Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thế giới nhân vật thần linh trong thần thoại Hy Lạp, nhìn từ lý thuyết biểu tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.66 KB, 10 trang )

THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI HY LẠP,
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG
TRẦN HỒNG THÙY LINH
Khoa Ngữ Văn
Tóm tắt: “Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng giải mã các
thành tố văn hóa được sản sinh trong đời sống của con người...” [3]. Từ góc
nhìn này, bài báo tiến hành khám phá văn hóa Hy Lạp cổ đại nói riêng và
văn hóa Phương Tây nói chung qua hệ thống thế giới nhân vật thần linhđược
phân chia theo các gia hệ thần từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp
trong Thần thoại Hy Lạp.
Từ khóa: nhân vật thần linh, Thần thoại Hy Lạp, biểu tượng, văn hóa

1. MỞ ĐẦU THẦN THOẠI HY LẠP VÀ LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG
Thể loại thần thoại xuất hiện từ buổi bình minh của nhân loại. Nó ra đời khi lồi người
chưa có chữ viết, phản ánh cách tư duy sáng tạo, nhìn nhận thế giới quan của con người
về sự xuất hiện của vũ trụ, trời đất, thế giới, con người...trong thời kì mơng muội,
ngun thủy. Do đó, đặc trưng cơ bản nhất của thần thoại là “dùng tưởng tượng và
mượn tưởng tượng để giải thích hiện thực” [1, tr. 99]. Đặc trưng đó đã tạo nên sự tồn tại
của thế giới thần linh và thượng đế. Đây là một sự sáng tạo độc đáo; là phép cộng của
trí tưởng tượng, của ý thức phản kháng, chế ngự thiên nhiên và niềm mơ ước làm chủ
thế giới của con người cổ đại cũng như toàn nhân loại sau này. Và Thần thoại Hy Lạp ra
đời, phát triển dựa trên tinh thần ấy.
Thần thoại Hy Lạp được các nhà nghiên cứu đánh giá là bộ thần thoại có thời gian ra
đời sớm nhất và có quy mơ đồ sộ nhất trong lịch sử thần thoại thế giới. Nó vừa mang
những đặc điểm riêng về đất nước và phản ánh cách nghĩ của người dân Hy Lạp cổ đại
nhưng cũng vừa khát quát được những đặc điểm chung của các bộ thần thoại sau này
như thần thoại Trung Hoa, thần thoại Việt Nam... Tuy nhiên, so với thần thoại các dân
tộc khác, Thần thoại Hy Lạp phong phú và đa dạng hơn, có tính hệ thống, biểu tượng
cao hơn và hay hơn, do “Bản chất của thần thoại Hy Lạp là tự nhiên và chính là các
hình thái xã hội được trí tưởng tượng dân gian chế biến đi một cách có hệ thống, có
nghệ thuật nhưng khơng tự giác...” [1, tr. 99].


Văn hóa, văn học, thần thoại đất nước Hy Lạp được xem là khởi đầu của mọi khởi đầu,
là cái nơi văn minh Châu Âu, Phương Tây nên có thể khẳng định đây là nền văn hóa,
văn học mang tính chất biểu tượng. Mác nhận định: nếu khơng có Hy Lạp – La Mã cổ
đại thì khơng có Châu Âu ngày nay. Việc nghiên cứu thế giới biểu tượng trong Thần
thoại Hy Lạp giúp người đọc mở ra nhiều cánh cửa khám phá mới đối với “tấm gấm vóc
được thêu dệt bằng ngôn từ” này. Sự khám phá đầu tiên là con đường tư duy của người
Hy Lạp cổ đại đối với thế giới quan. Và sự khám phá thứ hai là văn hóa Hy Lạp cổ đại

Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 5-14


6

TRẦN HỒNG THÙY LINH

nói riêng cũng như văn hóa Phương Tây nói chung trong sự đối sánh với văn hóa
Phương Đông.
Biểu tượng symbol (Tiếng Anh) hay symbole (Tiếng Pháp), “khởi nguyên, biểu tượng là
một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi bên giữ một phần,
chủ và khách, người cho vay và người đi vay, hai kẻ hành hương, hai kẻ sắp chia tay
nhau lâu dài...Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây thân tình xưa,
món nợ cũ, tình bạn ngày trước.” [4, tr. 23]. Như vậy, biểu tượng trước hết phải là dấu
hiệu, kí hiệu, tín hiệu. Nó có thể được định nghĩa một cách đơn giản nhất là một cái gì
đó được dùng để đại diện cho một cái khác và có phạm vi tồn tại rất rộng lớn trong nền
văn hóa và đời sống văn hóa của một dân tộc. Hay nói cách khác, chúng ta đang sống
trong một thế giới biểu tượng, truy nguyên nguồn gốc của thế giới biểu tượng đó chính
là truy nguyên nguồn gốc văn hóa.
Vậy thế giới ra đời khi nào ? Ra đời từ hoàn cảnh căn nguyên nào ? Phát triển ra sao ?
Sự ra đời và phát triển của thế giới có những ý nghĩa gì ? Huyền thoại về thần Dớt xuất

