sung thêm tài sản đảm bảo, giảm số tiền vay,…
để đảm bảo an tồn tín dụng.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín
dụng đảm bảo hoàn trả đúng và đầy đủ khi đến hạn là những khoản tín dụng an tồn.
Một số trường hợp khách hàng khơng trả hoặc khơng hồn trả đúng hạn, ngân hàng
cần phải xem xét, tìm nguyên nhân để kịp thời đưa ra những quyết định mới liên
quan đến tính an tồn của khoản tín dụng.
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm
cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, tức là gia
hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.

Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa
hoặc làm ăn thua lỗ khơng cịn phương cách cứu chữa, ngân hàng áp dụng phương
án thanh lý để thu hồi khoản nợ bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước
đoạt các khoản tiền.
1.2.2.4. Vai trò của cho vay đối với DNNVV
Đối với DNNVV, vay vốn từ ngân hàng là một kênh huy động vốn vô cùng
quan trọng. Trước hết, DNNVV thành lập thường đơn giản, nhanh chóng với số vốn
khơng nhiều, khả năng tài chính hạn chế, khi thiếu vốn thường đi vay từ các nguồn
phi chính thức. Các nguồn phi chính thức này thường có lãi suất cao hơn nhiều so
với lãi suất ngân hàng và ít bị ràng buộc bởi các quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
vay từ các nguồn này thường phải chịu rủi ro rất lớn. Thực tế, nếu vay vốn từ


×