phát từ đâu ? Và thế giới của thần Dớt ngự trị có ý nghĩa gì đối với lồi người ?
Việc nghiên cứu “Thế giới nhân vật thần linh trong thần thoại Hy Lạp, nhìn từ lý thuyết
biểu tượng” sẽ là hướng tiếp cận giải mã một số nét văn hóa trên.
2. BIỂU TƯỢNG NHÂN VẬT THẦN LINH NHÌN TỪ CÁC GIA HỆ THẦN TRONG
THÂN THOẠI HY LẠP
Nguyên thủy, trái đất là một cõi hỗn mang, khái niệm hỗn mang này tương ứng với hỗn
nguyên, hỗn độn. Đây là khái niệm miêu tả thế giới thời nguyên sơ, khai thiên lập địa.
Hỗn mang được xem là dạng tồn tại đầu tiên của thế giới, “có trước sự sáng thế, khi mà
trật tự chưa được thiết định cho các yếu tố của thế giới” [4, tr. 453]. Ở dạng thức này,
thế giới hồn tồn vơ chính phủ và bao quanh mặt đất chỉ có bóng tối, sự trống rỗng.
Đây là cái nhìn đầu tiên của lồi người khi biết cảm nhận thế giới. Do đó, người Hy Lạp
cổ đại đã xác lập thế giới bằng sự xuất hiện của các vị thần bước ra từ cõi hỗn mang.
2.1. Gia hệ thần Khaôx
Sự xuất hiện đầu tiên của vị thần Khx đã giải thích cho dạng thức tồn tại đầu tiên của
thế giới hỗn mang, là sự mở đầu cho gia hệ thần thứ nhất.Về mặt ngữ nghĩa, hỗn mang
là lộn xộn, thiếu trật tự. Cịn Khx trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “một vực thẳm đen
ngòm, vô cùng, vô tận, trống rỗng, mơ hồ, vật vờ, phiêu bạt trong khoảng không gian
bao la” [6, tr. 5]. Thần Khaôx đã thiết lập nên gia hệ thần đầu tiên nhưng vẫn chưa có
sự phân định rõ ràng. Tuy nhiên đây vẫn được xem là nơi khơi nguồn sinh sôi nảy nở,
cội nguồn của sự tạo lập cho các gia hệ thần ra đời sau này. Có thế xem Khaôx hay dạng
thức hỗn mang của trái đất là nguồn gốc của mọi nguồn gốc. Trong tất cả những huyền
thoại giải thích sự ra đời, nguồn gốc vũ trụ và sự kết thúc q trình tiến hóa đều xem
vực thẳm là “cái rốn của vũ trụ”, nó có thể nuốt chửng, ngấu nghiến tất cả sinh vật, phá
hủy toàn bộ thế giới cũ để rồi tái tạo một thế giới mới. Trong Thần thoại Hy Lạp, Khaôx
chỉ mang ý nghĩa khởi sinh, không mang ý nghĩa hủy diệt. Từ vực thẳm đen ngòm ấy đã
bắt đầu kiến tạo thế giới, Khaôx đã tự nảy sinh ra đất mẹ Gaia. Điều này phản ánh việc


THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI HY LẠP...


7

con người bắt đầu nhận thức được sự tồn tại của mặt đất và bắt đầu có ý thức sống trên
mặt đất, sinh cơ lập nghiệp bền vững, nuôi dưỡng giống nịi ở đó. Sau này từ đất mẹ
Gaia đã sinh ra bầu trời cùng vạn vật, đánh dấu chế độ mẫu hệ xuất hiện đầu tiên trong
lịch sử nhân loại. Đây là nét văn hóa khơng chỉ của Phương Tây mà của cả thế giới. Cội
nguồn của người Phương Đông cũng xuất phát từ chế độ mẫu hệ thể hiện rõ qua nhân
vật Nữ Oa – vị nữ thần sáng chế trong thần thoại Trung Hoa, “Nữ Oa đã tham chiếu
tướng mạo bản thân sử dụng bùn của Hoàng Hà tạo ra một thân hình con người sau đó
sử dụng pháp thuật để cho bùn đất sét đó có sự sống thành con người thật thụ.” [7].
Từ Khaôx lại sinh ra chốn tối tăm vĩnh cửu Erôbôx và Nix đêm tối mịt mù. Sự xuất hiện
của hai vị thần này phản ánh việc con người nhận thức được bóng đêm luôn bao quanh
mặt đất. Do vậy, con người mơ ước đầu tiên có một luồng ánh sáng soi rọi mặt đất, sưởi
ấm mặt đất lạnh lẽo ? Và phải chăng ngay sau đó, Hêmer – thần ánh sáng trong trẻo đã
được sinh ra (từ cuộc hôn phối đầu tiên của Erôbôx và Nix) và trái đất mới bắt đầu quay
quỹ đạo đầu tiên vòng quanh mặt trời để tạo ra sự luân chuyển ngày – đêm cho trái đất.
Sự xuất hiện lần lượt, thứ tự ấy phần nào cho thấy nét tư duy văn hóa biện chứng, lý trí
của người Phương Tây.
Đứa con cuối cùng của Khaôx là Erôx, vị thần mang sứ mệnh gắn kết con người, vạn
vật bằng tình yêu. Trong học thuyết về nguồn gốc vũ trụ của Ơrphee thì “khởi thủy là
đêm và hư khơng. Đêm đẻ ra một quả trứng, từ quả trứng ấy nở ra thần tình yêu Erox,
trong khi ấy thì Đất và Trời hình thành từ hai nửa vỏ trứng vỡ.” [4, tr. 927]. Có thể thấy
hình dáng của Đất và Trời là hai mảnh trứng vỡ, hình bán cầu, trong đó, thần tình u
Erơx ở vị trí trung tâm giữa hình bán cầu, giữa Đất và Trời. Hay theo quan niệm của
Hésiode thì “có trước mọi vật là vực thẳm; rồi xuất hiện Đất rộng, chỗ nương thân
vững chắc của mn lồi; rồi đến vị thần Erơx...” Dẫu đi theo quan niệm nào thì vai trị
của vị thần Erơx cũng rất lớn, cho thấy người Hy Lạp từ xa xưa đã cảm nhận được tình
u thương và tình u đó được sinh ra bất diệt cùng với vũ trụ. Erôx là người con cuối
cùng của cõi hỗn mang, là sự hòa hợp trong chốn vực thẳm đen tối, hỗn độn và rối rắm,
sinh ra mang sứ mệnh là sợi dây kết nối giữa thần linh, hoa lá cỏ cây và vạn vật. Bên

cạnh đó, tình u cịn mang “ý nghĩa biểu tượng cho sự thống nhất của các mặt đối lập”
[4, tr. 927]. Điều này đã phần nào lí giải được cuộc hôn phối của các nam thần với nữ
thần, các mặt đối lập tiêu biểu là Thần bầu trời Uranơx và nữ thần đất mẹ Gaia sau này,
bởi tính chất “Đất đối lập với trời một cách tượng trưng như bản nguyên thụ động đối
lập với bản nguyên chủ động, khn mặt nữ tính đối với khn mặt nam tính của thế
giới” [4, tr. 287]. Cũng phải nói rằng, thần tình u Erơx đã dẫn dắt, đưa đến sự thành
công cuộc hôn phối của đất trời; mà đất và trời là hai phần của nhận thức bị chia cắt,
tách biệt, hai mảnh vỡ; hai phần nhận thức này nhận ra nhau, kết hợp với nhau qua tình
u thì đó chính là biểu tượng. Do đó, tình u là linh hồn của biểu tượng hay nói cách
khác, tình u là biểu tượng của biểu tượng.
Bước chân tri nhận thế giới tiếp theo của người Hy Lạp cổ đại là sự xuất hiện của vị
thần Uranôx, thần bầu trời xanh ngát, vơ biên được sinh ra trong lịng của nữ thần Đất
mẹ cường tráng và phì nhiêu. Và cũng từ Gaia, những ngọn núi cao vút và biển Pôntôx


8

TRẦN HOÀNG THÙY LINH

mênh mang cũng lần lượt ra đời. Như vậy, đất trời sông núi đều được nảy nở từ trong
lòng đất Gaia nên Đất mang ý nghĩa biểu tượng người mẹ, biểu tượng của sự sản sinh
và phục hồi; những yếu tố tự nhiên đã đầy đủ, kết thúc sứ mệnh của gia hệ thần thứ nhất
do Khaôx làm chủ. Đây là sự kiện đánh dấu kết thúc thời kì hỗn mang của thế giới. Gia
hệ thần thứ hai ra đời và bước thứ hai tri nhận về thế giới của người Hy Lạp cổ đại cũng
được khai mở bằng cánh cửa vô thức, bậc thang thứ nhất trong hệ thống các hình thái ý
thức xã hội qua sự kiện đất mẹ Gaia hôn phối với thần bầu trời Uranôx.
2.2. Gia hệ thần Uranôx và Gaia
Gia hệ thần thứ 2 do thần Bầu trời Uranôx và đất mẹ Gaia đứng đầu, việc Uranôx lên
ngôi thống trị thế giới đánh dấu và phản ánh bước chuyển từ chế độ mẫu hệ (Gaia) sang
chế độ phụ hệ (Uranơx) của lồi người. Bên cạnh đó, cuộc hơn phối đầu tiên này đã đưa

loài người bước vào thời kỳ mang đậm dấu ấn lịch sử thể hiện qua hình thức hơn nhân
quần hơn, tạp hơn của cộng đồng ngun thủy, thời kì của sự vô thức. Biểu hiện của sự
vô thức đầu tiên là cuộc hôn phối cùng huyết thống đầu tiên giữa mẹ và con. Hệ quả của
cuộc hôn phối này cho ra đời 6 nam thần khổng lồ Titan (Ơkeanơx, Côiôx, Hiperiôn,
Dapê, Cronôx và Criôx), 6 nữ thần khổng lồ Titaniđêx (Thetix, Theia, Themix,
Mnêmôxin, Phêbê và Rêa), 3 thần khổng lồ Kiclốp (Arghex, Xtêrôpex và Brôntex) và 3
quỷ thần khổng lồ Hecatonkhia (Côttôx, Briarê và Ghiex). Việc cân bằng định tính và
định lượng thế hệ những đứa con của Gaia và Uranôx hàm ẩn một ý nghĩa biểu tượng.
Số lượng giữa các nam thần và các nữ thần cân bằng. Đây là điểm khác biệt so với văn
hóa Phương Đơng, nếu người Phương Đông tôn trọng tôn ti trật tự, khi xem xét truyện
thần thoại của Việt Nam thì các nam thần chiếm phần lớn và phái nữ rất ít khi được lí
tưởng hóa thành thần thánh (truyện Thần trụ trời có Ơng đếm cát, Ơng tát bể, Ơng kể
sao, Ông trồng cây, Ông xây rú, Ông trụ trời...Hay huyền thoại về Thần Nông – ông tổ
của Nông nghiệp trong Thần thoại Trung Hoa...) thì ngược lại, người Phương Tây tôn
trọng sự đồng đẳng. Số lượng giữa các nhân thần và các quỷ thần cũng được ở trạng
thái cân bằng. Điều này cho thấy việc nhận thức của con người về thế giới là luôn luôn
mong ước vươn đến sự cân bằng, hài hịa. Tuy nhiên do hồn cảnh thời kỳ Uranơx và
Gaia vẫn chưa có một sự thống trị tuyệt đối nào nên đây lại là sự cân bằng không xác
định. Trước hết bàn về số ba, đây là “con số cơ bản, nó biểu thị một trật tự và tinh thần
trong thần linh, trong vũ trụ hoặc trong con người. Nó tổng hợp tính tam – nhất của
một sinh linh” [4, tr. 37]. Cho nên về cơ bản, 6 nam thần Titan, 6 nữ thần Titaniđêx, 3
thần Kiclốp và 3 quỷ thần Hêcatơnkhia đều được hình thành dựa trên con số ba cơ bản.
Sau này, mọi sự vật và sự việc đều được cấu thành dựa trên con số này, nó đã vượt ra
ngồi ranh giới Đơng – Tây và trở thành biểu tượng thế giới. Văn hóa Phương Đơng nói
chung, văn hóa Việt Nam nói riêng ln quan niệm trạng thái của sự trung hòa phải đạt
được bắt đầu từ ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa; lấy con số ba làm chuẩn mực
như “quá tam ba bận”. Quay trở lại Thần thoại Hy Lạp, khi đi sâu hơn, việc chia ba và
chia sáu trong sự sắp xếp 6 nam thần khổng lồ và 6 nữ thần khổng lồ được xếp chung
một nhóm, cịn 3 nhân thần khổng lồ và 3 quỷ thần khổng lồ lại được xếp riêng ra hai
nhóm, hồn tồn mang tính biểu tượng. Như đã phân tích, số ba là con số cân bằng cơ

bản, và sáu lại bằng hai lần ba, nên bộ sáu theo đó cũng chỉ sự cân bằng. Số sáu là sự


THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI HY LẠP...

9

“hồn thiện tiềm tàng, điều đó được biểu thị bằng biểu tượng sáu tam giác đều nội tiếp
trong một vòng tròn” [4, tr. 802]. Soi chiếu khái niệm biểu tượng này trong sự sắp xếp
các vị thần có thể thấy rằng, việc tạo lập sáu nam thần (nữ thần) khổng lồ chính là sự kết
hợp, tổng hịa của ba nhân thần và ba quỷ thần sau đó. Chính điều này đã làm nên bản
chất của tất cả các vị thần linh được sinh ra ở thế hệ sau. Mỗi vị thần đều mang trong
mình một nửa cái thiện và một nửa cái ác, một nửa quyền uy sức mạnh chính nghĩa
(sấm chớp, giông, sét) và một nửa sức mạnh phi nghĩa, kinh hồng. Họ có thể nghiêng
về cái tốt, làm việc thiện và cũng có thể nghiêng về cái ác, sự phản trắc, làm việc đồi
bại, tầm thường. Suy rộng ra đó khơng chỉ là bản chất của thần linh mà đó cịn là bản
chất của con người, bởi lồi người là sản phẩm mang dáng dấp của thần linh. Điều này
có thể được làm sáng tỏ qua tính chất lưỡng phân trong hình tượng thần Dớt, đấng tối
cao cai quản thế giới ở gia hệ thần thứ tư, một vị thần tượng trưng cho sức mạnh quyền
uy, sự điều đặn, luân lý, là người cai quản có quyền phán xét tất cả mọi sự rối ren, lộn
xộn. Tuy nhiên, Dớt cũng nổi tiếng với vô số những cuộc phiêu lưu ái tình với các nữ
thần, tiên nữ trần gian (mặc dù đã có vợ là thần Hêra). Cịn Hêra là vị nữ thần đại diện
cho cuộc sống hạnh phúc hơn nhân gia đình, cho sự sinh nở nhưng ngay trong cuộc
sống hơn nhân của mình, nữ thần Hêra cao cả vẫn ln phải đi canh chừng chồng mình
ngoại tình....Việc lưỡng phân trong tính cách của các vị thần cho thấy, con người nhìn
thấy họ trong các vị thần. Họ tạo ra các vị thần bằng niềm tin, niềm mơ ước lí tưởng
hóa, nâng con người lên một tầm cao nhất định nhưng vẫn chấp nhận sự tồn tại trong
bản chất, tính cách một chút ít của tầm thường, nhỏ nhen, đố kỵ, ghen tng và dục
vọng...Nhưng chính sự lưỡng phân đó lại làm nên sự hồn thiện của một cấu trúc, chỉnh
thể. Nó chỉ có thể tồn tại được khi có sự kết hợp cân bằng như một tam giác bộ sáu “nội

tiếp trong vịng trịn” mà thơi. Vậy từ việc cân đối giữa các nam thần và nữ thần, các
nhân thần và quỷ thần đã lật mở vấn đề “văn hóa Hy Lạp về bản chất là văn hóa của cái
đẹp hài hịa” [1, tr. 95].
Sự vơ thức thứ hai biểu hiện qua hàng loạt các cuộc hôn phối của những vị thần có cùng
chung mẹ Gaia và cha Uranôx, cùng chung huyết tộc. Thế hệ hôn phối này tạo ra hàng
loạt các vị thần, mỗi người cai quản một phần thế giới. Và những công việc, phận sự
của các vị thần trong thời kỳ này đã có phần cụ thể hơn, phong phú hơn so với thời kỳ
hỗn mang, điều này phản ánh một bước tiến mới trong nhận thức của con người. Làn
sóng hơn phối lần này đã cho ra đời thần Mặt trời Hêliôx, thần Mặt trăng Xêlenê, nữ
thần Bình minh Êơx là những hiện thân cụ thể, sinh động của bầu trời Uranôx mênh
mông vơ biên. Hay sự ra đời của ba nghìn con trai là thần sông cai quản mọi con sông
trên mặt đất và ba nghìn con gái Ơkêaniđ là những tiên nữ trú ngụ ở sơng, biển, là sự cụ
thể hóa của biển Pôntôx khởi nguyên bao la bất tận.Và hàng loạt sự ra đời mang ý nghĩa
cụ thể khác. Nhìn chung, về mặt tự nhiên, con người đã bắt đầu nhận thức được nhiều
sự vật xung quanh nhưng đó mới chỉ là bước đầu nhận thức về những hiện tượng cụ thể
như vòm trời, trăng sao... Và về mặt xã hội, ý thức của con người vẫn nằm trong vô
thức mạnh mẽ. Phải đến thế hệ sau của thần Crônôx thì ý thức mới được trỗi dậy một
cách đầy đủ. Ở thời kỳ này, cuộc hôn phối lộn xộn giữa thế hệ các vị thần anh trai – em
gái chung huyết tộc mang ý nghĩa biểu tượng cho một giai đoạn tối tăm của nhân loại.


10

TRẦN HỒNG THÙY LINH

Đây là hiện tượng bán thú tính, nghĩa là một phần con tồn tại và thống trị phần người
trong chỉnh thể con người/nhân thần. Những cuộc hôn phối này được xem là hiện tượng
loạn luân, khiến các đối tượng chỉ kết hợp trong một hệ thống khép kín và “khơng thể
đồng hóa với một đối tượng khác”. Nó “thể hiện tình trạng bị chặn đứng, một cái nút,
một điểm dừng trong quá trình phát triển tinh thần và tâm lý của một xã hội và của một

con người” [4, tr. 523]. Như vậy có thể xem giai đoạn hôn phối của các vị thần chung
huyết thống thời Gaia – Uranôx và giai đoạn xuất hiện hiện tượng loạn luân của loài
người là một, giai đoạn này là một vết nhơ của nhân loại. Tuy nhiên, cách bào chữa duy
nhất đó là do hiện tượng này diễn ra trong sự vơ thức của lồi người. Và trong cõi tối
tăm, mù mờ của vô thức, con người đã cố gắng thốt khỏi nó, vươn ra ngồi để chạm
đến tầm ý thức. Điều này phản ánh phần nào qua việc hai vị thần Titaniđêx là Thêmix
và Mnêmôxin đã “không chịu lấy cùng anh em” nên hai Titan nam thần còn lại phải lấy
hai vị nữ thần khác không cùng huyết thống là Ơribê và nữ thần rạng đông Êôx. Cuộc
hôn phối chứa đầy sự ý thức này đã sinh ra cho thế gian những ngọn gió Tây với tính
nết dịu dàng, ngọn gió Bắc nhanh nhẹn, ngọn gió Nam vui vẻ ấm áp và ngọn gió Đơng
mát mẻ thân thiện, cùng với đó là vơ số ngơi sao lấp lánh. Gió biểu tượng cho “sự thẩm
thấu, phá vỡ và tẩy uế” [4, tr. 362]. Do đó, sự cố gắng và kết quả của cuộc hôn phối
ngoại tộc này đã một phần xóa mờ đi dấu vết loạn luân, tăm tối trong lịch sử nhân loại.
2.3. Gia hệ thần Crônôx và Rêa
Sự kiện của cuộc hôn phối ngoại tộc trên đã manh nha ý thức trong sự tri nhận thế giới
của con người cổ đại. Sự ra đời của gia hệ thần thứ ba do Crônôx và Rêa đứng đầu là
khoảng thời gian đánh dấu bước phát triển ý thức nói trên. Sự ý thức về quy luật của thế
giới và con người thứ nhất được đánh dấu bằng sự kiện thần Crônôx nghe theo lời mẹ
Gaia chém chết cha Uranôx. Đây có thể xem là hành động phản trắc nhưng có ý thức,
mang ý nghĩa biểu trưng cao, phản ánh thời kỳ xã hội nguyên thủy chuyển từ chế độ
mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Hành động trên xuất phát từ việc thần Uranôx đối xử không
công bằng với những đứa con của mình, ơng đã đày những Kiclốp và những
Hêcatônkhia xuống đại ngục Tartar dù họ không hề mang tội lỗi. Điều này phản ánh bài
học đầu tiên về sự cơng bằng để có thể tồn tại mà người Hy Lạp cổ muốn chuyển tải.
Khi máu của Uranôx chảy vào lòng đất mẹ Gaia lại sinh ra một thế hệ đại khổng lồ quái
đản gớm ghiếc, dữ tợn. Nhưng cũng dòng máu ấy khi chảy xuống biển, hòa tan vào
những con sóng bạc đầu lại sinh ra nữ thần Tình u và sắc đẹp Aphrơđitơ. Sự khác biệt
đó có thể lí giải từ góc độ biểu tượng, Đất mang biểu tượng của sự sản sinh sức mạnh,
do đó sự quyết tâm, lòng phản trắc và lòng hận thù trong Crônôx được dồn nén ở lưỡi
hái chém Uranôx và khi máu của Uranôx rơi xuống được đất mẹ nuôi dưỡng đã sinh ra

những đỉnh điểm của sự hận thù. Biểu tượng này của Đất cũng được chứng minh sau
này khi diễn ra cuộc giao chiến của người anh hùng Hêraclex với gã giết người Ăngtê,
“Ăngtê có một điều bí mật như lá bùa hộ mệnh, đó là nhờ thần đất mẹ Gaia...Chính vị
nữ thần này đã ln ln tiếp sức cho đứa con trai của mình, khơng ai có thể chiến
thắng được Ăngte là vì gã gắn bó với thần đất mẹ, chính đất mẹ đã làm hồi sinh khi gã
bị tử thương” [6, tr. 333]. Ăngtê trở thành biểu tượng của sự gắn bó với cội nguồn. Khả
năng ni dưỡng sức mạnh, tái sinh lịng hận thù của đất mẹ Gaia còn được thể hiện sau


THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI HY LẠP...

11

này qua việc năm lần bảy lượt nuôi ý định chống trả lại Dớt, thơng qua việc giải thốt
cho lũ con quỷ thần khổng lồ Ghigantôx bị giam trong địa ngục u tối và các Titan bị
giam trong lòng Đất để họ nổi dậy chống lại trật tự mới do Dớt tạo dựng. Trái lại, Biển
biểu tượng cho động thái của sự sống và là nơi có khả năng làm sạch, tái sinh, biến đổi
sự hận thù. Do đó khi giọt máu hận thù của Uranôx nhỏ xuống biển, những làn sóng bạc
đầu liền tẩy rửa và biến đổi thành tình u và sắc đẹp. Biểu tượng của nước cịn được
chứng minh sau này khi thần Dớt nhận ra loài người đã bắt đầu hư hỏng, khinh miệt
thần thánh thì đấng tối cao này cũng chọn cơn đại hồng thủy để rửa sạch mặt đất, xóa
tan những thói xấu của loài người để tạo ra một giống mới tốt đẹp hơn, trong sạch hơn.
Quay trở lại, chính sự lật đổ, sối ngơi chấn động nói trên đã đưa vị thần thời gian
Crônôx giành lấy quyền cai quản thế giới, xác lập gia hệ thần thứ ba do Crônôx và Rêa
đứng đầu, giai đoạn bắt đầu của sự trỗi dậy ý thức đấu tranh, phản kháng dành chỗ đứng
cai quản thế giới. Sự biểu hiện ý thức thứ hai trong việc tri nhận thế giới là hàng loạt sự
ra đời của các vị thần mang tính cụ thể hóa. Nếu sự ra đời của các vị thần ở giai đoạn vô
thức của Uranơx biểu hiện cho sự cụ thể hóa trong cách tri nhận thiên nhiên, về những
hiện tượng cụ thể, hiển diện trực tiếp thì đến giai đoạn này, sự ra đời của các vị thần là
sự phản ánh cụ thể hóa cuộc sống con người bao gồm số mệnh con người và những hiện

tượng trừu tượng thường nhật trong cuộc sống con người. Ở một bậc cao hơn, trong giai
đoạn ý thức này, chính tư duy biện chứng, lý trí đã khiến nữ thần Đêm tối Nix sinh ra
nữ thần chết Ker, thần báo tử Thanatôx, thần giấc ngủ Hipnơx, thần bất hịa Êrix, thần
già nua, buồn phiền, lừa dối, mệt mỏi, đói khổ, đau thương, cướp bó, hỗn loạn... bởi
bóng tối ln tiềm ẩn những hình thái tiêu cực trên. Đặc biệt sự xuất hiện của ba vị nữ
thần Moirơ cho thấy cách nhìn nhận của con người về cái chết rất mong manh và họ biết
rằng con người hoàn toàn bị phụ thuộc vào sợi chỉ số mệnh. Một nữ thần nắm giữ cuộn
chỉ, một vị đảm nhiệm công việc giám định và vị nữ thần cuối cùng sẽ quyết định cắt
chỉ số mệnh của con người và của cả nhân thần. Từ đây con người đã bắt đầu có sự
nhận thức về cuộc sống của chính mình. Những ước mơ được bất tử hóa, khao khát làm
chủ thế giới, chế ngự vạn vật cũng xuất phát từ giai đoạn ý thức này của con người. Đây
là giai đoạn đánh dấu bước phát triển mới trong cộng đồng nguyên thủy, đánh dấu sự
chuyển biến từ giai đoạn hái lượm sang giai đoạn con người đã biết săn bắn và thuần
dưỡng vật nuôi.
2.4. Gia hệ thần Dớt và Hêra
Gia hệ thần Dớt, đây là giai đoạn kế thừa và phát triển tất cả những ý niệm của các giai
đoạn trước để tổng hòa và đúc kết thành giai đoạn đỉnh điểm, siêu ý thức của loài người.
Ở các giai đoạn trước, thần thánh vẫn bị sợi chỉ số mệnh của ba chị em Moirơ nắm giữ,
họ vẫn đi theo quy luật sống chết như người trần, và chỉ có thể kéo dài tuổi thọ mà
khơng thể cưỡng lại quy luật sống – chết của vạn vật. Nhưng cho đến gia hệ thần Dớt, ý
thức con người phát triển ở một mức cao hơn, và sự xuất hiện của 12 vị thần ngự trị trên
đỉnh núi Ơlympơx bất tử đã cho thấy được ước mơ cao nhất, sự phát triển ý thức cao
nhất của người cổ đại.


12

TRẦN HOÀNG THÙY LINH

Biểu hiện đầu tiên của sự phát triển siêu ý thức, con người cổ đại đã sáng lập nên đỉnh

núi Ơlympơx. Núi nói chung hay đỉnh Ơlympơx nói riêng mang biểu tượng của tâm
điểm, “với những đặc điểm: cao, thẳng đứng, gần trời...Nhìn từ trên xuống, núi là đầu
nhọn của một đường thẳng đứng, là trục của thế giới; nhìn từ dưới lên, từ mặt phẳng
ngang, núi như là một đường thẳng đứng, là đường trục của thế giới, nhưng cũng là cái
thang, là sườn dốc phải trèo lên.” [4, tr. 699]. Do đó, đỉnh Ơlympơx này tương ứng với
cách xây dựng hình thức tổ chức xã hội, hình thái tổ chức nhà nước, thành bang và hình
thức tổ chức này đóng vai trị trung tâm, chi phối tồn bộ những quy định, luật lệ cịn lại
của xã hội Hy Lạp, Phương Tây. Đồng thời, biểu tượng đỉnh Ơlympơx cịn khái qt
được quy luật tơn ti trật tự trong cách sắp xếp các hình thái tổ chức của người Phương
Đơng qua hình ảnh “cái thang” của núi. Mặt khác, việc xây dựng và ngự trị trên đỉnh
Ơlympơx cao nhất của những vị thần linh bất tử còn cho thấy quá trình di chuyển nơi
sinh sống, trú ngụ của con người cổ đại từ trong hang núi ra ngồi ánh sáng, phản ánh
một bước tiến hóa mới của nhân loại.
Biểu hiện thứ hai của sự siêu ý thức thể hiện qua việc sáng tạo hình tượng thần linh.
Những vị thần trong gia hệ thần Dớt được mang ý nghĩa khái quát thành biểu tượng.
Trong các giai đoạn trước, thần không được miêu tả như con người mà chỉ là những
đấng, bậc xa vời; đứng tách biệt với con người. Tuy nhiên, đến giai đoạn Dớt, một trong
những nguyên tắc sáng tạo, xây dựng biểu tượng các vị thần linh là “thần nhân đồng
hình”. Nguyên tắc “thần nhân đồng hình” đi từ quan niệm văn hóa “vạn vật hữu linh”
của con người cổ đại. Theo đó, tất cả những hiện tượng tự nhiên diễn ra đều xuất phát từ
sức mạnh của thần linh ma quỷ. Thiên nhiên vạn vật hứng chịu những gì thì con người
hứng chịu cái ấy và thiên nhiên nhận được những gì thì con người cũng nhận được cái
ấy. Ảnh hưởng hiện tượng bão lũ, động đất, núi lửa thì cây cối ngả nghiêng, sinh linh
chịu nạn, con người cũng khơng thốt khỏi vịng nguy hiểm ấy. Biểu hiện quan niệm
“thần nhân đồng hình”, trong Thần thoại Hy Lạp đã phản ánh mối quan hệ mật thiết
giữa con người và thần linh, qua hình ảnh những vị thần bất tử Ơlympơx chính là tượng
đài lý tưởng hóa của chính con người. Chỉ đến giai đoạn này, hình ảnh và những đặc
điểm tính cách của các vị thần mới gần gũi với con người nhất, khác với các vị thần
hoang sơ, ghê tợn được xây dựng ở giai đoạn trước.
Biểu hiện thứ ba ở việc thần Êpimêthê sáng tạo ra con người và thần Prômêthê đã mang

lửa xuống cho lồi người. Chính sự kiện này và chính ý nghĩa biểu tượng của ngọn lửa
đã đưa giai đoạn của gia hệ thần Dớt bước lên tầm siêu ý thức, phản ánh giai đoạn hiện
thực khi con người đã hồn tồn từ giã thời kỳ mơng muội ngun thủy bước vào thời
kỳ tiến hóa. Biểu tượng của lửa – sự văn minh nhân loại được cụ thể hóa qua nữ thần
Hêxtia, thần bếp - người được Dớt cử trơng coi việc bếp núc. Vì bếp mang biểu tượng
“cho sự sống chung, cho mái nhà, cho sự liên kết giữa người đàn ơng và người đàn bà,
cho tình u, cho tập hợp và sự gìn giữ lửa” [4, tr. 78] nên chiếc bếp lửa đã vơ hình tạo
dựng nên quan hệ hơn nhân một vợ một chồng, đưa lồi người thốt khỏi chế độ quần
hơn, tạp hơn của buổi hồng hoang, bảo đảm sự phát triển ổn định cho tương lai nhân
loại. Sự xuất hiện của chiếc bếp lửa trong gia đình đã phản ánh hình thái tổ chức xã hội
văn minh. Với cấu trúc mỗi gia đình là một tế bào của xã hội thì thời đại Dớt thế giới đã


THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI HY LẠP...

13

mang một hình thái hài hịa ổn định đi theo chiều bếp lửa -> gia đình -> xã hội. Trước
đó, ngọn lửa ban đầu khi được thần Prômêthê mang xuống cho lồi người mới chỉ mang
tính chất là vũ khí bảo vệ con người. Nhưng khi ngọn lửa được xây dựng thành biểu
tượng qua hình ảnh nữ thần Hêxtia thì nó mới phát huy hết tính chất văn minh của
mình. Bên cạnh đó, biểu tượng của nữ thần Hêxtia, hay biểu tượng của chiếc bếp lửa
còn mang một ý nghĩa khác. Đó là sự phản ánh cuộc sống của con người khi có bước
tiến nhảy vọt từ hình thức ăn tươi nuốt sống thời hồng hoang tiền sử, thời con người cịn
duy trì việc săn bắt, hái lượm chuyển sang hình thức ăn chín uống sơi trong thời văn
minh, khi con người đã biết tự chủ động sản xuất lương thực, thực phẩm, đảm bảo được
nhu cầu tồn tại của chính mình, phần nào thốt khỏi sự lệ thuộc vào thiên nhiên. Và ý
nghĩa này cũng là nguồn gốc xuất hiện Đêmêter – thần Nông nghiệp bảo hộ mùa màng,
Hêphaixtôx – thần thợ rèn, Hêrmex – thần Thương nghiệp, Athêna – thần thủ công
nghiệp, Điônixôx – thần rượu nho và công nghiệp trồng nho cùng hàng loạt các vị thần

khác đảm nhiệm từng chức năng ngành nghề sản xuất trong xã hội... Đây là những
phương diện ở các giai đoạn Khaôx, Uranôx, Crônôx chưa hề xuất hiện.
Biểu hiện thứ tư của siêu ý thức là sự sáng tạo trong việc hình thành nên các vị thần
đảm nhiệm những khía cạnh nghệ thuật, tinh thần như Apôllo, Athêna, Aphrôđitơ...Từ
đây nhận thấy, con người cổ đại đã phát hiện và coi trọng yếu tố con người, xem con
người là trung tâm của vũ trụ, dẫn đến lối tư duy lý trí, phân tích biện chứng. Và để
phục vụ cho con người – yếu tố trung tâm của thế giới, người Hy Lạp cổ đã sáng tạo ra
hệ thống các vị thần chuyên đảm nhận trách nhiệm về mặt tinh thần và xã hội cho con
người, từ đó các vị thần đại diện cho tự nhiên dần lui về thứ yếu. Điều này biểu hiện rõ
qua hệ thống 12 vị thần Ơlympơx, đại diện giai đoạn tầm siêu ý thức. Đây là điểm văn
hóa hồn tồn đối lập với văn hóa Việt Nam, văn hóa Phương Đơng. Hệ thống thần linh
trong thần thoại các nước Phương Đơng rất ít khi xuất hiện thần âm nhạc, thần nghệ
thuật như ở Phương Tây mà chỉ có thần Núi, thần Sơng, thần Biển, thần Cây, thần Mưa,
thần Gió... Phương Đơng coi trọng thiên nhiên và con người Phương Đông sống phụ
thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, khơng tự mình làm chủ được như ở Tây phương
(“Trơng trời trông đất trông mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/Trông
cho chân cứng đá mềm/ Trời êm, biển lặn mới yên tấm lòng” – Ca dao Việt Nam).
Trong 12 vị thần Olympơx cịn có Arex – thần chiến tranh. Sự xuất hiện của Arex là sự
cụ thể và văn minh hóa các cuộc hỗn chiến ở những giai đoạn trước và cả trong gia hệ
thần Dớt. Sự xuất hiện này cũng phần nào khu biệt nét văn hóa Đông – Tây. Những
cuộc chiến đấu mang ý nghĩa sinh tồn và bá chủ thế giới xuất hiện từ thời Khaôx đến
thời Dớt đều được cô đọng trong biểu tượng thần chiến tranh Arex từ hình dáng đến tính
cách hung bạo, hiếu chiến, đầy sức mạnh. Điều này phản ánh văn hóa, văn minh
Phương Tây coi trọng sức mạnh, coi trọng qn sự, ở đó ln tồn tại những lị lửa chiến
tranh. Vì thế văn hóa Phương Tây là văn hóa của tính chất động trái ngược với văn hóa
Phương Đơng coi trọng tính chất tĩnh, khép kín, khơng hề có thần chiến tranh mà ln
sống theo quan niệm: huề cả làng. Và khi so sánh văn hóa Phương Tây với văn hóa
Phương Đơng, đỉnh núi Ơlympơx so sánh với “lũy tre làng” ln có phần khập khiễng
nhưng điều đó phần nào giải thích được tính chất khác biệt của hai nền văn hóa.



14

TRẦN HOÀNG THÙY LINH

3. KẾT LUẬN
Hiển diện trong thần thoại là thế giới huyền ảo. Tuy nhiên, bất kì sự huyền ảo nào cũng
dựa trên những yếu tố quan hiện thực. Thần thoại Hy Lạp là bản ghi chép sớm nhất về
thiên nhiên, thế giới, nhân loại qua cách suy nghĩ của con người cổ đại. Vì thế, khi tìm
hiểu, tiếp cận thế giới thần linh trong Thần thoại Hy Lạp từ góc nhìn biểu tượng thì các
hình thái ý thức xã hội, những bước tiến văn minh của loài người được thể hiện rõ. Đó
là những bước đi từ đơn giản đến phức tạp, từ mẫu hệ đến phụ hệ, từ hỗn mang, vô
thức đến siêu ý thức, từ hoang dã đến văn minh của nhân loại, tất cả đều được phản ánh
và kiến giải qua toàn bộ những sự vật, sự việc được miêu tả trong từng gia hệ thần.
Không những vậy, thế giới thần linh trong Thần thoại Hy Lạp cịn mở ra cái nơi văn
minh thắp sáng “cõi hỗn mang” vũ trụ, mang ý nghĩa khái quát, trường tồn. Về sau
những giá trị biểu tượng của thế giới nhân vật thần linh vẫn luôn được các nhà văn, nhà
thơ tái hiện trong những khúc ca.
Đề tài là sự kết hợp hài hịa và hợp lí giữa đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu. Đối tượng là một tác phẩm văn học mang đầy đủ bản ngun cội nguồn văn hóa và
phương pháp nghiên cứu thì có đặc điểm tổng hợp, vạn năng. Qua đó việc tìm hiểu văn
hóa Hy Lạp, văn hóa Phương Tây qua biểu tượng thế giới thần linh trong Thần thoại Hy
Lạp là con đường tối ưu để truy nguyên nguồn gốc, bản chất và tiến trình phát triển văn
hóa nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]

[3]
[4]

[5]
[6]
[7]

Lê Nguyên Cẩn (2014). Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị
Hồng, Nguyễn Văn Chính, Phùng Văn Tửu (2012). Văn học Phương Tây, NXB Giáo
dục Việt Nam.
Đinh Hồng Hải (2014). Nghiên cứu biểu tượng, một số hướng tiếp cận lí thuyết, NXB
Thế giới, Hà Nội.
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002). Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB
Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du.
Jean – Francois Dortier (Trung Phương dịch), Những vấn đề tư duy Phương Đông.
Việt Thanh, Văn Trọng, Vương Đăng (biên soạn) (2011), Thần thoại Hy Lạp, NXB
Văn hóa thơng tin.
Từ điển Wikipedia: mục Nữ Oa.

TRẦN HỒNG THÙY LINH
SV lớp Văn 4D, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: 0120 610 5160, Email:



×